Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây

Giải Sách Bài Tập Lịch Sử 8 Bài 21: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

    1. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Khối phát xít hình thành sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới bao gồm các nước

    A. Anh- Pháp- Mĩ.

    B. Anh- Pháp- Nga

    C. Đức- I-ta-li-a- Nhật Bản

    D. Anh- Pháp- Đức-Mĩ

    Đáp án C

    2. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc càng thêm sâu sắc, nhưng giữa các nước đế quốc, phát xít lại có một điểm chung là

    A. đều đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô

    B. đểu coi Liên Xô là kẻ thù tiêu diệt

    C. đều tập trung sức mạnh phát triển kinh tế và quân sự tấn công Liên Xô

    D. đều thực hiện đường lối thoả hiệp , nhượng bộ Liên Xô

    Đáp án B

    3. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Trong những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai so với Chiến tranh thế giới thứ nhất có điểm khác là

    A. Do mâu thuẫn về thi trường và thuộc địa giữa các nước đế quốc

    B. Có sự hình thành hai khối đế quốc đối lập nhau

    C. Đức là lò lửa gây ra chiến tranh

    D. Do hậu quả của đại khung hoảng kinh tế- xã hội.

    Đáp án D

    4. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Chính sách Anh- Pháp- Mĩ trước hành động ráo riết chuẩn bị chiến tranh của khối phát xít là

    A. tập trung, không can thiệp vào bất cứ hoạt động nào xảy ra ngoài lãnh thổ nước mình.

    B. Thoả hiệp, nhượng bộ khối phát xít nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô.

    C. Kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít, bao vệ hoà bình thế giới

    D. chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh với khối phát xít để bảo vệ thị trường và thuộc địa của mình.

    Đáp án B

    5. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Mĩ tham ra chiến tranh thế giới thứ hai khi

    A. Đức đánh chiếm 1 loạt các nước Châu Âu( trừ Anh và hai nước trung lập )

    B. Đức tấn công Liên Xô

    C. Nhật Bản tấn công hạm đội Mĩ ở Trân Châu Cảng

    D. Nhật Bản chiếm vùng Đông Nam Á và một số đảo ở Thái Bình Dương

    Đáp án C

    6. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập nhằm

    A. Doàn kết và tập hợp các lực lượng chống phát xít trên toàn thế giới để tiểu diệt chủ nghĩa phát xít

    B. tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ ở Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa Phát xít

    C. tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ ở các nước đế quốc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.

    D. Đoàn kết và tập hợp giai cấp công nhân trên thế giới đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

    Đáp án A

    7. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Sự kiến đánh dấu bước ngoặt của cuộc chiến tranh là

    A. Liên Xô tham ra chiến tranh

    B. Mĩ tham ra chiến tranh

    C. Hồng quân Liên Xô phản công quân Đức tại Xta-lin-grat

    D. Hồng quân Liên Xô phản công quân Đức tại tại vòn cung Cuốc-xcơ

    Đáp án C

    1. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Khối phát xít hình thành sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới bao gồm các nước

    A. Anh- Pháp- Mĩ.

    B. Anh- Pháp- Nga

    C. Đức- I-ta-li-a- Nhật Bản

    D. Anh- Pháp- Đức-Mĩ

    Đáp án C

    2. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc càng thêm sâu sắc, nhưng giữa các nước đế quốc, phát xít lại có một điểm chung là

    A. đều đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô

    B. đểu coi Liên Xô là kẻ thù tiêu diệt

    C. đều tập trung sức mạnh phát triển kinh tế và quân sự tấn công Liên Xô

    D. đều thực hiện đường lối thoả hiệp , nhượng bộ Liên Xô

    Đáp án B

    3. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Trong những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai so với Chiến tranh thế giới thứ nhất có điểm khác là

