Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Tóm tắt truyện “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải.

Bài làm

    Nhân vật Khải cho biết cô Hiền là “chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”. Cô sinh trưởng trong một gia đình ở Hà Nội giàu sang phú quý.

    Từ chiến khu về tiếp quản thủ đô, anh cảm thấy cực kì khoan khoái được sống giữa phố phường đông vui. Anh bàn khoăn tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Họ đang tim cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần anh đến thăm cô chú, thằng em trai chạy ra mở cửa kêu ầm lên: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!” ,thì cô cau mặt gắt: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa?”. Khi người chú nắm lấy tay anh và nói: “Tại sao chủ nhật đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi “, thì cô thở dài, quay người đi. Cô phàn nàn với người cháu là chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá… Trước đây, cô chú có hai người ở, một anh bếp và một chị vú. Sau ngày giải phóng cô cho anh bếp về quê làm ruộng, chỉ giữ lại chị vú. Quan hệ hai bên rất tình nghĩa thuỷ chung.

    Trong lí lịch cán bộ, Khải không ghi tên cô Hiền vì họ thì xa, vả lại dính líu vào bà tư sản lại thêm phiền. Một hôm, Khải hỏi tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô cười rất tươi, nói thản nhiên: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”, Nhiều bà bạn thắc mắc về chuyện cô trông như bà tư sản mà không bị học tập thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Cô Hiền rất thức thời. Cô có ngôi nhà ở Hàng Bún cho thuê, năm 56, cô bán cho một người bạn ở kháng chiến về. Ông chồng muốn mua một máy in để kinh doanh, cô nhẹ nhàng hỏi lại, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à? Tính vốn nhát, ông chồng rút lui ngay.

    Cô Hiền có đầu óc rất thực tế, không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Mọi sự mọi việc, cô đều tính toán trước cả. Cô tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Gần ba chục tuổi, cô mới lấy chồng. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp tiểu học hiền lành làm bạn trăm năm, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc.

    Sau khi sinh đứa con gái út, đứa con thứ năm, cô nói với chồng là từ nay chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi. Cô dạy các con biết tự trọng, biết xấu hổ, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô chê Khải là bắt nạt vợ con nhiều quá. Theo cô, người vợ phải là nội tướng trong gia đình.

    Năm 1965, Dũng đứa con trai đầu lòng của cồ tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Khi đứa cháu hỏi, cô bảo: “Tao đau đớn mà bằng lòng… nó dám đi cũng là biết trọng”. Ba năm sau, đứa em kế của Dũng làm đơn xin tòng quân, đứa cháu lại hỏi, cô trả lời buồn bã: “Tao không khuyến khích, không ngăn cản, ngăn cán tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó “. Rồi cô chép miệng: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”.

    Mười năm sau, tháng 12 năm 1975, Dũng từ chiến trưòrng miền Nam trở về. Gầy đen quá, râu ria cũng nhiều quá. Con trai khoác ba lô vào đến giữa nhà, cô Hiền còn hỏi anh muốn mua gì? Cô chú mở tiệc liên hoan ăn mừng. Khoảng mươi, mười lăm người đến dự, là bạn bè, những cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kì. Ngày thường, họ ăn mặc bình dị, nhưng hôm ấy họ thật sang trọng, lịch sự. Các ông thì mặc đồ bộ, thắt cà vạt; các bà thì áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền xuất hiện như diễn viên sân khâu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh. Trong bữa tiệc, Dũng cho biết trong số 660 thanh niên Hà Nội ra đi chuyến ấy, nay chỉ còn lại trên dưới bốn chục người. Anh nói về Tuất, người bạn đồng đội cùng trung đoàn, cùng cấp thượng uý đã hi sinh tại mặt trận Xuân Lộc trước ngày toàn thắng có mấy ngày; Dùng kể chuyên gặp mẹ Tuất, anh khóc, nước mắt đầm đìa, còn mẹ của Tuất cứ run lên bần bật…

    Nhiều năm đã trôi qua, Khải vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Ong chú đã mất, cỏ Hiền đã già yếu, ngoài bảy mươi, các em đã có gia đình riêng. Gần Tết, cỏ Hiền đang lau đánh cái bát thuỷ tiên. Cô Hiền vẫn là người của Hà Nội hôm nay. Hai cô cháu nói bao chuyện về Hà Nội. Khải tự hào về người cô giỏi quá, khiêm tốn và rộng lượng quá. Anh cảm thấy thật tiếc một người như cô phải chết đi, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ…

Đề bài: Một người Hà Nội là một tác phẩm rất hay nói về một người mang tính cách của những người Hà Nội thanh lịch. Anh chị hãy viết bài văn Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải để thấy điều đó

Bài làm

   Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội. Từ đó làm nổi bật bản chất tốt đẹp của những con người bình thường mà cuộc đời họ gắn liền với những thăng trầm của lịch sử và quá trình phát triển của đất nước. Cái nhìn mới về con người và cuộc sống của tác giả thể hiện qua những phát hiện bất ngờ; những suy ngẫm thú vị và sâu sắc về “chất kinh kì ” của một người Hà Nội cụ thể là cô Hiền. Nhân vật chính trong tác phẩm có vẻ đẹp rất đặc trưng của người Hà Nội xưa, vừa khôn ngoan, sắc sảo, vừa đôn hậu, linh hoạt trong cách hiểu người, hiểu đời.

   Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, có đến thăm cô Hiền – một người họ hàng xa. Kháng chiến chống Pháp, cô Hiền cùng gia đình ở lại Hà Nội. Hòa bình lập lại, đất nước tạm chia làm hai miền, cô Hiền không di cư vào Nam mà vẫn ở lại Hà Nội với tài sản là hai căn nhà, một để ở, một cho thuê.

   Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cô Hiền khôn ngoan tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.

   Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, anh Dũng trở về Hà Nội. Trong bữa tiệc cuối năm mừng ngày gia đình đoàn tụ, Dũng kể lại câu chuyện cảm động về Tuất, người bạn cùng trung đoàn đã hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn trước ngày chiến thắng và về người mẹ của Tuất đã nén nỗi đau mất con để tiếp tục sống và làm việc.

   Ở giai đoạn đầu thời kì đổi mới, Hà Nội còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Một lần tác giả ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Cô Hiền kể cho tác giả nghe về sức sống kì lạ của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị xô ngã sau cơn bão lớn và bày tỏ niềm tin của cô vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

   Mở đầu tác phẩm, với vai trò là người cháu họ, tác giả đã giới thiệu cô Hiền bằng tình cảm quý mến của mình : Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính chân thực và sức thuyết phục của truyện.

   Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tời nối, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan.

   Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cắn. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền Đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.

   Lúc đầu, trong suy nghĩ của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như cô Hiền thật khó gần, bởi căn nhà của cô là một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn… Trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Theo cách đánh giá, nhận xét chung, hồi đó thì: với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng sang trọng quá : Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Cách ăn uống của gia đình cô Hiền và gia đình tác giả cũng thật khác biệt: Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.

   Những khác biệt cơ bản ấy xét đến cùng đều xuất phát từ cách nhìn và cách sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu không phải là không có cơ sở: Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối… Điều đáng nói là cô Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc sống mới, vừa biết giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình.

   Để làm nổi bật tính cách cô Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường tác động đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân vật cô Hiền không phải là sản phẩm của hoàn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng trân trọng của nhân vật này.

   Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi : Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội. Nhưng tác giả băn khoăn vì sao những người như cô Hiền lại có thái độ khác : Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Rồi tự lí giải : Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đoán của mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cô Hiền mà minh đã chứng kiến.

   Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến thì cô Hiền cau mặt gắt : Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ? Thấy chồng nắm tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi, thì cô thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cô Hiền thấy chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe không thuận tai nên đã có phản ứng như vậy.

   Khi cháu hỏi thăm về dân tình, thời thế thì cô Hiền thành thực trả lời : Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ? Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở. Cô Hiền mạnh dạn, thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ, nhận xét của mình trước những hiện tượng chưa hợp lí của cuộc sống mới.

   Đối với những người giúp việc trong gia đình, cô Hiền coi họ như người nhà. Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời, cô Hiền coi anh bếp, chị vú tình nghĩa như người trong họ, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, vợ chồng họ vẫn qua lại thân tình, ngày giỗ ông chủ và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.

   Với thời cuộc, cô Hiền cũng bộc lộ rõ ràng thái độ của mình. Lúc người cháu (tức tác giả) thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện tại sao cô không phải học tập cải tạo… thì cô cười rất tươi : Tao chưa đủ tiêu chuẩn rồi thản nhiên nói: Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.

   Đó là sự thật hiển nhiên. Cô Hiền có cửa hàng làm và bán hoa giấy, cái nghề không giàu nhưng đủ ăn. Các loại hoa giấy, lẵng hoa bằng tre, bằng mây rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt nhưng chịu thuế rất nhẹ. Vì thế nên cô không bị gán cho là thành phần tư sản giữa cái thời cải tạo và đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Mấy bà bạn của cô Hiền thắc mắc: Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhĩ?thì cô nhẹ nhàng, hỏm hỉnh trà lời: Các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết.

   Trong chuyện làm ăn, cô Hiền cũng tỏ ra khôn hơn các bà bạn và thức thời hơn ông chồng. Trước giải phóng, chồng cô dạy học, nhờ viết sách, in sách mà kiếm được tiền, tậu hai căn nhà, một để ở và một cho thuê. Khi có chính sách cải tạo tư sản năm 1956, cô Hiền đã kịp bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở chiến khu về. Một năm sau, có cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp : Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại.

   Cô Hiền khôn ngoan, nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn không đánh mất mình. Là người có đầu óc thực tế, mọi việc cô Hiền đều tính toán trước và cô luôn luôn đúng. Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đoán : Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu : Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cà chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời cổ đã chứng mình rằng điều đó là đúng.

   Trước tiên là việc hôn nhân, vốn là một cô gái Hà Nội có nhan sắc, lại con nhà giàu nhưng gần ba chục tuổi cô Hiền mới lấy chồng. Cô không lấy quan mà công chẳng hứa hẹn gì với đám văn nhân tài tử lãng mạn viển vông mà chọn một anh giáo Tiểu học đứng đắn hiền lành để kết bạn trăm năm. Điều ấy khiến cả Hà Nội kinh ngạc vì con gái thường ham sang, ham giàu, còn cô Hiền lại vượt qua thói thường ấy. Sự chọn lựa này cho thấy cô Hiền có thái độ nghiêm túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên hết.

   Ở cái thời dân ta sống khổ cực nhưng nhà nào cũng thích có nhiều con thì quyết định chấm dứt sinh đẻ vào tuổi bốn mươi của cô Hiền là hết sức đúng đắn. Cô nói với chồng: Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị.

   Cô Hiền không tin vào câu Trời sinh voi trời sinh cỏ, mà cô cho rằng con cái phải được cha mẹ nuôi dạy chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Như vậy, trách nhiệm quan trọng của bậc làm cha mẹ là tạo dựng nhân cách và chuẩn bị cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương con của cô Hiền là tình yêu sáng suốt của một người mẹ có tầm nhìn xa trông rộng.

   Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong việc quản lí gia đình.

   Theo cô thì người vợ không chỉ là nội trợ mà còn là nội tưởng. Cô phê bình người cháu: Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tưởng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao. Quan niệm về bình đẳng nam nữ của cô xuất phát từ thiên chức của phụ nữ và cô hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.

   Cô Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ khi còn nhỏ, từ những chuyện nhỏ. Khi ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô không coi những chuyện ấy là vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế, đấy là văn hóa của người Hà Nội. Cô khuyên con cháu: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng.

   Cách thu xếp việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền thật khéo léo và chu đáo. Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, nghĩa là biết giữ gìn nhân cách. Đây là nền tảng cơ bản để sau này trưởng thành cỏ khả năng tự lập, có đủ ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, xã hội. 

   Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân vào Nam chiến đấu. Đợt đầu được 660 người, đều là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Dũng, con trai cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền tình nguyện xin đi đánh Mĩ. Cô Hiền đã chấp nhận cho con ra mặt trận với một tâm trạng giống như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ? Cô đã trả lời : Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Sao lại không đau đớn khi mà cô hiểu trong chiến tranh, bom đạn không chừa một ai. Nhưng bằng lòng nghĩa là cô chấp nhận sự hi sinh. Việc nước là quan trọng hàng đầu. Lòng yêu nước của cô Hiền cũng giống như lòng yêu nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh biết bao !

   Suốt ba năm trời, gia đình không hể nhận được tin tức gì của Dũng đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam ác liệt. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng làm đơn xin đi đánh Mĩ thì cô Hiền vẫn hết sức bình tĩnh. Cô giãi bày với người cháu những lời lẽ rất chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì.

   Những lời nói xuất phát từ đáy lòng của cô Hiền thể hiện một thái độ sống thật đáng trân trọng. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của cô Hiền chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương, mất mát của bao người mẹ khác. Tác giả phản ánh chân thực và tinh tế những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự đã diễn ra trong tâm trạng cô Hiền. Không bà mẹ nào muốn con mình gặp gian khổ, hiểm nguy, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Cô Hiền hiểu con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con vào Nam chiến đấu.

   Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bàn lĩnh của cô Hiền là không cố tạo uy tín, danh dự bằng những lời nói không thành thực, luôn sống đúng với bản chất của mình, đã sống là phải sống cho tử tế. Ngẫm ra trong đời, để làm một người tử tế là chuyện cực khó. Người ta chỉ giữ được sự tử tế khi có lòng tự trọng, biết phân biệt phải trái và biết hi sinh. Qua đó, ta thấy cái chuẩn trong suy nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.

   Những phẩm chất mà cô Hiền có được là do tiếp thu từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống đúc rút trong cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ. Tình yêu Hà Nội của cô Hiền không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn hóa của người Việt Nam. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.

   Cô Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, cả dân tộc đang say sưa tận hưởng vinh quang chiến thắng thì Dũng, con trai lớn của cô Hiển trở về. Anh đeo ba lô bước vào đến giữa nhà, cô Hiền hỏi: Anh muốn mua gì? Người con trai gầy ốm, đen đủi, chẳng còn dấu vết gì của một chàng thư sinh Hà Nội, nên người mẹ không sao nhận ra được.

   Cô Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai chiến thắng trở về. Khách mời là bạn bè thân thiết của vợ chồng cô, gồm các công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh ở đất kinh kì Vì thế nên bữa tiệc sang trọng và kiểu cách. Ngày thường, cô Hiền và các bà bạn ăn mặc bình dân: áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, nhưng hôm nay, các vị khách ăn mặc thật đẹp. Mấy ông thì khoác áo ba-đờ-xuy, thắt cà vạt. Mấy bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền thì xuất hiện như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…

   Cô Hiền tâm sự với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa những người bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục, nhưng sống với những người quý phái mình phải xử sự ra sao ? Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị… Cái chuẩn đó là tinh túy của lối sống, của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Cô Hiền đã cố gắng gìn giữ lối sống đó, dù là trong hoàn cảnh khó khăn.

   Anh Dũng đã sống đúng với lời mạ dạy về cách sống của người Hà Nội. Nồm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác Hệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện xin vào Nam đánh Mĩ. Anh đã chiến đấu suốt mười năm và may mắn trở về nguyên vẹn. Biết bao đồng dội của anh không có mặt trong ngày toàn thắng. Dũng xúc động kể rằng 660 thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường cùng anh ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục. Hơn 600 người đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sinh mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

   Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng trung đoàn. Ngày vào Nam, lúc tàu qua ga Hàng cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ mình phát trên loa của phòng phát thanh nhà ga nhưng anh không thể xuống để từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy. Anh đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Có biết bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như mẹ của anh, họ đã nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống hòa bình. Gặp lại Dũng, bạn chiến đẩu của con, người bà run bần bật nhưng không khóc. Có thể nói những người mẹ Hà Nội đã góp phần tô đậm cốt cách tinh thần người Hà Nội nói riêng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói chung.

   Tác giả đã tìm hiểu và khai thác một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học mới chỉ đề cập đến cái hùng tráng mà chưa nói đến bi kịch của từng gia đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Vinh quang chiến thắng được tính bằng máu nên không thể vì niềm vui hội ngộ trong cuộc sống hòa bình mà mọi người được phép quên đi.

   Cô Hiền quan niệm rằng đã mang danh là người Hà Nội thì phải biết hướng tới cái đẹp. Đó là cái đẹp tỏa chiếu từ chiều sâu văn hóa của đất Thăng Long. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi tháng, cô Hiền lại tổ chức mời cơm bạn bè một lần. Trong những dịp ấy, cô và bạn bè được sống lại không khí của một thời vàng son thuở trước. Tuy đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó chưa hề mất đi bởi đây là nét đặc trưng của người Hà Nội, là dấu hiệu để phân biệt nếp sống kinh kì với nếp sống tỉnh lẻ.

   Ở cuối truyện, tác giả kể về lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác có đến thăm cô Hiền. Nhiều năm trôi qua, gia đình cô Hiền đã thay đổi rất nhiều. Chồng cô đã mất, các con đã lập gia đình riêng. Cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi, tuy đã già yếu nhưng vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Phòng khách của gia đình cô Hiền được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: bộ sa lông cổ bằng gỗ gụ, cái sập gụ chân quỳ chạm trổ rất đẹp cùng nhiều đồ gia bảo khác. Nhìn bà lão tóc bạc đang chăm chú lau cái bát thủy tiên men đỏ trong khung cảnh ngoài trời mưa rốt, tác giả cảm thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa Thăng Long. Tính cách của cô Hiền khiến cho tác giả nghĩ về tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám đông vừa thoát khỏi cái chết, cái khổ. Họ dễ gì có được sự bình tĩnh đế thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên.

   Cô Hiên than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi lan man mọi chuyện y hệt một bà già nhà quê. Cô kể cho người cháu nghe chuyện gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bật gốc đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu, cô nghĩ đó là sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Nhưng cây si không chết mà được cứu sống, sau một tháng nó lại trổ ra lá non. Từ chuyện ấy, cô Hiền suy ngẫm : Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được.

   Sự khác biệt giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội thời hiện đại gợi lên nhiều suy nghĩ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người cho là thời thế đổi thay, đương nhiên con người cũng đổi thay. Có người thất vọng trước thực tại và hoài vọng quá khứ. Tác giả cũng không khỏi lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, náo nhiệt hơn trước nhiều nhưng đó chỉ là phần xác. Ông không tin rằng lớp trẻ đang hăm hở làm giàu còn có ý thức biết giữ gìn, yêu cái đẹp, còn giữ nét thanh lịch, hào hoa của người Hà Nội. Ông tức và đau vì gặp một số người thiếu văn hóa đến mức đáng giận và đáng thương như người mà ông hỏi đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái …

   Nhưng cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét có phần bực bội của người cháu mà cô lại kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng cho thấy người Hà Nội hôm nay không phải chỉ coi trọng vật chất mà vẫn còn quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rổi lại hồi sinh gợi nhiều suy nghĩ về lẽ đời, về quy luật bất diệt của sự sống. Sức sống, vẻ đẹp truyền thống văn hóa của người Hà Nội cũng mạnh mẽ, trường tồn như vậy.

   Truyện Một người Hà Nội chân thực và sinh động một phần là do tác giả đóng vai người kể chuyện để kể về những nét đặc trưng trong tính cách của người Hà Nội. Chất Hà Nội ẩn chứa trong chiều sâu tâm hồn và tính cách của nhân vật cô Hiền. Từ lời ăn tiếng nói đến nền nếp gia đình, từ cách giáo dục con cháu đến cách thức tổ chức cuộc sống và cách làm cho sang trọng bản thân… Tất cả đều được cô Hiền thu xếp đâu vào đấy. Cô Hiền luôn cổ ý thức rằng mình là người Hà Nội, từ trong cách ăn mặc cho đến những thú chơi thanh cao đòi hỏi sự kiên trì, tì mẩn như gọt củ thủy tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa. Cô Hiền không chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà còn là hiện thân của truyền thống văn hóa Tràng An vững vàng qua bao biến thiên của lịch sử.

   Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ tác giả muốn tô đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Họ luôn có ý thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại diện cho cả nước. Ca dao có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Chất Hà Nội ở nhân vật cô Hiền biểu lộ qua tính cách lịch lãm, qua thái độ ung dung tự tại, bình tĩnh trước những biến động của thời thế, qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ và chân thành, nồng hậu của tình cảm. Cô Hiền luôn tin tưởng rằng người Hà Nội thời nào cũng đẹp đẽ và thanh lịch.

   Từ nhân vật cô Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nối lối sống là hổi đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con người. Qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy nổi bật lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong chiêm nghiệm lẽ đời.

   Lời bình luận của tác giả ở cuối truyện đã thể hiện tình cảm mến yêu và ngưỡng mộ đối với cô Hiền : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. Giọng kể của tác giả vừa có niềm lo âu, tiếc nuối lại vừa chan chứa cảm giác tin tưởng, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu sang và hiện đại, liệu những vẻ đẹp xưa có được bảo tồn ? Qua cách kể chuyện, Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để cho bạn đọc tự rút ra kết luận chứ không áp đặt phải theo cách đánh giá của mình; vì thế mà vừa tạo được quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được ý kiến của cá nhân. Giọng kể thay đổi linh hoạt, có đối thoại, có bình luận… Ngôn ngữ giản dị đời thường nhưng giàu ngụ ý và đậm chất trữ tình, triết lí… thể hiện sự quan sát sắc sảo, những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải nên khá hấp dẫn.

   Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều thiện cảm, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải miêu tả rất thành công bằng vốn sống dày dặn và ngòi bút tinh tế. Phải chăng đây cũng là tình cảm của biết bao con người luôn hướng về Thủ đô – trái tim của đất nước. Ở tác phẩm này, Nguyễn Khải còn gián tiếp đặt ra vấn đề: Nhà văn phải có thái độ tỉnh táo, sáng suốt khi đi sâu tìm hiểu và soi chiếu vào những ngóc ngách của đời thường để tìm ra vẻ đẹp của con người và cuộc sống.

Đề bài: Phân tích nhân vật cô Hiền trong truyện “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải.

Bài làm

    Truyện “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.

    Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.

    Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến đối với cô Hiền – “chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”.

    Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chỉ giới thiệu về ngôn ngữ, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con, với người thân, với bạn bè, với thời cuộc.

    Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo”… thì cô cười rất tươi: “Tại chưa đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.

    Khi nhiều bè bạn ngờ vực: ” Trông bà như tư sản không bị học tập cũng lạ nhỉ?”, thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là cô khôn hơn các bà bạn, và “thức thời” hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú ” tình nghĩa như người trong họ”, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nhiệm hợp tác xã, hai vợ chồng vẫn qua lại thân tình, “ngày giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.

    Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn” các bà bạn và “thức thời hơn” ông chồng. Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến vẻ. Chỉ một năm sau, cái thời “cải tạo… “, một cán bộ tói hỏi vẻ nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp: “Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thằng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”.

    Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ để kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: “Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ được không?… Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à? Ông chồng “tính vốn nhát, rút lui ngay” trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.

    Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chỉ bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan bằng tre… rất đẹp, do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ” chẳng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp…”. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.

    Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!” thì cô cau mặt gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”. Khi thấy người chồng nắm tay đứa cháu, hỏi hồn nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”, thì cô “thở dài, quay người đi”. Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.

    “Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội” là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản lĩnh tất cả mọi việc đều được các bà ấy “tính toán trước cả”, và luôn luôn “tính đúng”. Các bà ấy “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô”. Các bà ấy “không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là lời nhận xét của người cháu – đồng chí Khải.

    Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ, làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.

    Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi,nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, thể tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị”.

    Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong gia đình: người vợ không chỉ là nội trợ mà là “nội tướng”. Cô phê bình người cháu – đồng chí Khải: “Mày bắt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng”. Người đàn bà không là “nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.

    Là người mẹ, cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ”, nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không dược sống tuỳ tiện, buông tuồng”.

    “Gia huấn ca” tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:

    “Khi còn bé tại gia hầu hạ,

    Dưới hai thân vâng dạ theo lời

    … Khi đi, khi đứng, khi ngồi,

    Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang…”.

    Phải chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói rõ với người cháu về “nghĩa vụ” của người mẹ là dạy con cái “biết tự trọng biết xấu hổ,còn sau này muốn ra sao là tuỳ “.

    Giữa thời chống Mĩ, cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyển chọn rất kĩ càng, có khoảng 660 người, “là những chàng trai ưu tú của Hà Nội”. Dũng là con đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mỹ lần ấy. Khi đứa cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?”. Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra đi. Nhưng khi đứa em kế làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cán tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.

    Giữa thời khói lửa, cô Hiền đã dạy con như vậy đó về lòng tự trọng, về nghĩa vụ của người thanh niên. Cô cũng đã tỏ rõ lòng yêu nước, tâm thế của một người mẹ, một người phụ nữ Hà Nội giữa cộng đồng: “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”.

    Cô Hiền đã may mắn hơn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, Dũng, con trai cô đâ trở về. Cô ngạc nhiên hỏi: “Anh muốn mua gì?” khi người con đeo ba lô bước vào đến giữa nhà. Người con của cô gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá chả có dấu vết gì là một chàng trai Hà Nội, nên người mẹ sao kịp nhận ra được.

    Ngày thường, cô Hiền, các bạn của cô Hiền, v.v… ăn mặc bình dân, “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc cổ hay bịt đầu”. Nhưng trong bữa tiệc liên hoan mừng đứa con trai đi đánh giặc bình yên trở về, các vị khách – các cựu công dân Hà Nội, ăn mặc thật sang trọng. Các ông thì áo ba-đờ-xuy, bộ đồ, thắt cà vạt; các bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác “áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”; còn cô Hiền xuất hiện “như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…”

    Cô nói với đứa cháu về cách sống: khi sống giữa những người bình dân, “tất cả đều có quyền ăn nói thô tục”, nhưng sống trước những người quý phái “mình phái xử sự sao?”. Đó là cách ứng xử của cô Hiền, của những bè bạn của cô, của người Hà Nội. Đúng như cô Hiền đã thổ lộ: “Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị…”. Cái chuẩn đó là mọi tinh tuý, mọi cái tốt đẹp của lối sống, cách sống, của văn hoá, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Đó là cách sống của cô Hiền.

    Phần cuối, nhân vật “tôi” đã kể chuyên từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội đến thăm cô Hiền sau nhiều năm đã trôi qua. Có biết bao thay đổi. Ông chú đã mất, các em đã có gia đình riêng, cô đã già yếu, đã ngoài bảy mươi tuổi. Nhưng “cô vẫn là người của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn”. Người cháu nói về phòng khách của gia đình của cô Hiền với bộ xa lông gụ “cái khánh”, cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp, với bao đồ gia bảo cổ, quý giá khác. Hình ảnh cô Hiền – một bà lão đang lau đánh cái bát thủy tiên men đỏ khi ngoài trời rét, mưa rây lả lướt mà đứa cháu “thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội”. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của văn hoá Thăng Long. Hình ảnh cô Hiền làm cho đứa cháu lan man nghĩ cách sống, cái tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám người vừa thoát cái chết cái khổ “đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởg thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên”.

    Cô Hiền nhắc lại: “Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại”. Người cháu kể lại một số hiện tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến “không mấy vui vẻ…” giữa Thủ đô.

    Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyên một cách duy tâm, “y hệt một bà già nhà quê”. Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu cô nghĩ đó là “sự dời đổi, điềm xấu – là sự ra đi của một thời”. Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngẫm: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

    Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: “Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá”. Cô Hiền là “một hạt bụi vàng”, nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô, tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.

    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

           Ca dao

    Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật “tôi” cũng như của mỗi chúng ta là “thật tiếc” khi một người như cô Hiền phải chết đi, “một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”. Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của người Tràng An “Những hạt bụi vàng lấp đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!”.

    Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện “Một người Hà Nội” làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí. vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hoá của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.

    Năm 2010 sắp đến, đồng bào cả nước ta sẽ tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long (1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải đã và đang toả sáng tâm hồn mỗi chúng ta.

Đề bài: Vẻ đẹp của nhân vật Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải

Bài làm

   Nét đẹp của văn hóa kinh kì xưa và nay đã và đang làm rung động bao trái tim người nghệ sĩ, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật của thơ văn, họa và nhạc… Nguyễn Khải cũng là một nhà văn nhiều duyên nợ với mảnh đất nghìn năm văn hiến ấy. Nhà văn từng tâm sự, ông đã sống với Hà Nội qua nhiều thời đoạn, nhiều chặng đường của hiện thực đất nước, “thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi…”. Đặc biệt, với Nguyền Khải, Hà Nội đẹp nhất ở những con người hào hoa, có bản lĩnh, tinh tế trong ứng xử, nhưng cũng đầy nghị lực kiên cường, thiết tha yêu Thủ đô, đất nước thân thương Cảm nhận đó của nhà văn được thể hiện tập trung trong nhân vật bà Hiền – Một người Hà Nội.

   Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, bà Hiền đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua nhiều biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cái cốt cách người Hà nội, cái bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. Bà sống thẳng thắn, chân thành, giàu tự trọng. Nét đẹp của người Hà Nội ấy như bản chất tự nhiên bộc lộ ngay trong chính cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ.

   Là người phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với nhiều văn nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, bà Hiền “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Người ta kinh ngạc vì nghĩ theo thói thường, còn bà Hiền không ham danh lợi, sự tính toán. Ông giáo tiểu học – mẫu người mô phạm, khiêm nhường – là mẫu người phù hợp với quan niệm của cô về tổ ấm gia đình – quan niệm chí có ở một người nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm “làm vợ”, “làm mẹ” lên trên mọi thú vui khác. Tình yêu của bà Hiền cũng là một tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng, biết nhìn xa trông rộng. Cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì bà Hiền lại có cái quan niệm khác người – bà không tin “trời sinh voi sinh cỏ”, mà cho răng con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng có thế “sống tự lập”. Trong gia đình, bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ. Trước ứng xử của một người cháu đối với vợ mà theo bà là sự “bắt nạt quá đáng”, bà thẳng thắn phê bình và bảo: “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Trong cách dạy con, bà dạy từ những cái nhỏ nhất. Chuyện ngồi ăn, cách cầm bát, cầm đũa, múc canh… chỉ là những chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt đối với nhiều người. Bà Hiền thì khác, bà coi đấy là văn hóa sống, văn hóa người, hơn thế, đấy là văn hóa của người Hà Nội. Bà nhỏ nhẹ nhắc nhở: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”. Cái “chuẩn” trong suy nghĩ của bà Hiền là “lòng tự trọng”. Lòng tự trọng không cho phép con người ta sống hèn nhát, ích kỉ. Khi được hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?”. Bà Hiền trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Và bà cũng lại chấp nhận khi em Dũng – con trai thứ hai của bà cũng muốn tiếp bước anh: “bảo nó đi tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Với bà Hiền, con người đánh mất lòng tự trọng thì chỉ còn cái chết – cái chết tâm hổn. Bà Hiền tôn trọng danh dự của con, hiểu con nên chấp nhận để con ra chiến trường nhưng bà không che giấu nỗi đau lòng, không vờ vui vẻ ồn ào. Với bà, đấy là quyết định thật khó khăn nhưng hợp lí. Đó cũng là một quyết định của “một người Hà Nội” thiết tha yêu đất nước.

   Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ nhà văn Nguyễn Khải như muốn khắc đậm cái bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Người đọc nhận ra “chất Hà Nội” ở bà Hiền còn bởi cái nét văn hóa lịch lãm, sang trọng trong cách bài trí phòng khách cùa bà: vừa cổ kính, quý phái và tinh tế, “suốt mấy chục năm không hề thay đổi” – một không gian hẹp nhưng lưu giữ cái hồn của mảnh đất kinh kì. Cuộc sống biến động từng ngày, khó khăn theo những đổi thay khôn lường. Lối sống của một số người Hà Nội trong thời “kinh tế thị trường” khiến người ta – nhất là với những người yêu Hà Nội, không khỏi thất vọng (như những người mà nhân vật “tôi” quên đường phải hỏi thăm, anh chàng đi xe đạp, cô ca, gái anh bạn…). Nhưng với bà Hiền, không chỉ làm ấm lòng người được bởi chính nét đẹp mang cốt cách người Hà Nội cùa mình, bà còn xua đi cái ấn tượng “hơi nghiệt” của người cháu – của người đọc bằng thái độ ung dung, tự tại, băng sự khôn ngoan sâu sắc của trí tuệ. Bà nói về luật tự nhiên, về niềm tin: Hà Nội “thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”, bà “khiêm tốn và rộng lượng”, hòa mình với cảnh sắc Hà Nội “trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt”, bà đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thủy tinh. Sự hài hòa đó là cái duyên riêng Hà Nội, nét quyến rũ cua Hà Nội khiến người xa Hà Nội phải kêu thầm “thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”.

   Tác giả gọi bà Hiền là “một hạt bụi vàng” của Hà Nội. Nói đến hạt bụi – người ta liên tưởng tới sự bé nhỏ, tầm thường, ít ai nhận thấy và cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng là hạt bụi vàng thì dù rất nhỏ bé, khiêm nhường nhưng lại mang giá trị quí báu – là tinh túy của giá trị cuộc sống. Bao nhiêu hạt bụi vàng sẽ hợp lại thành những “áng vàng” chói sáng. Bà Hiền là một người Hà Nội bình thường, vô danh nhưng ở bà thấm sâu cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội. Những người Hà Nội như bà đã là “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đỏ ở mỗi góc phố Hà Nội”, tất cả dang “bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng”.

   Văn chương khắc họa lịch sử qua số phận cá nhân, trọng tâm phản ánh là con người, là đặc điểm, bản chất, cách ứng xử của con người trong nhừng tình thế lịch sử nhất định. Một người Hà Nội là tác phẩm văn chương như thế. Nhân vật trung tâm là bà Hiền với những chặng đường đời song hành càng những biến động lớn lao của đất nước. Nhà văn đã có những khám phá sâu sắc về bản chất của nhân vật trên dòng lưu chuyển của hiện thực lịch sử. Là một con người, bà Hiền luôn giữ gìn phẩm giá, người cách là một công dân, bà chỉ làm những gì có lợi cho đất nước. Là một người Hà Nội, bà đà góp phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách, cái truyền thống của một Hà Nội anh hùng và hào hoa – tôn thêm vẻ đẹp thanh lịch quyến của “người Tràng An”. Chất nhân văn sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Khải chính là ở đó.

   “Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải”. Nhận xét này cùa nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn thật xác đáng, nhất là đối với truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.

Đề bài: Trình bày cảm nhận của anh chị về truyện ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải.

Bài làm

   Nguyễn Khải là một nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Bước ra từ khói lửa của chiến tranh nên những trải nghiệm thực tế của chiến tranh, cuộc sống nơi chiến trường in đậm trong những trang văn của nhà thơ. Nhưng Nguyễn Khải không chỉ bó hẹp mình trong phạm vi của chiến trường, chiến tranh mà ông rất mực qua tâm đến đời sống chính trị, đời sống của con người sau chiến tranh. Bằng những am hiểu và trải nghiệm thực tiễn, Nguyễn Khải sáng tác ra những tác phẩm mang đậm tính hiện thực mà không kém phần nhân văn. Một trong số những tác phẩm của nhà văn viết về đề tài này mà chúng ta có thể kể đến, đó chính là truyện ngắn “Một người Hà Nội”.

   Truyện ngắn “Một người Hà Nội” được nhà thơ tự thuật với ngôi thứ nhất, xưng “tôi”, vì vậy mà câu chuyện này không chỉ khiến cho người đọc cảm nhận, chiêm nghiệm nội dung của tác phẩm mà trên hết đó chính là tính chân thực trong cảm giác. Người đọc cảm nhận như đây chính là những hồi ức, và truyện ngắn này như cuốn nhật kí về cuộc sống của chính nhà thơ ở một thời kì đặc biệt của đất nước. Trong truyện ngắn, bên cạnh nhân vật cô Hiền là nhân vật trung tâm mà nhà văn trú trọng khắc họa, tái hiện thì ta còn cảm nhận được phần nào chân dung cũng như tính cách con người của nhà thơ Nguyễn Khải.

   Ấn tượng đầu tiên về nhà văn, đó chính là con người đã từng đi qua khói lửa của cuộc chiến tranh, từng hết lòng đấu tranh vì đất nước. Vì vậy mà khi miền Bắc được giải phóng, nhà thơ sống trong một thời kì mới thì quan niệm gắn bó với sự nghiệp cách mạng, hết lòng trung thành, phụng sự cho đất nước vẫn hiện hữu, tác động mạnh mẽ đến tính cách của nhà thơ. Vì là một người cách mạng, trung thành với những chủ trương của Đảng nên đối với tư sản, giai cấp mà nhà nước chủ trương xóa bỏ thì nhà văn tỏ ra vô cùng e dè, thận trọng khi tiếp cận, dù đó là những người họ hàng thân thích của mình “…Tình thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng phải lo, nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới, và chế độ mới cũng không tin cậy ở họ được”.

   Đó là cách đánh giá của nhà văn đối với gia đình cô Hiền, một gia đình có thể xem là có điều kiện, và qua cách sống của cô Hiền thì rất có thể cô là tư sản. Với cách đánh giá này ta có thể thấy nhà văn là người có phẩm chất đáng quý là trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhà nước nhưng cũng là con người sống khá cứng nhắc. Qua lời kể, ta có thể thấy cuộc sống của gia đình nhà văn khá bình dân, gần gũi, không quá coi trọng khuôn phép, nề lối, và theo nhà văn thì ăn cốt là để sống, lấy sức để làm việc. Còn những thứ lễ nghi rườm rà kia là của giai cấp tư sản. Điều này được thể hiện ra trong cách sống tự nhiên, xuồng xã của gia đình nhà văn “…gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi súm sít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc xục muôi vào, sục đũa vào….”, hay “…vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm hả hê, không cần theo bó một quy tắc nào cả”.

   Qua lời nói của cô Hiền, ta còn thấy nhà văn sống khá gia trưởng khi mọi việc trong gia đình đều do nhà văn quyết, và nhận xét của cô Hiền thì việc này là không nên. Tuy tự khắc họa mình với những khiếm khuyết nhưng sau đó ta thấy được sự chân thành của nhà văn, đó là khi nhà văn có cái nhìn, cách đánh giá khác về cô Hiền, sống biết chia sẻ và mở lòng hơn với cô Hiền – người mà trước đó nhà văn rất e dè, thận trọng khhi tiếp xúc, vì cho rằng cô là tư sản. Nhân vật trung tâm của truyện ngắn “Một người Hà Nội” là cô Hiền, người mà trong những ấn tượng của nhà văn thì đó là một người tư sản, với khuôn mặt tư sản, cách sống của tư sản. Nhưng trái với vẻ bề ngoài, cô Hiền sống lương thiện như bao người khác, sống dựa vào mình chứ không bóc lột ai cả “….tao không bóc lột ai thì sao coi là tư sản được…”.

   Cô Hiền sống bằng nghề làm hoa giấy, gia đình cô có thể xem là có điều kiện, mặt khác, cách sống của cô cũng dễ khiến cho người khác hiểu lầm là tư sản. Cô cạo răng trắng, uốn tóc, cổ thì đeo những thứ trang sức như hạt xoàn, bạch kim. Trong hoàn cảnh xây dựng đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa, thì bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn song song tồn tại rất nhiều tiêu cực, hạn chế, và với người vô sản thì cũng bị “dồn ép” và một cái khuôn cứng nhắc “…với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình của họ phải ở chen chúc trong những khi nhà tập thể, có khi ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè”, và trong hoàn cảnh ấy thì sống càng khổ càng được đánh giá tích cực, càng nghèo túng thì càng vinh quang, vì chứng tỏ được mình là người vô sản.

   Nhưng, cô Hiền không cho đấy là phải, cô nhận thức được thời thế, đồng thời cũng nhận thức được những hạn chế của thời đại. Nhưng không vì thế mà cô ép mìn sống trong cái khuôn cứng nhắc đó, cô sống theo những gì mình cho là đúng, sống đúng với con người của mình mà không quan tâm đến cách người ta đánh giá mình là tư sản. Chỉ qua cách sống ấy thôi ta cũng cảm nhận ở cô Hiền một phẩm chất đáng quý, đó chính là sự ngay thẳng, chính trực không luồn cúi, không sống theo xu hướng, theo phong trào, sống là cho mình chứ không nhằm mục đích vừa lòng người khác. Và trước những hoài nghi của mọi người, cô mạnh mẽ tuyên bố, việc mình không bị điều tra là tư sản là do “không đủ tiêu chuẩn…”.

   Cô Hiền còn hiện lên trong ấn tượng của nhà văn, đó là một con người đúng chuẩn Hà Nội, với những phép tắc, lễ nghi dù không quá cứng nhắc làm theo, nhưng với lối sống, nề nếp đã trở thành truyền thống của người dân Hà Nội thì cô nghiêm khắc dạy dỗ, giáo dục. Những đứa trẻ được cô dạy dỗ từ cách ăn, cách uống hay cách xới cơm, lấy rau…những việc rất bình thường nhưng được cô chỉ dạy rất tận tình, bởi cô muốn chúng lớn lên biết tự trọng, và làm người Hà Nội thì những nề nếp này cần được nuôi dưỡng, và phát triển. Vì vậy mà cô Hiền dường như đã trở thành biểu tượng cho con người Hà Nội xưa, chuẩn mực, nề nếp. Và những nề nếp ấy cô không chỉ giữ cho mình mà còn có ý thức nuôi dưỡng ở thế hệ con cháu.

   Cô Hiền còn là một người đầy ý thức, trách nhiệm với đất nước, là một người mẹ vĩ đại của những người con anh hùng. Khi người con cả của cô Hiền xung phong đi lính, với tư cách là một người mẹ, cô Hiền dù rất đau lòng nhưng vẫn để con ra đi, đây không chỉ là tôn trong quyết định của người con, mà hơn tất cả đó chính là ủng hộ con thực hiện trách nhiệm với quê hương, với tổ quốc. Và sự ra đi ấy chính là trách nhiệm, là sự tự trọng của một người công dân: ” Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Lời nói của cô Hiền dứt khoát nhưng ẩn chứa trong đó lại là sự thương con vô bờ, nhưng cũng vì thương con mà không muốn con sống vô trách nhiệm, không muốn con trở thành kẻ hèn nhát, vô dụng.

   Truyện ngắn “một người Hà Nội” đã khám phá thế giới tâm hồn của con người cả ở chiều kích độ sâu và sự tinh tế, qua đó hiện lên hình ảnh thật đẹp về con người Hà Nội, mà trong tác phẩm này được tái hiện trực tiếp qua nhân vật cô Hiền, đó là một con người sống ngay thẳng, yêu nước, trung thành với Đảng nhưng không ồn ào mà thể hiện ra bằng chính những hành động, những lời nói đầy sâu sắc, đó là khi cô ủng hộ hai người con trai của mình đi lính, thực hiện trách nhiệm với tổ Quốc, vì khi ấy cô đã đặt tình cảm với đất nước lên trên tình cảm cá nhân.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 917

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống