Văn mẫu lớp 11 Học kì 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Lập dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu.

I. Mở bài

– Trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về cuộc đời và sự nghiệp Phan Bội Châu: Đôi nét về cuộc đời hoạt động cách mạng và sự nghiệp văn chương…

– Giới thiệu khái quát nội dung và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương: Bài thơ ấy là tiêu biểu cho tinh thần yêu nước của chính tác giả.

II. Thân bài

– Phân tích hai câu thơ đầu (hai câu đề): Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu

    + Tác giả nêu lên quan niệm mới: là đấng nam nhi phải sống với khát vọng, mong muốn làm nên điều kì lạ : “ yếu hi kì”, không cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình.

⇒ Tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở mức độ và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai.

– Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc

    + Câu 3: “Tu hữu ngã” (phải có trong cuộc đời) → ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước thời cuộc, ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của cá nhân đối với vận mệnh trăm năm. Điều này đối lập với sự tự cao cá nhân.

    + Câu 4: Tác giả lại chuyển giọng nghi vấn “cánh vô thuỳ” (há không ai?) ⇒ khẳng định cương quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng trí tuệ dâng hiến cho đời.

→ Ý thức sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó.

– Hai câu luận : Quan niệm về nguyên tắc hành xử mới của Phan Bội Châu trước vận mệnh đất nước

    + Tình cảnh đất nước: “Non sống đã chết”, đất nước đã rơi vào tay giặc

    + Quan niệm mới mẻ, đối lập với các tín điều xưa cũ: ý thức về lẽ vinh nhục gắn với sự tồn vong của đất nước: “sống thêm nhục :

“Hiền thánh còn đâu cũng học hoài”

    + Người cách mạng cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc ⇒ hành động cởi mở, luôn tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước trì trệ, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.

– Hai câu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường

    + Tư thế lên đường của người chí sĩ thật sự hoành tráng:

“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

Tiên trùng bạch lãng nhất tề phi”

    + Những hình tượng kì vĩ được sử dụng: “trường phong”- ngọn gió dài, lớn; “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc) ⇒ Tư thế hiên ngang, mong muốn lớn lao mang tầm vũ trụ của người cách mạng.

⇒ Tầm vóc của ý chí con người đã lớn lao hơn, không cam chịu trói mình trong khuôn khổ, vượt ra ngoài vòng kiểm tỏa

III. Kết bài

Khái quát về những nét đặc sắc nghệ thuật đem lại thành công cho tác phẩm. Khẳng định lại nội dung tư tưởng của tác phẩm và liên hệ về ý chí, khát vọng của con người trong thời đại hiện nay.

Đề bài: Lập dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Mở bài

   – Phan Bội Châu (1867-1940) quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên. Ông sáng lập ra Hộí Duy Tân (1904). Năm 1906, bí mật sang Nhật dấy lên phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phụ hộí. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đưa về Hà Nội với cái án tử hình. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, chúng đưa ông về giam lỏng ở Huế.

   – Là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20 – Thơ văn Phan Bộí Châu là thơ văn yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục bầu nhiệt huyết.

   – Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1906, trong lúc chia tay đồng chí, bạn bè, trước lúc bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du.

   – Bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân.

Thân bài

– Hai câu đề

   Kẻ nam nhi phải mong có điều lạ, nghĩa là không thể sống tầm thường mà phải làm nên sự nghiệp lớn. Lưu lại tiếng thơm muôn đời. Con người ấy sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ thiên nhiên, há để càn khôn tự chuyền dời?

– Hai câu thực

   Tác giả tự ý thức về cái Tôi (ngã: tôi, tờ). Rất tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời (một trăm năm) và trong xã hội, lịch sử (ngàn năm sau).

   Tác giả hỏi: Chẳng lẽ ngàn năm sau, lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Nhằm khẳng định một ý tưởng vĩ đại mà như người đồng hương của Phan Bội Châu trước đó nửa thế kỉ đã nhiều lần rồi:

    Đã mang tiếng ở trong trời đất,

    Phải có danh gì với núi sông.

            (Nguyễn Công Trứ)

   Quan niệm về công anh, về chí nam nhi của Phan Bội Châu mới mẻ, tiến bộ, hướng về Tổ quốc và nhân dân, như ông đã viết: Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua – tôi: Dân là dân nước, nước là nước dân”.

– Hai câu luận

   Nêu lên một quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc và lịch sử dân tộc. Non sông đã chết, một cách nói rất hay, cảm động về nỗi đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị thực dân Pháp thống trị. Trong Hải ngoại huyết thư, tác giả viết: hồn nước bơ vơ. Kẻ nam nhi, kẻ sĩ lập công danh trước hết bằng con đường học hành và thi cử. Một ý thơ phủ định về cách học cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền (đạo nho)… cách học ấy rất lạc hậu, vô nghĩa, càng học càng ngu, càng u mê. Đây là hai câu có tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, cho thấy Phan Bội Châu là một chí sĩ tiên phong:

    Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.

– Hai câu kết

   Hình tượng thơ kì vĩ lên một chí lớn mang tầm vũ trụ. Không phải gió nhẹ mà là trường phong. Không phải quanh quẩn chốn quan trường hoặc nơi trường thi chật hẹp, mà là đi ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lên với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất của Phan Bội Châu biểu lộ một bầu nhiệt huyết:

    Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,

    Thiên trùng bạch lăng nhất tề phi.

Kết bài

   Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán. Giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.

   Thể hiện một chí lớn phi thường: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Không phải là khẩu khia mà sự thật lịch sử đã xác nhận Phan Bội Châu đã sống và hành động như thơ ông đã viết ra.

   Lưu biệt khi xuất dương mang âm điệu anh hùng ca, chứa chan tình yêu nước và quyết tâm lên đường cứu nước.

Đề bài: Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

    Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn đầu thế kỉ XX. Thơ văn của ông tràn ngập tinh thần yêu nước trên cả hai mảng sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 trước khi ông lên đường sang Nhật Bản. Tác phẩm cho thấy bầu nhiệt huyết tìm đường cứu nước cháy bỏng của người chí sĩ cách mạng.

    Chí làm trai làm một phạm trù quan trọng trong văn học trung đại, nó được thể hiện không chỉ ở trong văn học dân gian: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên” mà còn thể hiện đậm nét trong các sáng tác trung đại: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển” (Chí làm trai – Nguyễn Cống Trứ)…. Và đến Phan Bội Châu, ông cũng tiếp nối truyền thống của văn học dân tộc, nhưng có những bước tiến mới, với quan niệm mới mẻ:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Đối với Phan Bội Châu làm trai phải “lạ” tức là phải có quan niệm, lí tưởng sống cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường, hiển hách. Ông không chấp nhận sự xoay vần của vũ trụ, để nó ảnh hưởng đến số phận, cuộc đời mình. Phan Bội Châu cho rằng làm trai không được để bản thân ở thế bị động, để số phận quyết định đời mình mà phải là một nam nhi chủ động, tự tạo nên con đường của bản thân. Điều này đã được minh chứng rõ nét trong cuộc đời của ông. Trước cảnh nước mất nhà tan, giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi, nhiễu nhương đời sống nhân dân, là một người yêu nước thương nòi nên Phan Bội Châu không thể đứng im nhìn cảnh tượng đau lòng đó, ông mang quyết tâm lớn, ra nước ngoài (Nhật Bản) để học tập và tìm con đường cứu nước đứng đắn cho dân tộc. Cuộc đời ông đã minh chứng cho cái “lạ” mà ông thể hiện trong thơ ca. Lí tưởng sống cao đẹp, vì dân vì nước của ông thật đáng trân trọng và tự hào. Hai câu thơ đầy khẩu khí, giọng điệu vô cùng tự tin, táo bạo.

    Hai câu thực thể hiện ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Câu thơ thể hiện những khao khát cao đẹp của một nhân cách lớn. “Trăm năm” là cả một đời người, với nhiều biến động của lịch sử xã hội, nhưng ông vẫn khẳng định “cần có tớ” để đem hết tài năng của bản thân cống hiến, hoàn thành sứ mệnh của kẻ làm trai, trả món nợ công danh và lưu danh muôn thuở “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” tức mọi việc trong trời đất đều thuộc phận sự của ta. Câu thơ cho thấy sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn, nhân cách lớn. Ở họ đều có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc, học sẵn sàng gánh vác sứ mệnh mà lịch sử giao cho. Câu thơ thứ tư hướng đến thế hệ tương lai, những người tiếp nối sự nghiệp, cho thấy ý thức, khát vọng, cũng như niềm tin của ông vào những thanh niên thế hệ tiếp nối.

    Trước tình cảnh của đất nước Phan Bội Châu thể hiện thái độ hết sức quyết liệt:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Ông nhận thức sâu sắc về thực trạng đất nước lúc bấy giờ “non sông đã chết” – đất nước đã mất chủ quyền, mảnh đất ông cha đổ bao xương máu mới giữ được nay lại rơi vào tay quân giặc, nhân dân phải sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Cuộc sống đó khiến ông cảm thấy “sống thêm nhục” nó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước. Trong câu thơ dịch chưa truyền tải hết tinh thần của nguyên tác: “Giang sơn tử hĩ đồ nhuế/ Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” câu thơ đầy mạnh mẽ, tràn ngập cảm hứng phủ định về nền học vấn Nho học đã lỗi thời, không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Để từ đó ông nêu lên khát vọng hành động và tư thế lên đường:

    Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Tác giả dựng lên bối cảnh kì vĩ, to lớn đó là biển đông, là những ngọn gió lớn, những đợt sóng bạc, các sự vật to lớn như vậy mới có thể thể hiện đầy đủ cái hùng tâm tráng trí ôm trùm thiên hạ của một con người yêu nước nồng nàn. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế “bay lên” cho thấy con người có tầm vóc lớn lao, sánh ngang vũ trụ. Câu thơ là kết tinh trọn vẹn khát vọng, hành động đẹp đẽ của Phan Bội Châu: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là cách thức ông thỏa chí làm trai.

    Ngôn ngữ thơ cô đọng, giàu sức truyền cảm. Giọng điệu thơ tâm huyết, sâu lắng, đầy sôi sục, hào hùng. Những vần thơ có tác động mạnh mẽ với tâm lí người đọc, nó như một bài tuyên truyền cổ vũ, động viên con người hãy đứng lên và hạnh động vì đất nước.

    Xuất dương lưu biệt đã khắc họa một cách chân thực và lãng mạn vẻ đẹp hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đầu thế kỉ. Ông mang trong mình những tư tưởng canh tân mới mẻ, táo bạo với lòng nhiệt huyết sục sôi, cuộn trào, khát vọng lên đường cháy bỏng để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu

Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam chúng thi hành chính sách bóc lột sức lao động, đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong bể máu, khiến cho lòng dân vô cùng căm phẫn. Chính điều đó đã thôi thúc các nhà yêu nước nung nấu con đường giải phóng dân tộc. Tiêu biểu trong thời kì đầu là Phan Bội Châu_ông vừa là nhà cách mạng yêu nước đồng thời là một nhà văn hóa lớn. Ông để lại nhiều trước tác trên nhiều lĩnh vực trong đó thi ca chiếm một nội dung quan trọng. Nổi bật trong thơ của Phan Bội Châu là bài “Lưu biệt khi xuất dương”. Bài thơ đã lưu lại tình cảm, cảm xúc của tác giả lúc từ biệt trước khi sang Nhật đồng thời thể hiện tinh thần, ý chí quyết tâm cứu nước của người chiến sĩ cách mạng.