    A. Do mâu thuẫn về thi trường và thuộc địa giữa các nước đế quốc

    B. Có sự hình thành hai khối đế quốc đối lập nhau

    C. Đức là lò lửa gây ra chiến tranh

    D. Do hậu quả của đại khung hoảng kinh tế- xã hội.

    Đáp án D

    4. (trang 72 SBT Lịch Sử 8): Chính sách Anh- Pháp- Mĩ trước hành động ráo riết chuẩn bị chiến tranh của khối phát xít là

    A. tập trung, không can thiệp vào bất cứ hoạt động nào xảy ra ngoài lãnh thổ nước mình.

    B. Thoả hiệp, nhượng bộ khối phát xít nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô.

    C. Kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít, bao vệ hoà bình thế giới

    D. chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh với khối phát xít để bảo vệ thị trường và thuộc địa của mình.

    Đáp án B

    5. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Mĩ tham ra chiến tranh thế giới thứ hai khi

    A. Đức đánh chiếm 1 loạt các nước Châu Âu( trừ Anh và hai nước trung lập )

    B. Đức tấn công Liên Xô

    C. Nhật Bản tấn công hạm đội Mĩ ở Trân Châu Cảng

    D. Nhật Bản chiếm vùng Đông Nam Á và một số đảo ở Thái Bình Dương

    Đáp án C

    6. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập nhằm

    A. Doàn kết và tập hợp các lực lượng chống phát xít trên toàn thế giới để tiểu diệt chủ nghĩa phát xít

    B. tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ ở Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa Phát xít

    C. tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ ở các nước đế quốc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.

    D. Đoàn kết và tập hợp giai cấp công nhân trên thế giới đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

    Đáp án A

    7. (trang 73 SBT Lịch Sử 8): Sự kiến đánh dấu bước ngoặt của cuộc chiến tranh là

    A. Liên Xô tham ra chiến tranh

    B. Mĩ tham ra chiến tranh

    C. Hồng quân Liên Xô phản công quân Đức tại Xta-lin-grat

    D. Hồng quân Liên Xô phản công quân Đức tại tại vòn cung Cuốc-xcơ

    Đáp án C

    Bài tập 2. (trang 73, 74 SBT Lịch Sử 8): Hãy điền chữ Đ(đúng) hoặc chứ S(sai) vào ô [ ] trước các câu sau

    1. [ ] những mâu thuẫn về quyền lợi, thị trường và thuộc địa giữa các nước đế quốc sau chiến tranh thế giới thứ nhất là nguyên nhân sâu xa dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ hai.

    2. [ ] với sự thoả hiệp của Anh, Pháp đã ngăn cản được sự tấn công thôn tính Châu Âu của Phát xít Đức.

    3. [ ] giai đoạn đầu, Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, từ khi Liên Xô tham chiến trở thành cuộc chiến tranh chính nghĩa của lực lượng Đồng minh, đứng đầu là Liên Xô, chống chủ nghĩa Phát xít, giải phóng dân tộc.

    4. [ ] sau khi chiến thắng Hông Quân Liên Xô ở Xta-lin-grát (2-1943), phát xít Đức đã kí văn kiện đầu hàng Đông Minh không điều kiện.

    5. [ ] Việc Mĩ ném bom nguyên tử huỷ diệt hai thành phố ở Nhật Bản đã quyết định việc Nhật Bản phải đầu hàng đồng minh không điều kiện.

    Lời giải:

    Đúng 1,3 ; sai 2,4,5

    Bài tập 2. (trang 73, 74 SBT Lịch Sử 8): Hãy điền chữ Đ(đúng) hoặc chứ S(sai) vào ô [ ] trước các câu sau

    1. [ ] những mâu thuẫn về quyền lợi, thị trường và thuộc địa giữa các nước đế quốc sau chiến tranh thế giới thứ nhất là nguyên nhân sâu xa dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ hai.

    2. [ ] với sự thoả hiệp của Anh, Pháp đã ngăn cản được sự tấn công thôn tính Châu Âu của Phát xít Đức.

    3. [ ] giai đoạn đầu, Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, từ khi Liên Xô tham chiến trở thành cuộc chiến tranh chính nghĩa của lực lượng Đồng minh, đứng đầu là Liên Xô, chống chủ nghĩa Phát xít, giải phóng dân tộc.

    4. [ ] sau khi chiến thắng Hông Quân Liên Xô ở Xta-lin-grát (2-1943), phát xít Đức đã kí văn kiện đầu hàng Đông Minh không điều kiện.

    5. [ ] Việc Mĩ ném bom nguyên tử huỷ diệt hai thành phố ở Nhật Bản đã quyết định việc Nhật Bản phải đầu hàng đồng minh không điều kiện.

    Lời giải:

    Đúng 1,3 ; sai 2,4,5

    Bài tập 3. (trang 74 SBT Lịch Sử 8): Hãy hoàn thiện bảng sau về những sự kiện chính về Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

    Thời gian Sự kiện chính
    Phát xít Đức tấn công Ba Lan
    Ngày 3-9-1939
    Phát xít Đức tấn công Liên Xô
    Ngày 7-12-1941
    Quân I-ta-li-a tấn công Ai Cập. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới
    Tháng 1-1942
    Hồng quân Liên Xô tấn công ở Xta-lin-grát, tạ nên bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện của cuộc chiến tranh thế giới.
    Tháng 5-1953
    Liên quân Mĩ-Anh đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu.
    Ngày 9-5-1945
    Ngày 6 và 9-8-1945
    Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

    Lời giải:

    Thời gian Sự kiện chính
    9-1939 đến 9-1940 Phát xít Đức tấn công Ba Lan
    Ngày 3-9-1939 Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
    22-6-1941 Phát xít Đức tấn công Liên Xô
    Ngày 7-12-1941 Nhật-Bản tấn công Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng
    Tháng 09/1940 Quân I-ta-li-a tấn công Ai Cập. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới
    Tháng 1-1942 Tại Oasinhtơn đã kí kết bản“Tuyên bố Liên hợp quốc” của 26 nước
    17-7-1942 đến 2-2-1953 Hồng quân Liên Xô tấn công ở Xta-lin-grát, tạ nên bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện của cuộc chiến tranh thế giới.
    Tháng 5-1953
    6-6-1944 Liên quân Mĩ-Anh đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu.
    Ngày 9-5-1945
    Ngày 6 và 9-8-1945 Mĩ ném bom xuống Hiroshima Nhat Bản
    Ngày 15-8-1945 Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

    Bài tập 3. (trang 74 SBT Lịch Sử 8): Hãy hoàn thiện bảng sau về những sự kiện chính về Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

    Thời gian Sự kiện chính
    Phát xít Đức tấn công Ba Lan
    Ngày 3-9-1939
    Phát xít Đức tấn công Liên Xô
    Ngày 7-12-1941
    Quân I-ta-li-a tấn công Ai Cập. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới
    Tháng 1-1942
    Hồng quân Liên Xô tấn công ở Xta-lin-grát, tạ nên bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện của cuộc chiến tranh thế giới.
    Tháng 5-1953
    Liên quân Mĩ-Anh đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu.
    Ngày 9-5-1945
    Ngày 6 và 9-8-1945
    Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

    Lời giải:

    Thời gian Sự kiện chính
    9-1939 đến 9-1940 Phát xít Đức tấn công Ba Lan
    Ngày 3-9-1939 Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
    22-6-1941 Phát xít Đức tấn công Liên Xô
    Ngày 7-12-1941 Nhật-Bản tấn công Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng
    Tháng 09/1940 Quân I-ta-li-a tấn công Ai Cập. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới
    Tháng 1-1942 Tại Oasinhtơn đã kí kết bản“Tuyên bố Liên hợp quốc” của 26 nước
    17-7-1942 đến 2-2-1953 Hồng quân Liên Xô tấn công ở Xta-lin-grát, tạ nên bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện của cuộc chiến tranh thế giới.
    Tháng 5-1953
    6-6-1944 Liên quân Mĩ-Anh đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu.
    Ngày 9-5-1945
    Ngày 6 và 9-8-1945 Mĩ ném bom xuống Hiroshima Nhat Bản
    Ngày 15-8-1945 Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

    Bài tập 4. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Trình bày nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

    Lời giải:

    Lý do dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai khác nhau trong mỗi nơi giao chiến. Tại châu Âu, lý do nằm xung quanh hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất: Đức muốn tránh phải tuân theo các điều kiện trong Hòa ước Versailles, chủ nghĩa phát xít ngày càng phổ biến và các lãnh tụ chủ nghĩa này có tham vọng cao, trong khi tình hình không ổn định tại Trung Âu và Đông Âu sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã làm chiến tranh dễ xảy ra.

    Tại Thái Bình Dương, ý định biến thành cường quốc số một của Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ chiếm Trung Quốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được, cuối cùng đã cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.

    Bài tập 4. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Trình bày nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

    Lời giải:

    Lý do dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai khác nhau trong mỗi nơi giao chiến. Tại châu Âu, lý do nằm xung quanh hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất: Đức muốn tránh phải tuân theo các điều kiện trong Hòa ước Versailles, chủ nghĩa phát xít ngày càng phổ biến và các lãnh tụ chủ nghĩa này có tham vọng cao, trong khi tình hình không ổn định tại Trung Âu và Đông Âu sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã làm chiến tranh dễ xảy ra.

    Tại Thái Bình Dương, ý định biến thành cường quốc số một của Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ chiếm Trung Quốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được, cuối cùng đã cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.

    Bài tập 5. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Nêu tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai

    Lời giải:

    Khi Liên Xô chưa tham gia thì cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với cả hai bên tham chiến.

    Nhưng khi Liên Xô tham gia thì tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi, đối với liên Xô thì chính nghĩa còn đối với các nước phát xít thì vô nghĩa.

    Bài tập 5. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Nêu tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai

    Lời giải:

    Khi Liên Xô chưa tham gia thì cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với cả hai bên tham chiến.

    Nhưng khi Liên Xô tham gia thì tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi, đối với liên Xô thì chính nghĩa còn đối với các nước phát xít thì vô nghĩa.

    Bài tập 6. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Liên Xô có vai trò như thế nào trong chiến tranh thế giới thứ hai ?

    Lời giải:

    Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra ngày 1-9-1939 khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Sau khi chiếm hầu hết châu Âu, rạng sáng ngày 22-6-1941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Theo kế hoạch “Bacbarôt”, phát xít Đức hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Liên Xô và “bắt thế giới đầu hàng”.

    Ý thức được điều đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân, Hồng quân Liên Xô sẵn sàng đương đầu với chủ nghĩa phát xít, không những vì nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc mà còn vì sự sống còn của toàn nhân loại. Sự thật lịch sử đã chứng minh: quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

    1) Hồng quân Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng lớn nhất của chiến tranh và tiêu diệt đại bộ phận lực lượng phát xít trên mặt trận Xô – Đức

    Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến sự diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Bắc Phi, mặt trận Xô – Đức, mặt trận Thái Bình Dương… Nhìn chung, mặt trận nào cũng gay go, phức tạp và kèm theo những tổn thất vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, nếu xét về trọng tâm chiến lược của quân đội phát xít, về cường độ chiến tranh và tác dụng quyết định của các chiến dịch đối với kết quả cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến tranh thì mặt trận Xô – Đức được xếp ở vị trí đầu tiên.

    Mặt trận Xô – Đức chính thức mở màn ngày 22-6-1941. Vào thời điểm đó tổng số quân của lực lượng vũ trang Đức là 8,5 triệu người và được biên chế thành 214 sư đoàn, trong đó 190 sư đoàn được phái sang mặt trận Xô – Đức (5,5 triệu quân). Tiềm lực quân sự của phát xít Đức cũng tăng lên nhanh chóng. Đến giữa năm 1941 Đức tập trung tại mặt trận phía Đông 10.000 máy bay và gần 6.000 xe tăng.

    Chính tại mặt trận Xô – Đức, quân đội phát xít đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn về người và vật chất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai lên tới gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô – Đức là 10 triệu người.

    Một khối lượng khổng lồ vũ khí, quân trang, quân dụng bị phá hủy hoặc bị tịch thu: 48.000 xe tăng, 77.000 máy bay và hàng triệu vũ khí các loại. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận Xô – Đức mang tính quyết định đến toàn bộ kết quả của chiến tranh, đánh gục hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức, tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

    2) Chiến thắng của quân đội Liên Xô làm thay đổi cục diện chiến tranh góp phần giành thắng lợi cho các lực lượng chống phát xít

    Trong những trận giáp chiến liên tục kéo dài 5 tháng rưỡi vào mùa hè và thu năm 1941, Hồng quân Liên Xô đã làm thất bại kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức và buộc chúng chuyển sang thế phòng thủ với những tổn thất lớn lao: gần 403.000 quân bị giết, bị thương và bị bắt làm tù binh.

    Trận đánh ở cửa ngõ Mátxcơva mùa đông 1941 – 1942 là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 30-9-1941 phát xít Đức huy động một lực lượng đông đảo gồm 1,8 triệu quân, 1.700 xe tăng, 14.000 đại bác và súng cối, gần 1.000 máy bay chiến đấu đánh vào Mátxcơva.

    Mọi tầng lớp dân chúng Mátxcơva cùng nhất loạt đứng lên đánh trả quân xâm lược. Tổn thất của phát xít Đức lên tới gần 400.000 người. Chiến thắng ở Mátxcơva làm thay đổi cán cân lực lượng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai theo hướng có lợi cho các lực lượng Đồng minh chống phát xít và làm cho uy tín của Liên Xô được tăng cao.

    Từ giữa năm 1942 đến đầu 1943 những trận đánh ác liệt kéo dài 6 tháng ở Xtalingrát đã làm cho phát xít Đức trở nên khốn quẫn hơn. Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1/4 tổng số quân địch trên toàn bộ mặt trận Xô – Đức lúc đó: 22 sư đoàn tinh nhuệ bị xóa sổ, 1.700.000 tên địch bị tiêu diệt, 300.000 binh lính và sĩ quan bị bắt làm tù binh. 24.000 khẩu đại bác, 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay Đức bị tiêu diệt. Chiến dịch Xtalingrát đánh dấu bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô cũng như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

    Mùa hè năm 1943 diễn ra trận đánh lớn ở vòng cung Cuốcxcơ. Tại đây, hai bên tập trung tới 4 triệu quân, 69.000 đại bác và súng cối, 13.000 xe tăng, 11.000 máy bay. Sau 50 ngày đêm chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đập tan cuộc tấn công chiến lược của địch, tiêu diệt nửa triệu quân, 3.000 máy bay, 1.500 xe tăng cùng nhiều vũ khí khác.

    Sau chiến dịch Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng hoàn toàn đất nước Xô viết, tiến tới biên giới phía Tây. Mãi đến ngày 6-6-1944 khi quân đội phát xít Đức bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Liên Xô và Hồng quân Liên Xô bắt đầu chiến dịch giải phóng lãnh thổ các nước Đông Âu, truy quét phát xít Đức đến tận sào huyệt của chúng thì liên quân Anh – Mỹ mới vội vàng mở “Mặt trận thứ hai” (chiến dịch Ôvéclô) do tướng Đ.Aixenhao chỉ huy, chia sẻ gánh nặng chiến tranh với Liên Xô. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gồm khoảng 1,5 triệu người để chiến đấu với 560.000 quân phát xít Đức. Trong khi đó, tại mặt trận phía Đông, Liên Xô đã phải huy động tới 4,5 triệu người để chống lại 5,5 triệu quân phát xít Đức.

    Cuộc đổ bộ vào Noócmăngđi và các cuộc tiến công sau đó của quân đội Anh – Mỹ vào Pháp và Bỉ cũng là chiến dịch có ý nghĩa lớn về chính trị và chiến lược. Nhưng không thể đánh giá quá cao vai trò của chiến dịch Ôvéclô và ảnh hưởng của nó đối với diễn biến sau này, cũng như đối với việc kết thúc của thế chiến thứ hai được. Điều kiện cần thiết chủ yếu cho thắng lợi của chiến dịch này là phát xít Đức đã mất khả năng chi viện cho chiến trường Tây Âu.

    Chúng đã bị suy yếu vì những tổn thất nặng nề trong các trận đánh ở mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô. Chính Sớc-sin, một người chống cộng sản điên cuồng và hết sức thù ghét Liên Xô, cũng đã phải tuyên bố ở hạ nghị viện Anh ngày 28-9-1944 rằng: “Chính quân đội Nga đã rút ruột bộ máy chiến tranh của Đức và hiện nay đang kìm lại trên chiến trường của họ một bộ phận lực lượng địch rất lớn”.

    Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực… của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh – Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất, bao gồm: 9.600 khẩu đại bác (2%), 18.700 máy bay (12%), 10.800 xe tăng (l0,4%), 400.000 ô tô, một số đầu máy xe lửa, nhiên liệu, khí tài thông tin, thuốc men, lương thực…

    Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước Đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là Hồng quân đã chặn đứng quân đội phát xít Đức và bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1941, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ, Canada và Anh vào giai đoạn 1943-l945, khi nền công nghiệp của Liên Xô đã sản xuất được nhiều hơn của Đức.

    Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.

    Bài tập 6. (trang 75 SBT Lịch Sử 8): Liên Xô có vai trò như thế nào trong chiến tranh thế giới thứ hai ?

    Lời giải:

    Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra ngày 1-9-1939 khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Sau khi chiếm hầu hết châu Âu, rạng sáng ngày 22-6-1941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Theo kế hoạch “Bacbarôt”, phát xít Đức hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Liên Xô và “bắt thế giới đầu hàng”.

    Ý thức được điều đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân, Hồng quân Liên Xô sẵn sàng đương đầu với chủ nghĩa phát xít, không những vì nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc mà còn vì sự sống còn của toàn nhân loại. Sự thật lịch sử đã chứng minh: quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

    1) Hồng quân Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng lớn nhất của chiến tranh và tiêu diệt đại bộ phận lực lượng phát xít trên mặt trận Xô – Đức

    Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến sự diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Bắc Phi, mặt trận Xô – Đức, mặt trận Thái Bình Dương… Nhìn chung, mặt trận nào cũng gay go, phức tạp và kèm theo những tổn thất vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, nếu xét về trọng tâm chiến lược của quân đội phát xít, về cường độ chiến tranh và tác dụng quyết định của các chiến dịch đối với kết quả cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến tranh thì mặt trận Xô – Đức được xếp ở vị trí đầu tiên.

    Mặt trận Xô – Đức chính thức mở màn ngày 22-6-1941. Vào thời điểm đó tổng số quân của lực lượng vũ trang Đức là 8,5 triệu người và được biên chế thành 214 sư đoàn, trong đó 190 sư đoàn được phái sang mặt trận Xô – Đức (5,5 triệu quân). Tiềm lực quân sự của phát xít Đức cũng tăng lên nhanh chóng. Đến giữa năm 1941 Đức tập trung tại mặt trận phía Đông 10.000 máy bay và gần 6.000 xe tăng.

    Chính tại mặt trận Xô – Đức, quân đội phát xít đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn về người và vật chất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai lên tới gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô – Đức là 10 triệu người.

    Một khối lượng khổng lồ vũ khí, quân trang, quân dụng bị phá hủy hoặc bị tịch thu: 48.000 xe tăng, 77.000 máy bay và hàng triệu vũ khí các loại. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận Xô – Đức mang tính quyết định đến toàn bộ kết quả của chiến tranh, đánh gục hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức, tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

    2) Chiến thắng của quân đội Liên Xô làm thay đổi cục diện chiến tranh góp phần giành thắng lợi cho các lực lượng chống phát xít

    Trong những trận giáp chiến liên tục kéo dài 5 tháng rưỡi vào mùa hè và thu năm 1941, Hồng quân Liên Xô đã làm thất bại kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức và buộc chúng chuyển sang thế phòng thủ với những tổn thất lớn lao: gần 403.000 quân bị giết, bị thương và bị bắt làm tù binh.

    Trận đánh ở cửa ngõ Mátxcơva mùa đông 1941 – 1942 là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 30-9-1941 phát xít Đức huy động một lực lượng đông đảo gồm 1,8 triệu quân, 1.700 xe tăng, 14.000 đại bác và súng cối, gần 1.000 máy bay chiến đấu đánh vào Mátxcơva.

    Mọi tầng lớp dân chúng Mátxcơva cùng nhất loạt đứng lên đánh trả quân xâm lược. Tổn thất của phát xít Đức lên tới gần 400.000 người. Chiến thắng ở Mátxcơva làm thay đổi cán cân lực lượng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai theo hướng có lợi cho các lực lượng Đồng minh chống phát xít và làm cho uy tín của Liên Xô được tăng cao.

    Từ giữa năm 1942 đến đầu 1943 những trận đánh ác liệt kéo dài 6 tháng ở Xtalingrát đã làm cho phát xít Đức trở nên khốn quẫn hơn. Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1/4 tổng số quân địch trên toàn bộ mặt trận Xô – Đức lúc đó: 22 sư đoàn tinh nhuệ bị xóa sổ, 1.700.000 tên địch bị tiêu diệt, 300.000 binh lính và sĩ quan bị bắt làm tù binh. 24.000 khẩu đại bác, 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay Đức bị tiêu diệt. Chiến dịch Xtalingrát đánh dấu bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô cũng như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

    Mùa hè năm 1943 diễn ra trận đánh lớn ở vòng cung Cuốcxcơ. Tại đây, hai bên tập trung tới 4 triệu quân, 69.000 đại bác và súng cối, 13.000 xe tăng, 11.000 máy bay. Sau 50 ngày đêm chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đập tan cuộc tấn công chiến lược của địch, tiêu diệt nửa triệu quân, 3.000 máy bay, 1.500 xe tăng cùng nhiều vũ khí khác.

    Sau chiến dịch Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng hoàn toàn đất nước Xô viết, tiến tới biên giới phía Tây. Mãi đến ngày 6-6-1944 khi quân đội phát xít Đức bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Liên Xô và Hồng quân Liên Xô bắt đầu chiến dịch giải phóng lãnh thổ các nước Đông Âu, truy quét phát xít Đức đến tận sào huyệt của chúng thì liên quân Anh – Mỹ mới vội vàng mở “Mặt trận thứ hai” (chiến dịch Ôvéclô) do tướng Đ.Aixenhao chỉ huy, chia sẻ gánh nặng chiến tranh với Liên Xô. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gồm khoảng 1,5 triệu người để chiến đấu với 560.000 quân phát xít Đức. Trong khi đó, tại mặt trận phía Đông, Liên Xô đã phải huy động tới 4,5 triệu người để chống lại 5,5 triệu quân phát xít Đức.

    Cuộc đổ bộ vào Noócmăngđi và các cuộc tiến công sau đó của quân đội Anh – Mỹ vào Pháp và Bỉ cũng là chiến dịch có ý nghĩa lớn về chính trị và chiến lược. Nhưng không thể đánh giá quá cao vai trò của chiến dịch Ôvéclô và ảnh hưởng của nó đối với diễn biến sau này, cũng như đối với việc kết thúc của thế chiến thứ hai được. Điều kiện cần thiết chủ yếu cho thắng lợi của chiến dịch này là phát xít Đức đã mất khả năng chi viện cho chiến trường Tây Âu.

    Chúng đã bị suy yếu vì những tổn thất nặng nề trong các trận đánh ở mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô. Chính Sớc-sin, một người chống cộng sản điên cuồng và hết sức thù ghét Liên Xô, cũng đã phải tuyên bố ở hạ nghị viện Anh ngày 28-9-1944 rằng: “Chính quân đội Nga đã rút ruột bộ máy chiến tranh của Đức và hiện nay đang kìm lại trên chiến trường của họ một bộ phận lực lượng địch rất lớn”.

    Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực… của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh – Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất, bao gồm: 9.600 khẩu đại bác (2%), 18.700 máy bay (12%), 10.800 xe tăng (l0,4%), 400.000 ô tô, một số đầu máy xe lửa, nhiên liệu, khí tài thông tin, thuốc men, lương thực…

    Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước Đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là Hồng quân đã chặn đứng quân đội phát xít Đức và bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1941, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ, Canada và Anh vào giai đoạn 1943-l945, khi nền công nghiệp của Liên Xô đã sản xuất được nhiều hơn của Đức.

    Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.

    Câu 1. Hãy cho biết ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917

    Lời giải:

    – Đối với nước Nga: Làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh đất nước và số phận hàng triệu con người, đưa nhân dân lao động lên nắm chính quyền; thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

    – Đối với quốc tế: Cách mạng tháng 10 đã dẫn đến những thay đổi to lớn trên thế giới.

    => Đây là biến cố lịch sử trọng đại nhất ở thế kỉ XX để lại nhiều bài học quý báu cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước

    Câu 2. Nhận xét nội dung “ Chính sách mới” của Ru-dơ-ven.

    Lời giải:

    – Chính phủ đã đặt ra những đạo luật, thành lập những cơ quan để thực hiện vai trò điều tiết của nhà nước đối với đời sống kinh tế của nước Mĩ để điều hoà việc lưu thông hàng hoá, khôi phục sản xuất và xoa dịu mâu thuẫn trong xã hội.

    – Điểm đáng lưu ý nhất trong Chính sách mới là các đạo luật về ngân hàng, phục hưng công nghiệp, điều chỉnh nông nghiệp. Đạo luật phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Nó quy định việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đồng chặt chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ.

    – Chính sách mới đã khắc phục được sự phát triển tự do chạy theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu của nước Mĩ trước đó. Nước Mĩ từng bước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng.

    Câu 3. Trình bày những nét chung về phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á giữa hai cuộc Chiến Tranh thế giới (1918-1939) và nêu nhận xét.

    Lời giải:

    Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất đã mở ra một thời kì phát triển mới trong phong trào độc lập dân tộc ở châu Á. Phong trào lên cao và lan rộng khắp các khu vực : Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á, tiêu biểu là phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và In-đô-nê-xi-a.

    Phong trào Ngũ tứ ở Trung Quốc đã mở đầu cho cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến ở châu Á. Cuộc cách mạng của nhân dân Mông Cổ (1921 – 1924) giành được thắng lợi, đưa đến việc thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân Mông cổ, ở Đông Nam Á, phong trào độc lập lan rộng khắp các nước, Ở Ấn Độ đã đã diễn ra những cuộc bãi công với quy mô lớn của công nhân và khởi nghĩa của nông dân chống thực dân Anh.Đảng Quốc Đại dưới sự lãnh đạo của Ma-hát-ma Gan-đi đã động viên nhân dân đấu tranh đòi quyền độc lập, tẩy chay hàng hóa của Anh, phát triển kinh tế dân tộc. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì (1919 -1922) kết thúc thắng lợi, dẫn tới việc thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhì Ki. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong cả nước.

    Trong cao trào cách mạng này, giai cấp công nhân tích cực tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các đảng cộng sản được thành lập và giữ vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam.

     

    Bài giải này có hữu ích với bạn không?

    Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

    Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1032

    Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

    --Chọn Bài--

    Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

    Tải xuống