Xem toàn bộ tài liệu Lớp 7: tại đây
I. Nhu cầu nghị luận và văn bản nghị luận
1. Nhu cầu nghị luận
a. Các vấn đề tương tự
– Tại sao phải học ngoại ngữ?
– Tại sao phải trung thực ?
– Tại sao phải sống có trách nhiệm?
– Làm thế nào để bảo vệ môi trường?
– Đại học có phải con đường duy nhất?
b. Với câu hỏi như trên chúng ta không thể trả lời bằng các văn bản kể chuyện, miêu tả hay biểu cảm. bởi vì các câu hỏi này buộc người ta phải quan tâm dùng lí lẽ có lí dẫn chứng thuyết phục để trả lời, phải làm văn nghị luận
c. Hằng ngày trên báo đài thường có các kiểu văn bản như: bình luận thể thao, Hà Nội đẹp, hỏi đáp pháp luật, tư vấn sức khỏe,….
2. Thế nào là văn bản nghị luận
a. – Mục đích của văn bản là Bác muốn mọi người Việt Nam phải biết chữ để xây dựng nước nhà
– Bài viết nêu ra các ý kiến:
+ Thực dân Pháp ngu dân để cai trị nước ta
+ Hầu hết người Việt Nam đều mù chữ
+ Những cách thức để thực hiện chống thất học
– Luận điểm Bác nêu ra
+ Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí
+ Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi…. viết chữ quốc ngữ
b. Tác giả thuyết phục người đọc bằng các lí lẽ:
– Tình trạng thất học, lạc hậu trước cách mạng tháng Tám
– Những điều kiện để người người dân tham gia xây dựng nước nhà
– Những điều kiện thuận lợi cho việc học chữ quốc ngữ
c. Tác giả không thể thực hiện mục đích của mình bằng văn bản kể chuyện, miêu tả, biểu cảm vì các văn bản này không thể hiện được mục đích nội dung ý đồ của tác giả, không có sức thuyết phục người đọc người nghe
II. Luyện tập
Bài 1 (trang 9 Ngữ Văn 7 Tập 2):
a. Đây là bài văn nghị luận. Mặc dù thân bài có kể ra một số thói quen xấu nhưng cách thức trình bày, ý kiến nêu ra có lí lẽ, có dẫn chứng, vấn đề trình bày rất rõ ràng.
b. Tác giả đề xuất ý kiến là “Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội”
– Tên bài tập trung ý kiến của tác giả cần trình bày. Ngoài ra ta có thể thấy một số câu khác thể hiện ý đó
+ Phần mở đầu có hai câu với từ là
+ Phần kết thúc có ba câu nói việc có thói quen tốt là khó, thói xấu là dễ. dẫn tới kết luận là phải xem lại mình để phấn đấu cho nếp sống văn minh
– Để thuyết phục người đọc, tác giả không chỉ giải thích, dùng lí lẽ mà đưa ra dẫn chứng sinh động như:
+ Gạt tàn thuốc lá bừa bãi
+ Vứt vỏ chuối ra đường
+ Rác ùn lên cả con mương nhỏ
+ Ném chai lọ, cốc vỡ ra đường
c. Bài viết này đã nhằm giải quyết một vấn đề trong giao tiếp đời thường. những ý kiến của bài viết rất gọn rất chặt chẽ
Bài 2 (trang 10 Ngữ Văn 7 Tập 2): Bố cục của bài văn
– Mở bài : giới thiệu thói quen tốt xấu
– Thân bài: trình bày những thói quen xấu cần loại bỏ
– Kết bài: đề xuất phấn đấu ý thức tự giác của mọi người để có nếp sống đẹp
Bài 3 (trang 10 Ngữ Văn 7 Tập 2): Đoạn văn nghị luận tham khảo
“Cái quý giá nhất trên đời mà mỗi người có thể góp phần mang lại cho chính mình và cho người khác đó là “năng lực tạo ra hạnh phúc”, bao gồm năng lực làm người, năng lực làm việc và năng lực làm dân.
Năng lực làm người là có cái đầu phân biệt được thiện – ác, chân – giả, chính – tà, đúng – sai…, biết được mình là ai, biết sống vì cái gì, có trái tim chan chứa tình yêu thương và giàu lòng trắc ẩn. Năng lực làm việc là khả năng giải quyết được những vấn đề của cuộc sống, của công việc, của chuyên môn, và thậm chí là của xã hội. Năng lực làm dân là biết được làm chủ đất nước là làm cái gì và có khả năng để làm được những điều đó. Khi con người có được những năng lực đặc biệt này thì sẽ thực hiện được những điều mình muốn. Khi đó, mỗi người sẽ trở thành một “tế bào hạnh phúc”, một “nhà máy hạnh phúc” và sẽ ngày ngày “sản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.
Xã hội mở ngày nay làm cho không có ai là “nhỏ bé” trên cuộc đời này, trừ khi tự mình muốn “nhỏ bé”. Ai cũng có thể trở thành những “con người lớn” bằng hai cách, làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khi biết chọn cho mình một lẽ sống phù hợp rồi sống hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!.”
(“Để chạm vào hạnh phúc”- Giản Tư Trung, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, 3/2/2012 )
Bài 4 (trang 10 Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Bài văn Hai biển hồ đã dùng tự sự nhằm nghị luận bàn bạc về cách sống, hai biển hồ ở đây mang ý nghĩa tượng trưng