    “Lưu biệt khi xuất dương” được Phan Bội Châu sáng tác khi khát vọng cứu nước đang thực hiện một cách thuận lợi, hội Duy Tân vừa mới được thành lập khi đó ông chủ trương đưa một số thanh niên Việt Nam có ý chí, tinh thần ham học hỏi sang Nhật học tập sự văn minh, khoa học của họ để về giúp nước giúp dân. Đây là một tư tưởng tiến bộ nhưng lịch sử lại không lựa chọn do còn phạm phải những sai lầm, tuy nhiên điều đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho dân tộc.

Bài thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục rõ ràng, mạch lạc theo cấu trúc đề-thực-luận-kết thể hiện được cái “chí” của nhà thơ. Hai câu thơ đầu là quan niệm mới mẻ về chí làm trai và tư thế, tâm thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ.

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

(Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời). Chí làm trai của đấng nam nhi phải có khát vọng, hoài bão lớn lao, phải làm được việc hiếm việc lạ ở trên đời. Tư tưởng này đã được kế thừa của các tiền nhân như Phạm Ngũ Lão trong bài thơ “Thuật hoài” có viết: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”. Chính vì cái lẽ ấy mà không chịu để cho trời đất tự chuyển dời thể hiện tầm vóc lớn lao của con người trong vũ trụ bao la như tư thế “hoành sóc” (cầm ngang ngọn giáo) hiên ngang của người nam tử. Gắn với bối cảnh của thời đại, thực tế của đất nước lúc bấy giờ chí làm trai theo Phan Bội Châu phải xoay chuyển được “càn khôn” chủ động lập lại thời thế không chịu chấp nhận nỗi nhục mất nước, không chịu làm nô lệ.

Nếu như hai câu thơ đầu là tuyên ngôn về chí làm trai với tư tưởng muốn bứt phá ra khỏi giới hạn bé mọn của bản thân, mong muốn cứu nguy cho dân tộc đồng thời khẳng định vị thế của mình trong trời đất thì hai câu thực nói về ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc.

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?). Trong câu 3 đối với câu 4 lấy cái hữu hạn của “bách niên” để đối với cái vô hạn của “thiên tải”, lấy cái phủ định để khẳng định ý chí quyết tâm của tác giả cho thấy vai trò, sự chủ động của cá nhân trước bối cảnh lịch sử. Ở trong khoảng trăm năm (trong khoảng thời gian của đời người) cần thiết phải có ta. Ta phải làm việc lớn, gánh vác việc đời của thời đại mình thì trăm năm sau mới có thế hệ khác. Nếu không sau này “há không ai?”đây là một câu nghi vấn, hỏi nhưng cũng là để tự mình trả lời, tự mình thể hiện mình. Điều đó cho thấy tinh thần tự nhiệm, tự mình của tác giả đồng thời cũng khẳng định sự nối tiếp thế hệ anh hùng của dân tộc “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt thời nào cũng có”.

Để minh chứng cho con đường cứu nước của mình là đúng đắn ở hai câu luận tác giả nêu lên tình cảnh của đất nước và chỉ ra những điều xưa cũ không còn phù hợp với thời đại mới.

    “Giang sơn tử hĩ sinh đồ chuế

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”

(Non sông đã chết sống thêm nhục/ Hiền thánh còn đâu học cũng hoài). “Non sông đã chết” dân tộc đã bị xâm lăng, đất nước đã mất chủ quyền sống cũng chỉ thêm nhục nhã. Câu này tác giả nói đến lẽ sống và cái chết để khẳng định lí tưởng sống có nghĩa là phải lật lại “càn khôn”, lấy lại hồn nước, làm cho dân tộc được độc lập tự do. “Hiền thánh”ở đây chỉ Nho học. Nó đã không còn nữa, phải gác nó lại theo học cái học thực tế để canh tân đất nước. Có người nói Phan Bội Châu phủ nhận vai trò của Nho giáo, điều này là không đúng bởi ông cũng xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình” nhưng bối cảnh thời đại bây giờ Nho giáo trở nên lạc hâu, lỗi thời cần thay đổi. Chữ “hoài” trong bản dich thơ chưa thể hiện được bản chất “si” (U mê, mê muội một điều gì đó mất lí trí) trong nguyên tác. Hai câu thơ là lời nhắn nhủ của tác giả đến thế hệ trẻ phải đổi mới quan niệm, tư tưởng không nên theo lối mòn, sáo rỗng không có ích cho sự nghiệp cứu nước.

Hai câu kết thể hiện khát vọng hành động cứu nước, khắc họa tư thế hiên ngang, hào hùng của con người ở buổi lên đường:

    “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

    Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”

(Muốn vượt bể đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi). Ở câu thơ thứ nhất mang hai nét nghĩa trừu tượng và cụ thể. Với nét nghĩa trừu tượng thể hiện mong muốn vượt lên chính mình, vượt qua giới hạn bản thân làm nên việc lạ ở trong khoảng trăm năm. Với nét nghĩa cụ thể để chỉ phong trào Đông Du, chỉ những người thanh niên yêu nước mong muốn học tập cái mới để giúp nước. Tuy nhiên bản dịch thơ trong sách giáo khoa từ “Cánh gió” chưa lột tả được thần sắc của “trường phong” là cơn gió lớn, cơn gió dài nó là sự quyết tâm, quyết liệt ra đi cứu nước của tác giả. Câu cuối “nhất tề phi” là cùng bay lên ở đây là chỉ con sóng hay chỉ khát vọng của tác giả hay chỉ cả hai khát vọng của ta cùng với hàng ngàn con sóng cùng bay lên giữa biển khơi rộng lớn. Theo em cách hiểu thứ ba là hợp lí vì tác giả “xuất dương” mang trong mình hoài bão lớn lao. Hai câu kết với hai hình ảnh kì vĩ “trường phong” và “thiên trùng bạch lãng”làm cho chí khí, tư thế của người chiến sĩ vượt lên thực tại đen tối với đôi cánh của lí tưởng cách mạng vươn ngang tầm vũ trụ được thể hiện qua vị ngữ “nguyện trục”, “nhất tề phi” khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong “Hành lộ nan” (Đi đường khó) của Lí Bạch: “Trường phong phá lãng hội hữu thì/ Trực quải vân phàm tế thương hải” (Cưỡi gió vượt sóng ắt có lúc/ Dong thẳng buồm mây vút bể xanh).

    “Lưu biệt khi xuất dương” thể hiện được lí tưởng cứu nước cao cả, nhiệt huyết sục sôi với tư thế đẹp đẽ và khát vọng lên đường cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong buổi đầu cứu nước. Về nghệ thuật bài thơ được làm theo luật bằng, đúng niêm, đúng luật của thể thơ đã được quy ước, tuy nhiên có nét cách tân đổi mới điều đó được thể hiện ở đại từ “Ngã” (ta). Ở trong thơ trung đại cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn.Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện bản lĩnh, chí hướng, khát vọng, quyết tâm của con người trong thời đại mới. Sử dụng ngôn ngữ phóng đại với hình ảnh kì vĩ, lãng mạn thể hiện được cái chí của mình.

Vần thơ đã khép lại bấy lâu nay nhưng hồn thơ, thần sắc của bài thơ cùng với hình ảnh của một Phan Bội Châu quyết tâm, hăm hở, chủ động ra đi tìm đường cứu nước đã để lại tiếng vang, ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử. Phan Bội Châu không những về sự nghiệp vận động giải phóng dân tộc là một nhân vật tiêu biểu cho giai đoạn chống Pháp của nhân dân Việt Nam đầu thế kỉ XX mà còn là nhà thơ, nhà văn với những đóng góp có giá trị cho nền văn học nước nhà.

Đề bài: Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

   Phan Bội Châu được coi là một trong số những anh hùng kiệt xuất có tầm ảnh hưởng lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình ông chưa một lần được hưởng niềm vui chiến thắng nhưng tình yêu đất nước, khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh của ông luôn là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, đam mê cho nhiều thế hệ sau này. Mà trước hết, thơ ca là mặt trận để ông bộc lộ điều ấy. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ như thế. Ra đời vào thời điểm, nhà thơ chuẩn bị lên đường sang Nhật để thực hiện chí lớn, tác phẩm đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, mong chờ một sự nghiệp kinh bang tế thế thay đổi vận mệnh cho nước nhà:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

   

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

   Bài thơ mở đầu bằng một quan niệm rất quen thuộc của Nho giáo: chí làm trai.v

    Làm trai phải lạ ở trên đời,

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

   Nếu đặt trong mạch nguồn của thơ ca trung đại, việc đề cập đến lý tưởng xã hội này là điều rất dễ thấy. Danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão và sau này là bậc nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ đã từng đề cập.

    Công danh nam tử còn vương nợ,

    Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

           (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)

    Đã mang tiếng ở trong trời đất,

    Phải có danh gì với núi sông.

           (Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)

   Cái chí của đấng nam nhi ở đây là công, là danh. Họ trông vào đó mà tìm kiếm sự nghiệp, khẳng định bản thân mình trước cuộc đời, trước mọi người. Nhưng cách thể hiện của Phan tiên sinh trong bài thơ này lại gây một ấn tượng mạnh. Cái chí của kẻ làm trai lại trở nên kì vĩ, lớn lao. Bởi nó được đặt trong một không gian đặc biệt, đó là vũ trụ. Nếu nhìn từ không gian ấy, bậc nam nhi sẽ còn có nhiều khao khát hơn là công và danh. Chữ lạ trong bản dịch thơ tuy hay nhưng chưa làm toát lên được ý nghĩa từ chữ trong văn bản gốc. Làm trai phải lạ cần được hiểu là làm được những việc kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Muốn làm được điều ấy, người quân tử phải được đặt trong một không gian không thể là trên đời được, mà phải là càn khôn. Vì “đời” tưởng rộng mà hóa ra lại hẹp, mới chỉ là thế giới loài người, còn “càn khôn” là vũ trụ bao la. Cho nên cái hay trong hai câu đề là không gian ấy đến câu thứ hai mới xuất hiện, nó làm tôn lên hình ảnh một bậc nam nhi đại trượng phu, hào kiệt dõng dạc hô vang ở câu đầu rằng phải lạ. Có nghĩa là đấng nam tử đâu chỉ trông chờ, thụ động, phó mặc cho tạo hóa xoay vần, mà phải chủ động, dấn thân thay đổi cả càn khôn, trời đất, cải tạo cả vũ trụ, giang sơn. Mạnh mẽ hơn là phải biết sống hiển hách, dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, đất nước lâm nguy thì ra tay cứu nước, thay đổi lịch sử. Cảm hứng sử thi, lãng mạn đã nâng tầm chí làm trai lên một diện mạo mới. Đặt trong bối cảnh ra đời bài thơ, hình ảnh đấng nam nhi mang tầm vóc vũ trụ ấy đã mở đầu cho một khúc khải hoàn ca đầy hùng tráng, phi thường về ý chí và tinh thần yêu nước.

   Hai câu đề đã mở ra không gian rộng lớn, đến hai câu thực lại mang tới độ tối đa trong thời gian của đời người:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở, há không ai?

   Trong quan niệm chung về đấng nam nhi ở trên, Phan Bội Châu đã nêu lên được ý thức cá nhân đầy khảng khái của bản thân mình. Đến hai câu này, ý thức cá nhân ấy càng rõ hơn. Có thể hiểu trong khoảng một trăm năm này, không thể thiếu được ta. Ta phải trở thành nhân vật lịch sử, ta có sứ mệnh xoay chuyển càn khôn để thay đổi cả bộ mặt lịch sử của thế kỉ này. Ta bỗng vút lên giữa cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian như thế, bảo sao lại không tráng lệ, lộng lẫy. Chữ tớ dịch khá thú vị, vừa có chút dí dỏm vừa vẫn khẳng định cái tôi đầy mạnh mẽ. Ý thức cá nhân được vươn cao, vươn rộng theo không gian và còn vươn dài theo cả thời gian nâng tầm nhận thức cao cả về sứ mệnh của con người trước lịch sử. Cái tôi như thế thật là vừa lãng mạn vừa kiêu hùng!

   Xoay chuyển càn khôn, làm chủ lịch sử tưởng chừng như đã quá to tát, ấy vậy mà cái phải lạ của bậc anh hào còn khiến người ta bất ngờ hơn:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.

   Trong bối cảnh của sự chuyển giao thời đại, dẫu có mới mẻ đến đâu cũng vẫn phải có sự thay đổi dần dần. Nhưng nhận thức của Phan tiên sinh lại khiến người ta thấy thật phi thường. Đúng non sông đã chết là cách nhân hóa rất chân thực cho hiện tại của nước nhà. Kẻ thù ngoại bang chiếm lấy chủ quyền thì coi như đất nước đã chết. Câu thơ uất nghẹn trước thực trạng đau thương của dân tộc. Nhưng cái mạnh mẽ của đấng nam nhi trước Tổ quốc như thế buộc phải nhận ra sống chỉ thêm nhục. Vì thế cái cần nhất, cái lý tưởng nhất của một thời hiền thánh giờ cũng chẳng còn ý nghĩa, có đọc sách cũng ngu thôi. Vậy là hai thứ quan trọng ấy mà còn tiếp tục sống, tiếp tục học thì chẳng khác nào đã để tự mình phó mặc cho số phận, để càn khôn nó tự chuyển dời, để tiếp tục sống một trăm năm đầy vô nghĩa. Có lẽ vậy mà, cuộc đời Phan Sào Nam tuy sống trọn vẹn trong cảnh đất nước lầm than, trải qua bao lần thất bại đau đớn nhưng ông vẫn cống hiến đầy hiển hách, vinh quang. Hai câu thơ đã chứng tỏ một sự chuyển mình của thời đại, nếu nói không quá lên, thật là vĩ đại. Nhận ra lẽ vinh nhục trong cảnh đất nước ấy là thường tình, nhưng dám chối bỏ, phủ định cả một nền học thức của một kẻ vốn xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình như cụ Phan, thì đó là một điều rất phi thường.

   Vậy không thể sống như thế với thực tại, muốn mưu đồ việc xoay chuyển càn khôn phải tiến đến hành động. Và hành động ấy chỉ có thể là xuất dương.

    Muốn vượt bể đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

   Hai câu kết thật đẹp! Hình ảnh miêu tả có phần ước lệ tượng trưng tạo nên một cảnh tượng biển trời, gió bão, sóng bạc thật hùng vĩ. Nó làm toát lên cái hùng tâm tráng trí của kẻ sĩ yêu nước cháy bỏng mà ở câu thơ cuối: thiên trùng bạch lãng nhất tề phi, bản dịch chưa làm toát lên được. Đúng hơn là biển mênh mông, gió bát ngát, sóng bạc muôn trùng và ý chí, khát vọng của con người cùng nhau hòa quện làm một mà nhất tề phi (cùng bay lên). Tâm thế ra đi cũng rộng lớn, tráng lệ như biển trời vậy. Có cái hào sảng, quyết tâm, mạnh mẽ, nhiệt huyết khi lên đường. Người ở lại – bạn bè bằng hữu, chắc chắn cảm nhận được khát vọng, lý tưởng trong hành động kiệt xuất của con người kiệt xuất ấy.

   Bài thơ khép lại trong một niềm hân hoan, hứng khởi trào dâng mãnh liệt của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Sự kết hợp đầy mới mẻ giữa cách thể hiện đậm chất thơ văn trung đại với những tư tưởng nội dung đậm hơi thở của nhịp sống đương thời đã hình tượng hóa một cách lãng mạn và hào hùng của người chí sĩ yêu nước những năm đầu thế kỉ XX. Giọng thơ nhiệt huyết, lay động này đã tiếp thêm sức mạnh, đã thổi bùng khát khao cho biết bao kẻ sĩ thời ấy có mong muốn thực hiện chí lớn vì sự nghiệp dân tộc của mình.

Đề 1: Phân tích bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu.

   Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuôn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).

   Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

   “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ỷ nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

   Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”

    “Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,

    Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

   Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:

    “Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,

    Lập thân tối hạ thị văn chương.”

    (Tùy viên thi thoại – Viên Mai)

    (Bữa bữa những mong ghi sử sách,

    Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).

   Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).

   Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã,

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

   Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

    “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.

            (“Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn)

    “Nhân vinh tự cổ thủy vô tử

    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.”

            (Vân Thiên Tường)

   Lấy cái hữu hạn – bách niên – của một đời người đối với cái vô hạn – thiên tài – của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

    “Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

    Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”

            (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)

   Khi non sông đã chất, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà:

    “Non sông đã chết, sống thêm nhục,

    Hiền thánh còn đâu học của hoài.”

   Phan Bội Châu đã dặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

    “Ai hữu chi từ nay xin gắng gỏi

    Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

    Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn

    Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

    Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…”

   Sống như thế là sống đẹp, sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ.”

   Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:

    “Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,

    Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.”

   Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong – Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng — ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu.Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

   “Xuất dương lưu biệt” là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Đề bài: Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

I. Mở bài

– Trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về cuộc đời và sự nghiệp Phan Bội Châu: Đôi nét về cuộc đời hoạt động cách mạng và sự nghiệp văn chương…

– Giới thiệu khái quát nội dung và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương: Bài thơ ấy là tiêu biểu cho tinh thần yêu nước của chính tác giả.

II. Thân bài

– Phân tích hai câu thơ đầu (hai câu đề): Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu

    + Tác giả nêu lên quan niệm mới: là đấng nam nhi phải sống với khát vọng, mong muốn làm nên điều kì lạ : “ yếu hi kì”, không cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình.

⇒ Tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở mức độ và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai.

– Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc

    + Câu 3: “Tu hữu ngã” (phải có trong cuộc đời) → ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước thời cuộc, ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của cá nhân đối với vận mệnh trăm năm. Điều này đối lập với sự tự cao cá nhân.

    + Câu 4: Tác giả lại chuyển giọng nghi vấn “cánh vô thuỳ” (há không ai?) ⇒ khẳng định cương quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng trí tuệ dâng hiến cho đời.

→ Ý thức sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó.

– Hai câu luận : Quan niệm về nguyên tắc hành xử mới của Phan Bội Châu trước vận mệnh đất nước

    + Tình cảnh đất nước: “Non sống đã chết”, đất nước đã rơi vào tay giặc

    + Quan niệm mới mẻ, đối lập với các tín điều xưa cũ: ý thức về lẽ vinh nhục gắn với sự tồn vong của đất nước: “sống thêm nhục :

   “Hiền thánh còn đâu cũng học hoài”

    + Người cách mạng cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc ⇒ hành động cởi mở, luôn tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước trì trệ, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.

– Hai câu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường

    + Tư thế lên đường của người chí sĩ thật sự hoành tráng:

   “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

   Tiên trùng bạch lãng nhất tề phi”

    + Những hình tượng kì vĩ được sử dụng: “trường phong”- ngọn gió dài, lớn; “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc) ⇒ Tư thế hiên ngang, mong muốn lớn lao mang tầm vũ trụ của người cách mạng.

⇒ Tầm vóc của ý chí con người đã lớn lao hơn, không cam chịu trói mình trong khuôn khổ, vượt ra ngoài vòng kiểm tỏa

III. Kết bài

   Khái quát về những nét đặc sắc nghệ thuật đem lại thành công cho tác phẩm. Khẳng định lại nội dung tư tưởng của tác phẩm và liên hệ về ý chí, khát vọng của con người trong thời đại hiện nay.

    Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn đầu thế kỉ XX. Thơ văn của ông tràn ngập tinh thần yêu nước trên cả hai mảng sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 trước khi ông lên đường sang Nhật Bản. Tác phẩm cho thấy bầu nhiệt huyết tìm đường cứu nước cháy bỏng của người chí sĩ cách mạng.

    Chí làm trai làm một phạm trù quan trọng trong văn học trung đại, nó được thể hiện không chỉ ở trong văn học dân gian: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên” mà còn thể hiện đậm nét trong các sáng tác trung đại: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển” (Chí làm trai – Nguyễn Cống Trứ)…. Và đến Phan Bội Châu, ông cũng tiếp nối truyền thống của văn học dân tộc, nhưng có những bước tiến mới, với quan niệm mới mẻ:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Đối với Phan Bội Châu làm trai phải “lạ” tức là phải có quan niệm, lí tưởng sống cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường, hiển hách. Ông không chấp nhận sự xoay vần của vũ trụ, để nó ảnh hưởng đến số phận, cuộc đời mình. Phan Bội Châu cho rằng làm trai không được để bản thân ở thế bị động, để số phận quyết định đời mình mà phải là một nam nhi chủ động, tự tạo nên con đường của bản thân. Điều này đã được minh chứng rõ nét trong cuộc đời của ông. Trước cảnh nước mất nhà tan, giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi, nhiễu nhương đời sống nhân dân, là một người yêu nước thương nòi nên Phan Bội Châu không thể đứng im nhìn cảnh tượng đau lòng đó, ông mang quyết tâm lớn, ra nước ngoài (Nhật Bản) để học tập và tìm con đường cứu nước đứng đắn cho dân tộc. Cuộc đời ông đã minh chứng cho cái “lạ” mà ông thể hiện trong thơ ca. Lí tưởng sống cao đẹp, vì dân vì nước của ông thật đáng trân trọng và tự hào. Hai câu thơ đầy khẩu khí, giọng điệu vô cùng tự tin, táo bạo.

    Hai câu thực thể hiện ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Câu thơ thể hiện những khao khát cao đẹp của một nhân cách lớn. “Trăm năm” là cả một đời người, với nhiều biến động của lịch sử xã hội, nhưng ông vẫn khẳng định “cần có tớ” để đem hết tài năng của bản thân cống hiến, hoàn thành sứ mệnh của kẻ làm trai, trả món nợ công danh và lưu danh muôn thuở “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” tức mọi việc trong trời đất đều thuộc phận sự của ta. Câu thơ cho thấy sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn, nhân cách lớn. Ở họ đều có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc, học sẵn sàng gánh vác sứ mệnh mà lịch sử giao cho. Câu thơ thứ tư hướng đến thế hệ tương lai, những người tiếp nối sự nghiệp, cho thấy ý thức, khát vọng, cũng như niềm tin của ông vào những thanh niên thế hệ tiếp nối.

    Trước tình cảnh của đất nước Phan Bội Châu thể hiện thái độ hết sức quyết liệt:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Ông nhận thức sâu sắc về thực trạng đất nước lúc bấy giờ “non sông đã chết” – đất nước đã mất chủ quyền, mảnh đất ông cha đổ bao xương máu mới giữ được nay lại rơi vào tay quân giặc, nhân dân phải sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Cuộc sống đó khiến ông cảm thấy “sống thêm nhục” nó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước. Trong câu thơ dịch chưa truyền tải hết tinh thần của nguyên tác: “Giang sơn tử hĩ đồ nhuế/ Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” câu thơ đầy mạnh mẽ, tràn ngập cảm hứng phủ định về nền học vấn Nho học đã lỗi thời, không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Để từ đó ông nêu lên khát vọng hành động và tư thế lên đường:

    Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Tác giả dựng lên bối cảnh kì vĩ, to lớn đó là biển đông, là những ngọn gió lớn, những đợt sóng bạc, các sự vật to lớn như vậy mới có thể thể hiện đầy đủ cái hùng tâm tráng trí ôm trùm thiên hạ của một con người yêu nước nồng nàn. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế “bay lên” cho thấy con người có tầm vóc lớn lao, sánh ngang vũ trụ. Câu thơ là kết tinh trọn vẹn khát vọng, hành động đẹp đẽ của Phan Bội Châu: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là cách thức ông thỏa chí làm trai.

    Ngôn ngữ thơ cô đọng, giàu sức truyền cảm. Giọng điệu thơ tâm huyết, sâu lắng, đầy sôi sục, hào hùng. Những vần thơ có tác động mạnh mẽ với tâm lí người đọc, nó như một bài tuyên truyền cổ vũ, động viên con người hãy đứng lên và hạnh động vì đất nước.

    Xuất dương lưu biệt đã khắc họa một cách chân thực và lãng mạn vẻ đẹp hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đầu thế kỉ. Ông mang trong mình những tư tưởng canh tân mới mẻ, táo bạo với lòng nhiệt huyết sục sôi, cuộn trào, khát vọng lên đường cháy bỏng để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.

   Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam chúng thi hành chính sách bóc lột sức lao động, đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong bể máu, khiến cho lòng dân vô cùng căm phẫn. Chính điều đó đã thôi thúc các nhà yêu nước nung nấu con đường giải phóng dân tộc. Tiêu biểu trong thời kì đầu là Phan Bội Châu_ông vừa là nhà cách mạng yêu nước đồng thời là một nhà văn hóa lớn. Ông để lại nhiều trước tác trên nhiều lĩnh vực trong đó thi ca chiếm một nội dung quan trọng. Nổi bật trong thơ của Phan Bội Châu là bài “Lưu biệt khi xuất dương”. Bài thơ đã lưu lại tình cảm, cảm xúc của tác giả lúc từ biệt trước khi sang Nhật đồng thời thể hiện tinh thần, ý chí quyết tâm cứu nước của người chiến sĩ cách mạng.

    “Lưu biệt khi xuất dương” được Phan Bội Châu sáng tác khi khát vọng cứu nước đang thực hiện một cách thuận lợi, hội Duy Tân vừa mới được thành lập khi đó ông chủ trương đưa một số thanh niên Việt Nam có ý chí, tinh thần ham học hỏi sang Nhật học tập sự văn minh, khoa học của họ để về giúp nước giúp dân. Đây là một tư tưởng tiến bộ nhưng lịch sử lại không lựa chọn do còn phạm phải những sai lầm, tuy nhiên điều đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho dân tộc.

   Bài thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục rõ ràng, mạch lạc theo cấu trúc đề-thực-luận-kết thể hiện được cái “chí” của nhà thơ. Hai câu thơ đầu là quan niệm mới mẻ về chí làm trai và tư thế, tâm thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ.

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

   (Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời). Chí làm trai của đấng nam nhi phải có khát vọng, hoài bão lớn lao, phải làm được việc hiếm việc lạ ở trên đời. Tư tưởng này đã được kế thừa của các tiền nhân như Phạm Ngũ Lão trong bài thơ “Thuật hoài” có viết: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”. Chính vì cái lẽ ấy mà không chịu để cho trời đất tự chuyển dời thể hiện tầm vóc lớn lao của con người trong vũ trụ bao la như tư thế “hoành sóc” (cầm ngang ngọn giáo) hiên ngang của người nam tử. Gắn với bối cảnh của thời đại, thực tế của đất nước lúc bấy giờ chí làm trai theo Phan Bội Châu phải xoay chuyển được “càn khôn” chủ động lập lại thời thế không chịu chấp nhận nỗi nhục mất nước, không chịu làm nô lệ.

   Nếu như hai câu thơ đầu là tuyên ngôn về chí làm trai với tư tưởng muốn bứt phá ra khỏi giới hạn bé mọn của bản thân, mong muốn cứu nguy cho dân tộc đồng thời khẳng định vị thế của mình trong trời đất thì hai câu thực nói về ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc.

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

   (Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?). Trong câu 3 đối với câu 4 lấy cái hữu hạn của “bách niên” để đối với cái vô hạn của “thiên tải”, lấy cái phủ định để khẳng định ý chí quyết tâm của tác giả cho thấy vai trò, sự chủ động của cá nhân trước bối cảnh lịch sử. Ở trong khoảng trăm năm (trong khoảng thời gian của đời người) cần thiết phải có ta. Ta phải làm việc lớn, gánh vác việc đời của thời đại mình thì trăm năm sau mới có thế hệ khác. Nếu không sau này “há không ai?”đây là một câu nghi vấn, hỏi nhưng cũng là để tự mình trả lời, tự mình thể hiện mình. Điều đó cho thấy tinh thần tự nhiệm, tự mình của tác giả đồng thời cũng khẳng định sự nối tiếp thế hệ anh hùng của dân tộc “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt thời nào cũng có”.

   Để minh chứng cho con đường cứu nước của mình là đúng đắn ở hai câu luận tác giả nêu lên tình cảnh của đất nước và chỉ ra những điều xưa cũ không còn phù hợp với thời đại mới.

    “Giang sơn tử hĩ sinh đồ chuế

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”

   (Non sông đã chết sống thêm nhục/ Hiền thánh còn đâu học cũng hoài). “Non sông đã chết” dân tộc đã bị xâm lăng, đất nước đã mất chủ quyền sống cũng chỉ thêm nhục nhã. Câu này tác giả nói đến lẽ sống và cái chết để khẳng định lí tưởng sống có nghĩa là phải lật lại “càn khôn”, lấy lại hồn nước, làm cho dân tộc được độc lập tự do. “Hiền thánh”ở đây chỉ Nho học. Nó đã không còn nữa, phải gác nó lại theo học cái học thực tế để canh tân đất nước. Có người nói Phan Bội Châu phủ nhận vai trò của Nho giáo, điều này là không đúng bởi ông cũng xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình” nhưng bối cảnh thời đại bây giờ Nho giáo trở nên lạc hâu, lỗi thời cần thay đổi. Chữ “hoài” trong bản dich thơ chưa thể hiện được bản chất “si” (U mê, mê muội một điều gì đó mất lí trí) trong nguyên tác. Hai câu thơ là lời nhắn nhủ của tác giả đến thế hệ trẻ phải đổi mới quan niệm, tư tưởng không nên theo lối mòn, sáo rỗng không có ích cho sự nghiệp cứu nước.

   Hai câu kết thể hiện khát vọng hành động cứu nước, khắc họa tư thế hiên ngang, hào hùng của con người ở buổi lên đường:

    “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

    Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”

   (Muốn vượt bể đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi). Ở câu thơ thứ nhất mang hai nét nghĩa trừu tượng và cụ thể. Với nét nghĩa trừu tượng thể hiện mong muốn vượt lên chính mình, vượt qua giới hạn bản thân làm nên việc lạ ở trong khoảng trăm năm. Với nét nghĩa cụ thể để chỉ phong trào Đông Du, chỉ những người thanh niên yêu nước mong muốn học tập cái mới để giúp nước. Tuy nhiên bản dịch thơ trong sách giáo khoa từ “Cánh gió” chưa lột tả được thần sắc của “trường phong” là cơn gió lớn, cơn gió dài nó là sự quyết tâm, quyết liệt ra đi cứu nước của tác giả. Câu cuối “nhất tề phi” là cùng bay lên ở đây là chỉ con sóng hay chỉ khát vọng của tác giả hay chỉ cả hai khát vọng của ta cùng với hàng ngàn con sóng cùng bay lên giữa biển khơi rộng lớn. Theo em cách hiểu thứ ba là hợp lí vì tác giả “xuất dương” mang trong mình hoài bão lớn lao. Hai câu kết với hai hình ảnh kì vĩ “trường phong” và “thiên trùng bạch lãng”làm cho chí khí, tư thế của người chiến sĩ vượt lên thực tại đen tối với đôi cánh của lí tưởng cách mạng vươn ngang tầm vũ trụ được thể hiện qua vị ngữ “nguyện trục”, “nhất tề phi” khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong “Hành lộ nan” (Đi đường khó) của Lí Bạch: “Trường phong phá lãng hội hữu thì/ Trực quải vân phàm tế thương hải” (Cưỡi gió vượt sóng ắt có lúc/ Dong thẳng buồm mây vút bể xanh).

    “Lưu biệt khi xuất dương” thể hiện được lí tưởng cứu nước cao cả, nhiệt huyết sục sôi với tư thế đẹp đẽ và khát vọng lên đường cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong buổi đầu cứu nước. Về nghệ thuật bài thơ được làm theo luật bằng, đúng niêm, đúng luật của thể thơ đã được quy ước, tuy nhiên có nét cách tân đổi mới điều đó được thể hiện ở đại từ “Ngã” (ta). Ở trong thơ trung đại cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn.Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện bản lĩnh, chí hướng, khát vọng, quyết tâm của con người trong thời đại mới. Sử dụng ngôn ngữ phóng đại với hình ảnh kì vĩ, lãng mạn thể hiện được cái chí của mình.

   Vần thơ đã khép lại bấy lâu nay nhưng hồn thơ, thần sắc của bài thơ cùng với hình ảnh của một Phan Bội Châu quyết tâm, hăm hở, chủ động ra đi tìm đường cứu nước đã để lại tiếng vang, ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử. Phan Bội Châu không những về sự nghiệp vận động giải phóng dân tộc là một nhân vật tiêu biểu cho giai đoạn chống Pháp của nhân dân Việt Nam đầu thế kỉ XX mà còn là nhà thơ, nhà văn với những đóng góp có giá trị cho nền văn học nước nhà.

    Phan Bội Châu được coi là một trong số những anh hùng kiệt xuất có tầm ảnh hưởng lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình ông chưa một lần được hưởng niềm vui chiến thắng nhưng tình yêu đất nước, khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh của ông luôn là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, đam mê cho nhiều thế hệ sau này. Mà trước hết, thơ ca là mặt trận để ông bộc lộ điều ấy. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ như thế. Ra đời vào thời điểm, nhà thơ chuẩn bị lên đường sang Nhật để thực hiện chí lớn, tác phẩm đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, mong chờ một sự nghiệp kinh bang tế thế thay đổi vận mệnh cho nước nhà:

    Làm trai phải lạ ở trên đời…

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

    Bài thơ mở đầu bằng một quan niệm rất quen thuộc của Nho giáo: chí làm trai.v

    Làm trai phải lạ ở trên đời,

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

   Nếu đặt trong mạch nguồn của thơ ca trung đại, việc đề cập đến lý tưởng xã hội này là điều rất dễ thấy. Danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão và sau này là bậc nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ đã từng đề cập.

    Công danh nam tử còn vương nợ,

    Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

    (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)

    Đã mang tiếng ở trong trời đất,

    Phải có danh gì với núi sông.

    (Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)

    Cái chí của đấng nam nhi ở đây là công, là danh. Họ trông vào đó mà tìm kiếm sự nghiệp, khẳng định bản thân mình trước cuộc đời, trước mọi người. Nhưng cách thể hiện của Phan tiên sinh trong bài thơ này lại gây một ấn tượng mạnh. Cái chí của kẻ làm trai lại trở nên kì vĩ, lớn lao. Bởi nó được đặt trong một không gian đặc biệt, đó là vũ trụ. Nếu nhìn từ không gian ấy, bậc nam nhi sẽ còn có nhiều khao khát hơn là công và danh. Chữ lạ trong bản dịch thơ tuy hay nhưng chưa làm toát lên được ý nghĩa từ chữ kì trong văn bản gốc. Làm trai phải lạ cần được hiểu là làm được những việc kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Muốn làm được điều ấy, người quân tử phải được đặt trong một không gian không thể là trên đời được, mà phải là càn khôn. Vì “đời” tưởng rộng mà hóa ra lại hẹp, mới chỉ là thế giới loài người, còn “càn khôn” là vũ trụ bao la. Cho nên cái hay trong hai câu đề là không gian ấy đến câu thứ hai mới xuất hiện, nó làm tôn lên hình ảnh một bậc nam nhi đại trượng phu, hào kiệt dõng dạc hô vang ở câu đầu rằng phải lạ. Có nghĩa là đấng nam tử đâu chỉ trông chờ, thụ động, phó mặc cho tạo hóa xoay vần, mà phải chủ động, dấn thân thay đổi cả càn khôn, trời đất, cải tạo cả vũ trụ, giang sơn. Mạnh mẽ hơn là phải biết sống hiển hách, dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, đất nước lâm nguy thì ra tay cứu nước, thay đổi lịch sử. Cảm hứng sử thi, lãng mạn đã nâng tầm chí làm trai lên một diện mạo mới. Đặt trong bối cảnh ra đời bài thơ, hình ảnh đấng nam nhi mang tầm vóc vũ trụ ấy đã mở đầu cho một khúc khải hoàn ca đầy hùng tráng, phi thường về ý chí và tinh thần yêu nước.

    Hai câu đề đã mở ra không gian rộng lớn, đến hai câu thực lại mang tới độ tối đa trong thời gian của đời người:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở, há không ai?

    Trong quan niệm chung về đấng nam nhi ở trên, Phan Bội Châu đã nêu lên được ý thức cá nhân đầy khảng khái của bản thân mình. Đến hai câu này, ý thức cá nhân ấy càng rõ hơn. Có thể hiểu trong khoảng một trăm năm này, không thể thiếu được ta. Ta phải trở thành nhân vật lịch sử, ta có sứ mệnh xoay chuyển càn khôn để thay đổi cả bộ mặt lịch sử của thế kỉ này. Ta bỗng vút lên giữa cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian như thế, bảo sao lại không tráng lệ, lộng lẫy. Chữ tớ dịch khá thú vị, vừa có chút dí dỏm vừa vẫn khẳng định cái tôi đầy mạnh mẽ. Ý thức cá nhân được vươn cao, vươn rộng theo không gian và còn vươn dài theo cả thời gian nâng tầm nhận thức cao cả về sứ mệnh của con người trước lịch sử. Cái tôi như thế thật là vừa lãng mạn vừa kiêu hùng!

    Xoay chuyển càn khôn, làm chủ lịch sử tưởng chừng như đã quá to tát, ấy vậy mà cái phải lạ của bậc anh hào còn khiến người ta bất ngờ hơn:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.

    Trong bối cảnh của sự chuyển giao thời đại, dẫu có mới mẻ đến đâu cũng vẫn phải có sự thay đổi dần dần. Nhưng nhận thức của Phan tiên sinh lại khiến người ta thấy thật phi thường. Đúng non sông đã chết là cách nhân hóa rất chân thực cho hiện tại của nước nhà. Kẻ thù ngoại bang chiếm lấy chủ quyền thì coi như đất nước đã chết. Câu thơ uất nghẹn trước thực trạng đau thương của dân tộc. Nhưng cái mạnh mẽ của đấng nam nhi trước Tổ quốc như thế buộc phải nhận ra sống chỉ thêm nhục. Vì thế cái cần nhất, cái lý tưởng nhất của một thời hiền thánh giờ cũng chẳng còn ý nghĩa, có đọc sách cũng ngu thôi. Vậy là hai thứ quan trọng ấy mà còn tiếp tục sống, tiếp tục học thì chẳng khác nào đã để tự mình phó mặc cho số phận, để càn khôn nó tự chuyển dời, để tiếp tục sống một trăm năm đầy vô nghĩa. Có lẽ vậy mà, cuộc đời Phan Sào Nam tuy sống trọn vẹn trong cảnh đất nước lầm than, trải qua bao lần thất bại đau đớn nhưng ông vẫn cống hiến đầy hiển hách, vinh quang. Hai câu thơ đã chứng tỏ một sự chuyển mình của thời đại, nếu nói không quá lên, thật là vĩ đại. Nhận ra lẽ vinh nhục trong cảnh đất nước ấy là thường tình, nhưng dám chối bỏ, phủ định cả một nền học thức của một kẻ vốn xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình như cụ Phan, thì đó là một điều rất phi thường.

    Vậy không thể sống như thế với thực tại, muốn mưu đồ việc xoay chuyển càn khôn phải tiến đến hành động. Và hành động ấy chỉ có thể là xuất dương.

    Muốn vượt bể đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Hai câu kết thật đẹp! Hình ảnh miêu tả có phần ước lệ tượng trưng tạo nên một cảnh tượng biển trời, gió bão, sóng bạc thật hùng vĩ. Nó làm toát lên cái hùng tâm tráng trí của kẻ sĩ yêu nước cháy bỏng mà ở câu thơ cuối: thiên trùng bạch lãng nhất tề phi, bản dịch chưa làm toát lên được. Đúng hơn là biển mênh mông, gió bát ngát, sóng bạc muôn trùng và ý chí, khát vọng của con người cùng nhau hòa quện làm một mà nhất tề phi (cùng bay lên). Tâm thế ra đi cũng rộng lớn, tráng lệ như biển trời vậy. Có cái hào sảng, quyết tâm, mạnh mẽ, nhiệt huyết khi lên đường. Người ở lại – bạn bè bằng hữu, chắc chắn cảm nhận được khát vọng, lý tưởng trong hành động kiệt xuất của con người kiệt xuất ấy.

    Bài thơ khép lại trong một niềm hân hoan, hứng khởi trào dâng mãnh liệt của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Sự kết hợp đầy mới mẻ giữa cách thể hiện đậm chất thơ văn trung đại với những tư tưởng nội dung đậm hơi thở của nhịp sống đương thời đã hình tượng hóa một cách lãng mạn và hào hùng của người chí sĩ yêu nước những năm đầu thế kỉ XX. Giọng thơ nhiệt huyết, lay động này đã tiếp thêm sức mạnh, đã thổi bùng khát khao cho biết bao kẻ sĩ thời ấy có mong muốn thực hiện chí lớn vì sự nghiệp dân tộc của mình.

   Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuôn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).

    Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

    “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ỷ nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

    Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”

    “Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,

    Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

    Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:

    “Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,

    Lập thân tối hạ thị văn chương.”

    (Tùy viên thi thoại – Viên Mai)

    (Bữa bữa những mong ghi sử sách,

    Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).

    Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).

    Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã,

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

    Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

    “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.

    (“Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn)

    “Nhân vinh tự cổ thủy vô tử

    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.”

    (Vân Thiên Tường)

    Lấy cái hữu hạn – bách niên – của một đời người đối với cái vô hạn – thiên tài – của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

    “Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

    Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”

    (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)

    Khi non sông đã chất, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà:

    “Non sông đã chết, sống thêm nhục,

    Hiền thánh còn đâu học của hoài.”

    Phan Bội Châu đã dặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

    “Ai hữu chi từ nay xin gắng gỏi

    Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

    Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn

    Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

    Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…”

    Sống như thế là sống đẹp, sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ.”

    Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:

    “Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,

    Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.”

    Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong – Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng — ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu.Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

    “Xuất dương lưu biệt” là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

    Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng của ông vẫn lưu mãi muôn đời. Ông dùng thơ văn của mình như một thứ vũ khí đắc lực để cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Xuất dương khi lưu biệt là một trong những bài thơ như vậy.

    Thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã có nhiều phong trào nổ ra, trong đó nổi bật nhất là phong trào Cần Vương nhưng cuối cùng vẫn bị dập tắt, nó là sự báo hiệu cho việc cứu nước theo con đường phong kiến đã không còn thích hợp. Trước thực trạng chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phong trào cách mạng mới của Phan Bội Châu đã hé mở một hi vọng mới, ông cùng những người cùng chí hướng đã lập ra Duy tân hội. Đầu năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật, mở đầu cho phong trào Đông Du. Tác phẩm Xuất dương lưu biệt được viết trước khi ông lên đường. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước sâu lặng của tác giả.

    Hoài bão cuộc đời, chí khí làm trai của Phan Bội Châu được bộc lộ trực tiếp ngay trong câu thơ đầu tiên của tác phẩm:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Câu thơ bắt đầu bắt motip rất phổ biến trong văn học trung đại đó là “làm trai” tức để nói về nghĩa vụ, trách nhiệm của một nam nhi đối với cuộc đời, đối với đất nước. Đây là quan niệm nhập thế tích cực của Nho giáo. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến rất nhiều bài thơ nói chí phổ biến trong văn học trung đại như: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão) hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi song” (Nguyễn Công Trứ). Đến đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu tiếp tục nhắc lại quan niệm về chí làm trai, nhưng trong cách thể hiện của ông mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Làm trai là “phải lạ” tức là phải biết sống một cách phi thường, hiển hách, dám xoay vần, chuyển đất, không thể là một kẻ sống cuộc đời tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo thời thế, để con tạo tự xoay vần cuộc đời mình. Bởi vậy mà:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Trong khoảng trăm năm là cả một đời người với biết bao biến cố có thể xảy ra, Phan Bội Châu tự tin khẳng định: “cần có tớ” cái tôi cái nhân xuất hiện thật ngạo nghễ, thật chủ động. Cần có ông không phải để được vui chơi, hưởng lạc mà là để cống hiến tận lực, tận tâm cho đời, để tiếng thơm còn lưu danh muôn thuở. Trong thời cuộc lúc bấy giờ đầy rối ren, thử hỏi mấy ai có thể chủ động đứng ra nhận lấy trách nhiệm vừa cao cả, vừa nặng nề ấy cho bản thân. Câu thơ của ông càng khiến ta cảm phục hơn về nhân cách cao đẹp, lớn lao ấy.

    Với bốn câu thơ đầu người đọc có thể thấy hình tượng người chí sĩ hiện lên là người có khát vọng làm những việc lớn lao, trọng đại. Đồng thời ông cũng đầy ý thức về cái tôi của bản thân nhưng không phải là cái tôi hưởng thụ mà là cái tôi công dân đầy trách nhiệm. Có ý thức cống hiến cho đời. Giữa thời buổi tối tăm đó ý thức làm trai, khát vọng xoay chuyển vũ trụ và hoài bão lớn lao của Phan Bội Chây có ý nghĩa vô cùng to lớn.

    Bốn câu thơ cuối thể hiện chí làm trai trong hoàn cảnh thực tế:

    Non sông đã chết sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Muốn vượt biển đông theo cánh gió

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Câu thơ là nỗi đau đớn, xót xa quặn thắt của nhân vật trữ tình trước thực tế nước nhà đã bị mất chủ quyền, nhân dân phải sống trong vòng nô lệ. Phan Bội Châu cũng ý thức rõ về sự hết thời của Nho học, sách vở thánh hiền không còn có ý nghĩa gì cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ông vốn xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, vậy nhưng ông không hề bao biện mà thấy rõ sự bất lực, vô ích của lối học cũ, mang trong mình quyết tâm tìm ra con đường mới để giải phóng đất nước. Đây là một ý tưởng hết sức mạnh mẽ, táo bạo. Sự táo bạo đó bắt nguồn từ nhiệt huyết nồng cháy, lòng yêu nước nồng nàn, muốn nhanh chóng thực hiện sự nghiệp cứu nước. Đồng thời cũng do ông chịu ảnh hưởng từ những cuốn “tân thư” được truyền bá bí mật vào nước ta lúc bấy giờ. Chính những yếu tố đó đã thôi thúc ông tìm một hướng đi mới, con đường mới để cứu nước, cứu dân.

    Với giọng điệu tràn đậy nhiệt huyết và cảm xúc, bài thơ đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ khí phách ngang tàng, táo bạo quyết liệt của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Đồng thời tác phẩm này cũng cho người đọc thấy nét tính cách nổi bật trong con người ông đó là cá tính mạnh mẽ, ưa hành động, lòng yêu nước nồng nàn, sâu đậm.

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu

Phan Bội Châu là một nhà yêu nước của đầu thế kỉ XX, một chí sĩ cách mạng luôn mang trong mình tinh thần kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ đồng thời ông cũng là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp cho lĩnh vực văn chương trong đó có tác phẩm “Xuất dương lưu biệt”. Bài thơ thể hiện chí làm trai của Sào Nam Tử (Bút danh) với hoài bão lớn lao, khát vọng cứu nước sục sôi và tầm nhìn tư tưởng tiến bộ của tác giả. Tác phẩm đã để lại cho em cũng như biết bao độc giả khác nhiều ấn tượng bởi nó toát lên con người của cụ Phan.

Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp sang xâm lược và thi hành chính sách cai trị tàn bạo đối với nhân dân Việt Nam, đã có biết bao anh hùng hảo hán yêu nước đứng lên chống giặc nhưng thế giặc mạnh như chẻ tre lại có vũ khí hiện đại hơn ta rất nhiều nên dân ta đẫm máu đau thương. Phan Bội Châu nhận thức được vấn đề dân tộc nên ông quyết định tìm con đường cứu nước khác là lập hội Duy Tân sang Nhật cầu viện. Đây là một tư tưởng tiến bộ, mở ra cho dân tộc con đường cứu nước mới nhưng do còn phạm phải sai lầm nên lịch sử đã không lựa chọn. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” được sáng tác khi khát vọng cứu nước của đấng nam nhi đang trên đà thuận lợi với chủ trương cứu nước của ông bằng cách đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập sự tiến bộ để về giúp dân giúp nước giải phóng dân tộc. Bài thơ là cảm xúc tình cảm của tác giả lúc từ biệt khi ra nước ngoài.

Tư tưởng bao trùm lên tác phẩm là chí làm trai của người nam tử có tinh thần yêu nước, có hoài bão, có khát vọng lớn lao. Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm với từ “Xuất dương” nghĩa là đi ra ngoài biển khơi nó gắn với hoạt động cách mạng cụ thể của cụ Phan. Ông cũng như bao trang nam tử khác luôn thấm nhuần triết lí Nho gia về phận nam nhi. Ông khẳng định:

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

(Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời)

Chí làm trai theo Phan Bội Châu người nam tử phải làm được chuyện lạ ở trên đời, một con người có khát vọng gắn với thế sự, gắn với thời cuộc. Con người ấy là con người chủ động trong tâm thế, tư thế không chấp nhận để cho trời đất tự xoay vần. Gắn với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì người nam nhi ấy phải phải lập lại thời thế, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập-tự do cho đất nước. Chí làm trai và tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu đã tiếp nối truyền thống dân tộc và kế thừa tư tưởng của tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…Ông tự hào mình là đấng nam nhi thì quyết phải sống cho ra sống với ý thức cá nhân cao độ, tinh thần tự nhiệm, tự mình của người nam tử được thể hiện:

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?). Tác giả lấy cái hữu hạn của “bách niên” đối với cái vô hạn “thiên tải”, lấy cái phủ định để khẳng định. Chí làm trai tiếp tục được thể hiện trong ý thơ này với mong muốn làm chuyện lớn lao vượt ra khỏi giới hạn của bản thân, với ý thức tự nhiệm tự mình đặt trọng trách dân dân tộc lên vai mà gánh vác việc đời. Ông hỏi mình trong khoảng trăm năm cần thiết phải có ta, há nghìn năm sau lại không có ai? Và câu hỏi cũng là câu trả lời để khẳng định nay ta là ta thì nghìn năm sau mới có hậu thế, anh hùng dân tộc đời nào cũng có cũng làm nên việc lớn việc lạ. Câu thơ là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân tác giả trước bối cảnh của lịch sử với tinh thần tự thân gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Tư tưởng ấy để lại bài học quý báu cho thanh niên Việt Nam đúng như lời Bác Hồ nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Tuổi còn trẻ còn khỏe còn sung sức phải hết mình học tập tu dưỡng để giúp nước giúp đời làm giàu làm đẹp cho quê hương để cho Việt Nam sánh vai được sánh vai với các cường quốc năm châu.

Một điểm nhìn mới của cụ Phan đáng được nghi nhận nữa là ông nhìn thấu sự lỗi thời, lạc hậu của quan điểm Nho gia.

    “Giang sơn tử hĩ sinh đồ chuế

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”

(Non sông đã chết sống thêm nhục/ Hiền thánh còn đâu học cũng hoài). Dân tộc mất đi chủ quyền, đất nước bị giặc giày xéo người nam tử hoặc sống chỉ thêm nhục nhã, thừa thãi vô nghĩa hoặc sống cho ra sống lập lại “càn khôn”, lấy lại hồn nước cho dân tộc. Ông như đang nhắn nhủ tới những người dân Việt Nam hãy thức tỉnh, hãy đứng lên chống Pháp, hãy đổi mới hướng tư duy bởi “hiền thánh” tức cựu học, nho học không còn phù hợp với thời đại mới, cần phải theo đuổi cái tâm học thực tế để canh tân đất nước, tránh đi theo giáo lí lỗi thời và lối mòn sáo rỗng không giúp ích được gì cho sự nghiệp cứu nước hiện tại và tương lai. Lời nhắn nhủ ấy mở rộng ra cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc thời đại nào thì phù hợp với quan niệm, tư tưởng của thời đại đó, những điều lạc hậu không còn phù hợp với bối cảnh thực tại thì nên loại bỏ và cần tiếp thu tư tưởng mới, tiến bộ. Trong hai câu thơ trên bản dịch thơ sử dụng từ “hoài” là chưa hợp lí bởi theo nguyên tác chữ Hán “Si” có nghĩa u mê, mê muội một điều gì đó mất lí trí, “hoài” mang mức độ nhẹ hơn, chưa thực sự lột tả được bản chất từ Hán gốc.

Cuối cùng là hình ảnh con người của một Phan Bội Châu có hoài bão lớn lao, khắc họa tư thế hiên ngang, hăm hở tràn đầy hy vọng ở buổi lên đường. Ông nguyện (mong muốn) ruổi theo gió lớn đi ra biển Đông “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ”câu thơ mang hai nét nghĩa trừu tượng và cụ thể. Với nét nghĩa trừu tượng thể hiện mong muốn vượt lên chính mình, vượt qua giới hạn bản thân làm nên việc lạ ở trong khoảng trăm năm.Với nét nghĩa cụ thể để chỉ phong trào Đông Du, chỉ những người thanh niên mong muốn học tập cái mới để giúp nước. Tuy nhiên bản dịch thơ trong sách giáo khoa từ “Cánh gió” gợi sự mỏng manh chưa lột tả được thần sắc của “trường phong” là cơn gió lớn, cơn gió dài nó là sự quyết tâm ra đi cứu nước của tác giả. Để rồi ngàn con sóng bạc đầu cùng bay lên “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” hình ảnh con sóng mang nét nghĩa thực chỉ sóng biển và nghĩa biểu trưng chỉ ý chí, khát vọng của người chí sĩ cách mạng. Như vậy thì “Nhất tề phi” (Cùng một lúc bay lên) là chỉ sóng hay ý chí, khát vọng hay cả hai cùng hòa quyện vào nhau bay lên? Theo tôi đó là cả hai yếu tố từ ngoại cảnh bên ngoài và nội tâm bên trong cùng tạo thành một quyết tâm cao cho ý chí cứu nước được thể hiện. Hai câu kết với hai hình ảnh kì vĩ, lớn lao “trường phong” và “thiên trùng bạch lãng” với vị ngữ “nguyện trục” và “nhất tề phi” thể hiện chí khí hào hùng của người chí sĩ cách mạng. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh “trường phong” trong bài “Hành lộ nan” của Lí Bạch:

    “Trường phong phá lãng hội hữu thì

    Trực quải vân phàm tế thương hải”

(Cưỡi gió vượt sóng ắt có lúc/ Dong thẳng buồm mây vút bể xanh)

Như vậy, bằng tài năng của một người nghệ sĩ và ý chí của người cách mạng đã hòa quyện vào nhau làm nên tác phẩm có ý nghĩa. “Xuất dương lưu biệt” vừa thể hiện được tư thế quyết tâm hăm hở của Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước vừa là tác phẩm thơ văn thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Cụ Phan là một trong những tấm gương tiêu biểu cho phong trào cứu nước ở đầu thế kỉ XX được nhân dân yêu mến, kính phục ngày nay nhiều trường học và con đường được mang tên ông để tưởng nhớ đến vị anh hùng dân tộc.

Đề bài: Phân tích hình tượng người chí sĩ yêu nước trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

   Thế kỉ XX, đặc biệt là những năm đầu, đất nước, nhân dân ta đã ghi nhận nhiều gương mặt các nhà cách mạng, nhà chí sĩ yêu nước lỗi lạc như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… và không thể không kể đến Phan Bội Châu. Đóng góp to lớn của ông đối với thời đại khó mà kể hết được, trước hết là tinh thần yêu nước. Đã nhiều lần ông gửi gắm điều ấy trong các sáng tác sục sôi ý chí căm hơn, thúc giục thế hệ trẻ phải đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Một trong số đó, có Lưu biệt khi xuất dương đã khắc họa thành công hình ảnh người chí sĩ yêu nước lúc lên đường thực hiện ước mơ lớn:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

   

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

   Thật chẳng khó nhận ra, những năm đầu của thế kỉ XX tinh thần yêu nước đã lớn mạnh như thế nào, trước hết xuất phát từ những bậc nho sĩ. Thất bại của phong trào Cần Vương, hay câu chuyện “Bình Tây phục quốc” không thành… đất nước vẫn rơi vào tay giặc là hiện thực buồn bã của dân tộc. Nhưng sức mạnh của truyền thống yêu nước cả ngàn năm dội về, cùng với những “tân thư” mới mẻ của thời đại, đã tạo ra những phong trào: Duy tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục… làm thức tỉnh cả một lớp nhà nho nhiệt huyết. Họ đã hành động theo tiếng gọi của lịch sử: kẻ cắt phăng búi tóc trên đầu mà đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới, kẻ tạm biệt gia đình, người thân, quê hương đi Tàu, đi Xiêm, đi Nhật để hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ. “Tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: “khôi phục nước nhà” (Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu cũng mưu đồ sự nghiệp ấy tới đất nước Nhật Bản. Chưa bàn con đường ấy đúng sai, nhưng ông đã tạo nên một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi bùng khát vọng đấu tranh của dân tộc trong một thời gian dài. Lưu biệt khi xuất dương ra đời trong bối cảnh như thế. Khúc trang ca khi lên đường này ông viết để giã từ bạn bè, đồng chí nhưng đã khắc họa đầy chân thực và lãng mạn hình ảnh người chí sĩ yêu nước trong lúc ra đi.

   Chân dung bậc nho sĩ ái quốc hiện lên trong dáng vẻ phi thường thách thức cả không gian và thời gian:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

   

    Sau này muôn thuở há không ai?

   Người chí sĩ đó vẫn mang theo khát vọng chí làm trai thuở trước, nhưng khát vọng ấy thật oai hùng, phi thường của một bậc vĩ nhân. Có hai vấn đề, mà không phải là sự nghiệp “công danh” thông thường đấng nam nhi hay nghĩ tới, đó là phải lạ giữa càn khôn và phải cần có tớ trong khoảng trăm năm này. Phan Bội Châu lựa chọn không gian và thời gian đặc biệt để cái chí của kẻ làm trai được thỏa sức tung hoành. Cái lạ là phải làm nên được những điều kì diệu, phi thường không phải ở đời mà phải giữa càn khôn. Suốt một trăm năm đời người không thể sống hoài, sống phí mà phải trở thành nhân vật lịch sử lớn lao. Ý thức cá nhân, bản ngã lịch sử đẩy tâm tư của người chí sĩ thoát khỏi những suy nghĩ thông thường mà khát vọng mưu đồ việc lớn, xoay chuyển càn khôn, cụ thể là đất nước lâm nguy thì cần phải ra tay cứu nước. Tớ cần phải xoay vần vũ trụ, phải làm điều kinh thiên động địa trong thế kỉ này. Ở Phan tiên sinh, cái tôi yêu nước đầy chủ động, không trông chờ, không hô hào mà trở thành lý tưởng hành động.

   Bởi vậy cái phải lạ không phải là một lời nói suông, mà trở thành hành động thực sự:

    Non sông đã chết sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

   Người chí sĩ yêu nước như nhân vật trữ tình trong bài thơ này thật khiến người ta thán phục. Cái tráng lệ trong tinh thần không chỉ toát ra từ ý thức cá nhân đầy mạnh mẽ mà ở cả nhận thức đã hoàn toàn chuyển mình. Nhiều nhà nho thời ấy đều biết sự nhục nhã khi phải sống trong cảnh ngoại bang xâm lăng, sự vô nghĩa khi giá trị của nền học vấn cũ giờ đây đã không còn phù hợp. Nhưng để viết nó ra một cách đầy khảng khái, khí chất chỉ có Phan Bội Châu. Cách ông hình tượng hóa hiện thực đất nước rất chân thực: non sông đã chết. Nó không đơn thuần còn là lẽ sống vinh nhục, mà là nỗi đau của nước mất nhà tan. Từ đó không chỉ riêng ông mà biết bao người chí sĩ đã từng là “sản phẩm” của một nền Hán học uy nghi, vững chãi cả ngàn năm, đã từng xuất thân từ chốn cửa Khổng sân Trình cũng đau đớn nhận ra, cái hiền thánh năm xưa đã không còn. Nếu ở trên, hình ảnh người chí sĩ yêu nước thật ngang tàng, thách thức, có phần bướng bỉnh trước vũ trụ, cuộc đời, thì đến đây còn trở nên quật cường, quyết liệt hơn trong nhận thức. Còn sống là còn nhục, còn học là còn ngu. Táo bạo, dứt khoát, người chí sĩ ấy không né tránh mà đối diện với hiện thực thật oai hùng. Bởi vậy điều lạ trong con người của nhân vật trữ tình đã đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy yêu nước của thời đại.

   Muốn làm điều kinh thiên động địa, muốn làm cho đất nước thoát cảnh lầm than, muốn thay đổi con đường cứu nước cho dân tộc, người chí sĩ đã vượt xa hơn lời nói mà trở thành hành động cụ thể, đó là: xuất dương.

    Muốn vượt bể đông theo cánh sóng

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

   Hai câu thơ cuối hình ảnh người chí sĩ lên đường thật phi thường, oai hùng mà lãng mạn. Cái nhất thể giữa tự nhiên và con người, giữa ngoại cảnh và ý chí đã đẩy bức chân dung nhân vật lịch sử năm ấy như một bức tượng đài sừng sững, nguy nga. Vẫn là không gian rộng lớn của biển khơi, vẫn là cái mạnh mẽ của muôn trùng sóng bạc nhưng lại hòa cùng nhau mà đẩy khát vọng, hoài bão của người chí sĩ vút cao. Ba chữ nhất tề phi bản dịch đã không nhắc tới, khiến sắc thái, tinh thần của kẻ sĩ lên đường chưa thể lột tả hết được. Cảnh tượng cuối bài thơ đã cho thấy một bầu nhiệt huyết sục sôi, lý tưởng lớn lao của bậc sĩ phu yêu nước khi lên đường. Điều đó đã tạo nên một khúc khải hoàn ca thật tráng lệ, hào hùng để mang theo bao hi vọng, bao niềm tin, bao ước mơ về một tương lai tươi sáng của dân tộc.

   Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu không phải tự nhiên có sức ảnh hưởng to lớn đến thời đại mà ông sống đến vậy. Bởi tinh thần đó đã khai sáng biết bao nhiêu kẻ sĩ còn mò mẫm trên hành trình phục sinh Tổ quốc. Dẫu Phan tiên sinh sau này vẫn chưa thành công được trong sự nghiệp kinh bang tế thế, nhưng lòng yêu nước và sức mạnh quả cảm của tấm lòng ấy mãi mãi trở thành ngọn lửa sáng rực cả bầu trời Cách mạng những năm nửa đầu thế kỉ XX. Lưu biệt khi xuất dương bởi vậy không còn là bài thơ giãi bày cảm xúc lưu luyến, bịn rịn trong cảnh chia tay thông thường mà là ý chí quyết tâm ra đi để mưu đồ nghiệp lớn. Bài thơ mãi mãi còn đó sự bất diệt trong khát vọng đấu tranh và tinh thần yêu nước cho những thế hệ sau này.

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

    Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng của ông vẫn lưu mãi muôn đời. Ông dùng thơ văn của mình như một thứ vũ khí đắc lực để cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Xuất dương khi lưu biệt là một trong những bài thơ như vậy.

    Thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã có nhiều phong trào nổ ra, trong đó nổi bật nhất là phong trào Cần Vương nhưng cuối cùng vẫn bị dập tắt, nó là sự báo hiệu cho việc cứu nước theo con đường phong kiến đã không còn thích hợp. Trước thực trạng chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phong trào cách mạng mới của Phan Bội Châu đã hé mở một hi vọng mới, ông cùng những người cùng chí hướng đã lập ra Duy tân hội. Đầu năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật, mở đầu cho phong trào Đông Du. Tác phẩm Xuất dương lưu biệt được viết trước khi ông lên đường. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước sâu lặng của tác giả.

    Hoài bão cuộc đời, chí khí làm trai của Phan Bội Châu được bộc lộ trực tiếp ngay trong câu thơ đầu tiên của tác phẩm:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Câu thơ bắt đầu bắt motip rất phổ biến trong văn học trung đại đó là “làm trai” tức để nói về nghĩa vụ, trách nhiệm của một nam nhi đối với cuộc đời, đối với đất nước. Đây là quan niệm nhập thế tích cực của Nho giáo. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến rất nhiều bài thơ nói chí phổ biến trong văn học trung đại như: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão) hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi song” (Nguyễn Công Trứ). Đến đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu tiếp tục nhắc lại quan niệm về chí làm trai, nhưng trong cách thể hiện của ông mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Làm trai là “phải lạ” tức là phải biết sống một cách phi thường, hiển hách, dám xoay vần, chuyển đất, không thể là một kẻ sống cuộc đời tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo thời thế, để con tạo tự xoay vần cuộc đời mình. Bởi vậy mà:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Trong khoảng trăm năm là cả một đời người với biết bao biến cố có thể xảy ra, Phan Bội Châu tự tin khẳng định: “cần có tớ” cái tôi cái nhân xuất hiện thật ngạo nghễ, thật chủ động. Cần có ông không phải để được vui chơi, hưởng lạc mà là để cống hiến tận lực, tận tâm cho đời, để tiếng thơm còn lưu danh muôn thuở. Trong thời cuộc lúc bấy giờ đầy rối ren, thử hỏi mấy ai có thể chủ động đứng ra nhận lấy trách nhiệm vừa cao cả, vừa nặng nề ấy cho bản thân. Câu thơ của ông càng khiến ta cảm phục hơn về nhân cách cao đẹp, lớn lao ấy.

    Với bốn câu thơ đầu người đọc có thể thấy hình tượng người chí sĩ hiện lên là người có khát vọng làm những việc lớn lao, trọng đại. Đồng thời ông cũng đầy ý thức về cái tôi của bản thân nhưng không phải là cái tôi hưởng thụ mà là cái tôi công dân đầy trách nhiệm. Có ý thức cống hiến cho đời. Giữa thời buổi tối tăm đó ý thức làm trai, khát vọng xoay chuyển vũ trụ và hoài bão lớn lao của Phan Bội Chây có ý nghĩa vô cùng to lớn.

    Bốn câu thơ cuối thể hiện chí làm trai trong hoàn cảnh thực tế:

    Non sông đã chết sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Muốn vượt biển đông theo cánh gió

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Câu thơ là nỗi đau đớn, xót xa quặn thắt của nhân vật trữ tình trước thực tế nước nhà đã bị mất chủ quyền, nhân dân phải sống trong vòng nô lệ. Phan Bội Châu cũng ý thức rõ về sự hết thời của Nho học, sách vở thánh hiền không còn có ý nghĩa gì cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ông vốn xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, vậy nhưng ông không hề bao biện mà thấy rõ sự bất lực, vô ích của lối học cũ, mang trong mình quyết tâm tìm ra con đường mới để giải phóng đất nước. Đây là một ý tưởng hết sức mạnh mẽ, táo bạo. Sự táo bạo đó bắt nguồn từ nhiệt huyết nồng cháy, lòng yêu nước nồng nàn, muốn nhanh chóng thực hiện sự nghiệp cứu nước. Đồng thời cũng do ông chịu ảnh hưởng từ những cuốn “tân thư” được truyền bá bí mật vào nước ta lúc bấy giờ. Chính những yếu tố đó đã thôi thúc ông tìm một hướng đi mới, con đường mới để cứu nước, cứu dân.

    Với giọng điệu tràn đậy nhiệt huyết và cảm xúc, bài thơ đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ khí phách ngang tàng, táo bạo quyết liệt của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Đồng thời tác phẩm này cũng cho người đọc thấy nét tính cách nổi bật trong con người ông đó là cá tính mạnh mẽ, ưa hành động, lòng yêu nước nồng nàn, sâu đậm.

   Phan Bội Châu là một nhà yêu nước của đầu thế kỉ XX, một chí sĩ cách mạng luôn mang trong mình tinh thần kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ đồng thời ông cũng là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp cho lĩnh vực văn chương trong đó có tác phẩm “Xuất dương lưu biệt”. Bài thơ thể hiện chí làm trai của Sào Nam Tử (Bút danh) với hoài bão lớn lao, khát vọng cứu nước sục sôi và tầm nhìn tư tưởng tiến bộ của tác giả. Tác phẩm đã để lại cho em cũng như biết bao độc giả khác nhiều ấn tượng bởi nó toát lên con người của cụ Phan.

   Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp sang xâm lược và thi hành chính sách cai trị tàn bạo đối với nhân dân Việt Nam, đã có biết bao anh hùng hảo hán yêu nước đứng lên chống giặc nhưng thế giặc mạnh như chẻ tre lại có vũ khí hiện đại hơn ta rất nhiều nên dân ta đẫm máu đau thương. Phan Bội Châu nhận thức được vấn đề dân tộc nên ông quyết định tìm con đường cứu nước khác là lập hội Duy Tân sang Nhật cầu viện. Đây là một tư tưởng tiến bộ, mở ra cho dân tộc con đường cứu nước mới nhưng do còn phạm phải sai lầm nên lịch sử đã không lựa chọn. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” được sáng tác khi khát vọng cứu nước của đấng nam nhi đang trên đà thuận lợi với chủ trương cứu nước của ông bằng cách đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập sự tiến bộ để về giúp dân giúp nước giải phóng dân tộc. Bài thơ là cảm xúc tình cảm của tác giả lúc từ biệt khi ra nước ngoài.

   Tư tưởng bao trùm lên tác phẩm là chí làm trai của người nam tử có tinh thần yêu nước, có hoài bão, có khát vọng lớn lao. Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm với từ “Xuất dương” nghĩa là đi ra ngoài biển khơi nó gắn với hoạt động cách mạng cụ thể của cụ Phan. Ông cũng như bao trang nam tử khác luôn thấm nhuần triết lí Nho gia về phận nam nhi. Ông khẳng định:

    “Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

   (Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời)

   Chí làm trai theo Phan Bội Châu người nam tử phải làm được chuyện lạ ở trên đời, một con người có khát vọng gắn với thế sự, gắn với thời cuộc. Con người ấy là con người chủ động trong tâm thế, tư thế không chấp nhận để cho trời đất tự xoay vần. Gắn với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì người nam nhi ấy phải phải lập lại thời thế, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập-tự do cho đất nước. Chí làm trai và tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu đã tiếp nối truyền thống dân tộc và kế thừa tư tưởng của tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…Ông tự hào mình là đấng nam nhi thì quyết phải sống cho ra sống với ý thức cá nhân cao độ, tinh thần tự nhiệm, tự mình của người nam tử được thể hiện:

    “Ư bách niên trung tu hữu ngã

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

   (Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?). Tác giả lấy cái hữu hạn của “bách niên” đối với cái vô hạn “thiên tải”, lấy cái phủ định để khẳng định. Chí làm trai tiếp tục được thể hiện trong ý thơ này với mong muốn làm chuyện lớn lao vượt ra khỏi giới hạn của bản thân, với ý thức tự nhiệm tự mình đặt trọng trách dân dân tộc lên vai mà gánh vác việc đời. Ông hỏi mình trong khoảng trăm năm cần thiết phải có ta, há nghìn năm sau lại không có ai? Và câu hỏi cũng là câu trả lời để khẳng định nay ta là ta thì nghìn năm sau mới có hậu thế, anh hùng dân tộc đời nào cũng có cũng làm nên việc lớn việc lạ. Câu thơ là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân tác giả trước bối cảnh của lịch sử với tinh thần tự thân gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Tư tưởng ấy để lại bài học quý báu cho thanh niên Việt Nam đúng như lời Bác Hồ nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Tuổi còn trẻ còn khỏe còn sung sức phải hết mình học tập tu dưỡng để giúp nước giúp đời làm giàu làm đẹp cho quê hương để cho Việt Nam sánh vai được sánh vai với các cường quốc năm châu.

   Một điểm nhìn mới của cụ Phan đáng được nghi nhận nữa là ông nhìn thấu sự lỗi thời, lạc hậu của quan điểm Nho gia.

    “Giang sơn tử hĩ sinh đồ chuế

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”

   (Non sông đã chết sống thêm nhục/ Hiền thánh còn đâu học cũng hoài). Dân tộc mất đi chủ quyền, đất nước bị giặc giày xéo người nam tử hoặc sống chỉ thêm nhục nhã, thừa thãi vô nghĩa hoặc sống cho ra sống lập lại “càn khôn”, lấy lại hồn nước cho dân tộc. Ông như đang nhắn nhủ tới những người dân Việt Nam hãy thức tỉnh, hãy đứng lên chống Pháp, hãy đổi mới hướng tư duy bởi “hiền thánh” tức cựu học, nho học không còn phù hợp với thời đại mới, cần phải theo đuổi cái tâm học thực tế để canh tân đất nước, tránh đi theo giáo lí lỗi thời và lối mòn sáo rỗng không giúp ích được gì cho sự nghiệp cứu nước hiện tại và tương lai. Lời nhắn nhủ ấy mở rộng ra cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc thời đại nào thì phù hợp với quan niệm, tư tưởng của thời đại đó, những điều lạc hậu không còn phù hợp với bối cảnh thực tại thì nên loại bỏ và cần tiếp thu tư tưởng mới, tiến bộ. Trong hai câu thơ trên bản dịch thơ sử dụng từ “hoài” là chưa hợp lí bởi theo nguyên tác chữ Hán “Si” có nghĩa u mê, mê muội một điều gì đó mất lí trí, “hoài” mang mức độ nhẹ hơn, chưa thực sự lột tả được bản chất từ Hán gốc.

   Cuối cùng là hình ảnh con người của một Phan Bội Châu có hoài bão lớn lao, khắc họa tư thế hiên ngang, hăm hở tràn đầy hy vọng ở buổi lên đường. Ông nguyện (mong muốn) ruổi theo gió lớn đi ra biển Đông “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ”câu thơ mang hai nét nghĩa trừu tượng và cụ thể. Với nét nghĩa trừu tượng thể hiện mong muốn vượt lên chính mình, vượt qua giới hạn bản thân làm nên việc lạ ở trong khoảng trăm năm.Với nét nghĩa cụ thể để chỉ phong trào Đông Du, chỉ những người thanh niên mong muốn học tập cái mới để giúp nước. Tuy nhiên bản dịch thơ trong sách giáo khoa từ “Cánh gió” gợi sự mỏng manh chưa lột tả được thần sắc của “trường phong” là cơn gió lớn, cơn gió dài nó là sự quyết tâm ra đi cứu nước của tác giả. Để rồi ngàn con sóng bạc đầu cùng bay lên “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” hình ảnh con sóng mang nét nghĩa thực chỉ sóng biển và nghĩa biểu trưng chỉ ý chí, khát vọng của người chí sĩ cách mạng. Như vậy thì “Nhất tề phi” (Cùng một lúc bay lên) là chỉ sóng hay ý chí, khát vọng hay cả hai cùng hòa quyện vào nhau bay lên? Theo tôi đó là cả hai yếu tố từ ngoại cảnh bên ngoài và nội tâm bên trong cùng tạo thành một quyết tâm cao cho ý chí cứu nước được thể hiện. Hai câu kết với hai hình ảnh kì vĩ, lớn lao “trường phong” và “thiên trùng bạch lãng” với vị ngữ “nguyện trục” và “nhất tề phi” thể hiện chí khí hào hùng của người chí sĩ cách mạng. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh “trường phong” trong bài “Hành lộ nan” của Lí Bạch:

    “Trường phong phá lãng hội hữu thì

    Trực quải vân phàm tế thương hải”

   (Cưỡi gió vượt sóng ắt có lúc/ Dong thẳng buồm mây vút bể xanh)

   Như vậy, bằng tài năng của một người nghệ sĩ và ý chí của người cách mạng đã hòa quyện vào nhau làm nên tác phẩm có ý nghĩa. “Xuất dương lưu biệt” vừa thể hiện được tư thế quyết tâm hăm hở của Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước vừa là tác phẩm thơ văn thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Cụ Phan là một trong những tấm gương tiêu biểu cho phong trào cứu nước ở đầu thế kỉ XX được nhân dân yêu mến, kính phục ngày nay nhiều trường học và con đường được mang tên ông để tưởng nhớ đến vị anh hùng dân tộc.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 911

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống