Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

Bài làm

I. Mở bài

– Tác giả Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ miền Nam, thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm của ông phản ánh hiện thực nóng bỏng của chiến trường Nam Bộ và vẻ đẹp con người nơi đây.

Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Nam Bộ.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp dòng sông truyền thống gia đình

– Gia đình kiên cường chịu nhiều đau thương trong chiến tranh: ông nội bị giặc giết, cha của Việt bị giặc chặt đầu, má bị trúng đạn của Mĩ, thím Năm bị giặc bắn chết. Đau thương đã nhen nhóm ngọn lửa căm thù trong mỗi thành viên.

a. Vẻ đẹp của khúc sông trước

– Cha Việt và Chiến là cán bộ Việt Minh, kiên cường, trung thành với cách mạng đến cùng đến đã bị giết hại.

– Má là một người phụ nữ mạnh mẽ, gan góc: dám đi đòi lại đầu chồng, đối đáp với bọn giặc Mĩ mà không hề run sợ, biết nén đau thường thành lòng hận thù. Mặt khác cũng là người phụ nữ tháo vát, yêu thương chồng con.

– Chú Năm là là người luôn lưu giữ truyền thống gia đình (cuốn sổ), là người lao động chất phác có tâm hồn nghệ sĩ, hết lòng vì cách mạng (thu xếp cho cả hai chị em đi tòng quân).

– Nhận xét: đây là khúc sông thượng nguồn, kết tinh những vẻ đẹp truyền thống để truyền cho khúc sông sau phát huy.

b. Vẻ đẹp của khúc sông sau

*Nhân vật Chiến:

– Có những nét giống mẹ: mang vóc dáng của má “hai bắp tay tròn vo … chắc nịch”, giống má từ cái lối nằm với thằng út em, biết lo liệu mọi việc một cách chu đáo (đặc biệt trước đêm sắp xa nhà), Chiến tự thấy mình như hòa vào má “ Tao cũng đã lựa ý … nên tao cũng tính vậy”

– Là cô gái mới lớn nên khi thì người lớn (nhường em, tháo vát, …) nhưng có lúc vẫn rất trẻ con (vào chiến trường vẫn không quên mang gương nhỏ).

– Chiến cũng có những nét khác biệt so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng để trả thù cho người thân.

– Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

*Nhân vật Việt:

– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn: hiếu động, ngây thơ, trẻ con

    + Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, …

    + Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun, …

    + Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

    + “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.

    + Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ “khóc đó rời cười đó”.

– Việt cũng là một chiến sĩ dũng cảm:

    + Khi còn nhỏ đã dám xông vào đá thằng giặc giết cha mình

    + Khi lớn lên tranh giành đi tòng quân với chị Chiến dù chưa dủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc.

    + Dù đang bị thương nặng nhưng vẫn luôn trong tư thế chiến đấu, không hề run sợ: “Tao sẽ chờ mày … mày là thằng chạy”.

– Nhận xét: Việt và Chiến chính là khúc sông sau, kế thừa những tinh hoa của khúc sông trước và chảy xa hơn khúc sông trước.

2. Hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má gửi nhà chú Năm

– Đó là sự tôn trọng, hiếu thảo với cha mẹ đã khuất

– Không khí thiêng liêng đã khiến Việt cảm thấy mình trưởng thành hơn: biết thương chị, cảm nhận sâu sắc mối thù đè nặng trên vai.

– Thể hiện sự trưởng thành của hai chị em, đã biết tự lo toan mọi điều, gánh vác những công việc qaun trọng trong gia đình.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, kể theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ đạm chất Nam Bộ, giọng kể giàu chất sử thi, …

– Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Nam Bộ, khẳng định truyền thống gia đình và dân tộc là sức mạnh to lớn để chống lại kẻ thù xâm lược.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

Bài làm

    Nguyễn Thi – một con người tài hoa, sáng tác trên nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ngòi bút của tập trung chủ yếu vào những người dân Nam Bộ yêu nước mãnh liệt, có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tinh thần chiến đấu kiên cường. Những đứa con trong gia đình có thể coi là kết tinh phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 – giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng, ác liệt.

    Tác phẩm được xây dựng dựa trên tình huống Việt – một chiến sĩ giải phóng quân bị thương, lạc đồng đội giữa cánh rừng cao su. Đây là trận đánh đầu tiên của Việt nhưng đã lập được chiến công vang dội: dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép và sáu tên Mĩ lẻ. Anh chịu tổn thất nặng nề, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại Việt lại có dòng hồi ức miên man về gia đình, về những kỉ niệm ngày xưa. Câu chuyện được kể lại là những dòng hồi ức đứt nối giữa những lần chợt ngất đi tỉnh lại của Việt. Xây dựng tình huống này, tác giả nhằm khẳng định tình cảm lớn lao bao giờ cũng bắt nguồn từ những gì gần gũi, bình dị nhất.

    Việt bị thương trong một lần đánh giặc, cậu bị lạc đồng đội, bị ngất đi và tỉnh lại nhiều lần, trong những lần ấy, Việt nhớ về những kỉ niềm khi còn ở nhà, nhớ về cuốn sổ gia đình và những kỉ niệm trẻ thơ. Một cách rất tự nhiên tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật từ trần thuật về cuộc đời mình, khiến cho câu chuyện chân thực và giàu cảm xúc hơn.

    Việt sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ rạng rỡ những chiến công và có nhiều đau thương mất mát. Cha của Việt bị chặt đầu, chỉ có ba mẹ con nhưng dám dắt díu nhau đi đòi lại đầu chồng, không hề run sợ trước những lời hăm dọa của kẻ thù. Không chỉ vậy, má của Việt cùng ông nội và thím Năm đều chết dưới sự tàn sát, bom đạn của kẻ thù. Gia đình anh hùng mà cũng đầy đau thương, mất mát. Đây đồng thời cũng là hoàn cảnh chung của những gia đình Nam Bộ lúc bấy giờ.

    Việt là một người giàu tình cảm, luôn dành tình yêu thương sâu nặng nhất cho gia đình. Giữa lúc nằm một mình ở rừng, cái chết đang cận kề, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, điều cậu nghĩ tới đầu tiên chính là gia đình, là má của mình, và trong những lần ấy cậu còn tưởng má mình đang ở quanh đâu đây. Và ngay cả đêm trước khi lên đường ra chiến trường, nhìn vào hình ảnh chị Chiến cậu cũng liên tưởng đến má. Dù má đã mất, nhưng tình yêu thường dành cho má vẫn không bao giờ vơi cạn trong lòng Việt. Không chỉ dành tình yêu thương cho mẹ, mà Việt còn rất thương chị Chiến. Mẹ mất, chỉ có hai chị em nương tựa vào nhau, trong ngày khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, nghe thấy những bước chân bình bịch của chị, cậu thương chị đến lạ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm cùng chung sống dưới một mái nhà, tình cảm ấy được biểu lộ một cách rõ ràng đến vậy. Và một phản ứng vừa ngây ngô trẻ con mà cũng vô cùng đáng yêu của Việt ấy là khi ra chiến trường cậu giấu nhẹm chị mình, không bao giờ kể về chị với đồng đội, vì cậu sợ lỡ kể ra người ta sẽ lấy mất người chị thân yên của cậu, cậu giữ lấy chị làm của riêng. Hành động, suy nghĩ tuy trẻ con nhưng lại cho thấy tình yêu thương sâu sắc Việt dành cho chị.

    Không chỉ vậy, Việt còn có lòng căm thù giặc sâu sắc và luôn nung nấu quyết tâm trả thù. Gia đình Việt đã có biết bao người ngã xuống dưới sự tàn sát ghê rợn của kẻ thù: cha, mẹ, họ hàng, … bởi vậy lòng căm thù giặc càng trở nên mạnh mẽ, mãnh liệt hơn. Ngay sau cái chết của má, ý nghĩ ấy thôi thúc câu mãnh liệt hơn bao giờ hết, Việt tranh giành quyết liệt với chị Chiến để lên đường ra chiến trường, dù cậu còn nhỏ, vẫn chưa đủ tuổi nhưng ý chí, lòng quyết tâm vẫn không hề bị lay chuyển. Khi khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm , suy nghĩ trong tâm trí hai chị em: “…khi nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về”. Lòng căm thù giặc chính là động lực mạnh mẽ nhất để Việt cũng như Chiến nêu cao quyết tâm đánh giặc, trả thù cho gia đình.

    Ngoài mặt trận Việt là một người chiến sĩ hết sức gan góc, dũng cảm và vô cùng kiên cường. Mặc dù mới vào trận lần đầu tiên song với lòng dũng cảm, ý chí giết giặc cậu đã tiêu diệt được một xe bọc thép của kẻ thù và sáu tên giặc. Ngày cả khi bị thương thì tinh thần chiến đấu của Việt vẫn không hề giảm sút. Mặc dù bị lạc đồng đội, mắt không còn nhìn rõ, chín đầu ngón tay gần như bị tê liệt, nhưng Việt không hề nao núng sợ hãi, anh vẫn lắng nghe từng chuyển động để phán đoán hành động của kẻ thù và ngón tay duy nhất còn lại vẫn nắm chặt vào cò sung, sẵn sang chiến đấu. Việt luôn tâm niệm: “Bầu trời này có mày, mặt đất này có mày nhưng cánh rừng này có tao nếu mày giết tao thì tao sẽ giết mày”. Chỉ với một câu nói ấy thôi nhưng đã chủ thấy sự hiên ngang, chủ động của Việt.

    Dù trên chiến trường hết sức gan dạ, dũng cảm, nhưng trong cuộc sống đời thường cậu vẫn mang những nét hết sức dễ thương, hồn nhiên, vô tư của một đứa trẻ. Khi còn ở nhà, Việt luôn tranh giành, hay giận dỗi với chị Chiến. Ngay cả đêm trước khi lên chiến trường cậu cũng không them để tâm đến những gì chị nói và còn ngủ quên. Không chỉ vậy, tính cách trẻ con của Việt còn được biểu lộ ngay cả khi ở chiến trường cậu mang theo một chiếc ná thun và không bao giờ kể về chị mình với đồng đội. Dù gan góc, dũng cảm là thế, nhưng cậu có một nỗi sợ hết sức trẻ con ấy là sợ ma.

    Bên cạnh nhân vật Việt, cũng không thể không nhắc đến chị Chiến. Chị Chiến là người chan chứa tình cảm cho gia đình, đầu tiên là tình yêu thương với má. Chị giống má như tạc, có lẽ là do ngưỡng mộ má, tự tạc mình theo má. Đồng thời chị cũng rất yêu thương Việt, chị luôn nhường nhịn em, duy chỉ có việc ra chiến trường đầy nguy hiểm là chị tranh giành với việt.

    Trong chị Chiến cũng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Dù là một người con gái bé nhỏ, nhưng chị sẵn sang xung phong đi bộ đội. Khi khiêng bàn thờ ba má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù ho ba má…”, “mối thù thằng Mĩ có thể rờ thấy được”. Đêm trước ngày ra chiến trường: dặn em và cũng là dặn chính mình phải quyết tâm trả thù giặc bằng xong với về. Tự hứa: “Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Bằng những lời nói thật giản dị nhưng chất chứa lòng căm thù giặc sâu sắc của chị. Trong cuộc sống hàng ngày chị là một người con gái đảm đang, tháo vát. Trước khi đi, chị thu xếp việc nhà chu toàn: viết thư cho chị Hai, cho xã mượn nhà làm trường học;…

    Xây dựng hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả đã cho thấy lòng căm thù giặc, cùng ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của những người con trong các gia đình nông dân Nam Bộ. Đồng thời cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

    Vẻ đẹp của hai nhân vật chính là bắt nguồn từ thế hệ trước. Gia đình Chiến có lòng dũng cảm và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bên cạnh đó mỗi thế hệ lại mang những nét đẹp riêng, chú Năm luôn có ý thức gánh vác việc gia đình, tạo cơ hội cho các thế hệ sau được ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chiến công trả thù. Má Tư Năng, chồng mất, can trường bất khuất, một mình nuôi con. Thế hệ sau có Việt và Chiến với lòng căm thù giặc sâu sắc, khúc sông sau chảy mạnh hơn, đi xa hơn, đã hòa vào biển lớn. Truyền thống gia đình đã cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

    Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một nét đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm được trần thuật từ ngôi thứ ba, người kể chuyện giấu mình, tạo nên tính trung thực, khách quan. Bên cạnh đó còn còn phải kể đến ngôn ngữ giản dị, đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

    Tác phẩm đã xây dựng hàng loạt chân dung anh hùng, mang trong mình lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ không còn là cá nhân anh hùng đơn lẻ mà là tập thể, gia đình anh hùng. Qua đó nhà văn cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Bài làm

   Một người nghệ sĩ có tài là người nghệ sĩ biết tìm từ những chất liệu đã nhiều người nhào nặn, nhào nặn một điều mới mẻ, nhào nặn một đứa con tinh thần đích thực của mình. Nguyễn Thi chính là một người nghệ sĩ như vậy. Trong những năm kháng chiến, văn học cách mạng là nguồn đề tài để các tác giả khai thác triệt để. Mà khai thác liên tục chắc chắn sẽ cạn kiệt. Đối với Nguyễn Thi ông đã tìm ra cách khai thác trong đề tài mà nhiều người đã lật mở, đào xới.

   Không giống như nhiều nhà văn khác, khi thác đề tài chiến tranh ở những góc độ khác nhau, như vẻ đẹp thân phận con người, chiến tranh như một cơ hội để tâm hồn con người được phát lộ, ông nhìn chiến tranh ở một góc độ rất khác – góc độ gia đình. Với cách khai thác này, Nguyễn Thi đã đem đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về chiến tranh, về số phận và phẩm chất của con người.

   Các nhân vật trong truyện được xây dựng có tên tuổi và cá tính riêng. Nhưng cá tính của mỗi người luôn có mạch nguồn khởi từ chính gia đình họ, nơi mà họ được sinh ra, nơi mà họ thuộc về. Tính cách đó đã có trong tất cả các thành viên và ở thế hệ sau tính cavhs đó lại không ngừng được bổ sung, thêm những nét tính cách mới. Ví như nhân vật Việt, sinh ra trong một gia đình giàu tinh thần chiến đấu. Ngay từ khi còn chưa đủ tuổi, Việt đã tranh với chị lên đường nhập ngũ. Cậu sẵn sàng nói dối tuổi của mình: “em mười tám, chị Chiến em mười chin”. Rồi cô chị vừa thương em,đã nói: “Đến Tết này nó mới được mười tám anh à! Em nói để em đi trước , nó ở nhà, thủng thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi, mà nó không chịu”. Như vậy, nguồn mạch, dòng màu yêu nước chảy trong huyết quản của hai chị em Việt Chiến chính là đã được hình thành ở các thế hệ trước đó. Và để giải quyết vấn đề này, chú của Việt và Chiến đã lên tiếng: “Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa là cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin cứ ghi tên cho cả hai.Việc lớn tính theo việc lớn, còn việc nhỏ thỏn mỏn, tôi thu xếp khác xong”. Như vậy có thể thấy, nét tính cách này đã được thể hiện một cách triệt để và toàn bộ trong gia đình Việt Chiến. Nét tính cách đó được hun đúc lên từ lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của gia đình.

   Thứ hai, chính là văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ trong đêm Việt bị thương, nằm giữa rừng, điều câu lo lắng, sợ hãi không phải là vết thương, không phải là nỗi đau đớn về thể xác mà chính là sự cô độc. Không được sống cùng mọi người, không được cùng chiến đấu, cậu một mình cô độc không biết cái chết sẽ ập đến lúc nào. Điều đó làm cậu thực sự sợ hãi. Bởi vậy, trong cơn mê man, Việt nhớ về những ngày ấu thơ, khi sống cùng chị, sống cùng chú Hai, rồi lại nhớ đến những người đồng đội của mình. Hình thức tái hiện quá khứ đó khiến cho Việt cảm thấy bớt cô độc, khiến cậu có thể kết nối được với mọi người. Tâm lí sợ cô đơn đó có thể lí giải bởi một vài nguyên nhân như: gia đình vốn là nơi mỗi người được sinh ra, bản thân chúng ta đều có một sợi dậy vô hình nối kết mọi thành viên trong gia đình với nhau. Đối với Việt gia đình còn là nơi để cậu có thêm động lực sống, chiến đấu để trả thù cho cha mẹ, cho những người thân thương của cậu.

   Như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “trong gia đình Việt, cái chất “anh hùng mộc mạc” được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cha mẹ của Việt và Chiến là những con người hết sức dũng cảm, và dòng máu nhiệt huyết đó vẫn không ngừng chảy trong lồng ngực cháy bỏng của hai chị em Việt và Chiến. Những việc làm của thế hệ đi trước luôn có ảnh hưởng rất lớn đến hành động, việc làm của hai chị em hiện tại. Để nhắc nhở về truyền thống gia đình, Việt thường xuyên mơ thấy mẹ vào những bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời cậu: khi mới vào nhập ngũ, khi bị thương, hình ảnh người mẹ hồn hậu lại hiện về trong tâm trí cậu, nó như thứ năng lượng tinh thần đặc biệt tiếp thêm sức mạnh cho cậu. Đồng thời những hình ảnh của mẹ thường xuất hiện vào những thời điểm quan trọng cũng cho thấy niềm tin tưởng, đức tin của những người còn sống với những người đã khuất, đức tin về sự bảo vệ, che chở. Ta có thể thấy, họ – hai chị em Việt Chiến đến với cuộc chiến đầy dai dẳng và quyết liệt này không chỉ bằng lòng căm thù giặc, lòng yêu nước mà còn là cả một chiều sâu tâm linh gia đình sâu thẳm.

   Để làm nổi bật lên cách khai thác chủ đề truyện, Nguyễn Thi đã lựa chọn một cách kể truyện vô cùng mộc mạc, giản dị, tự nhiên. Điểm nhìn trần thuật vô cùng linh hoạt, chủ yếu dựa trên quan điểm của nhân vật. Dòng sự kiện đi theo những cảm xúc nhân vật, từ đó tác giả có thể dễ dàng quan sát những tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Thời gian trần thuật liên tục bị xáo trộn, để ta vừa thấy một Việt vẫn còn những nét ngây thở, trẻ con, nhưng lại có cá tính, đã có sự khôn lớn, trưởng thành. Ngoài ra giọng điệu trần thuật gân guốc, rắn ròi cũng là một điểm nhấn trong tác phẩm. Đây là chất giọng điển hình của người dân Nam Bộ, những con người bộc trực, thẳng thắn, mạnh mẽ mà cũng giàu long yêu thương.

   Bằng một cách khai thác hiện thức rất khác, Nguyễn Thi đã đem đến cho người đọc một hiện thức khác, những con người khác trong hoàn cảnh chiến tranh. ở họ vẫn ngời sáng tinh thần anh hùng, dũng cảm nhưng nó không đơn độc, mà xuất phát từ truyền thống gia đình, xuất phát từ huyết mạch đang chảy trong họ. Cách khai thác đó, kết hợp với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc đã tạo nên thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

I. Mở bài

– Tác giả Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ miền Nam, thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm của ông phản ánh hiện thực nóng bỏng của chiến trường Nam Bộ và vẻ đẹp con người nơi đây.

– Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Nam Bộ.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp dòng sông truyền thống gia đình

– Gia đình kiên cường chịu nhiều đau thương trong chiến tranh: ông nội bị giặc giết, cha của Việt bị giặc chặt đầu, má bị trúng đạn của Mĩ, thím Năm bị giặc bắn chết. Đau thương đã nhen nhóm ngọn lửa căm thù trong mỗi thành viên.

   a. Vẻ đẹp của khúc sông trước

– Cha Việt và Chiến là cán bộ Việt Minh, kiên cường, trung thành với cách mạng đến cùng đến đã bị giết hại.

– Má là một người phụ nữ mạnh mẽ, gan góc: dám đi đòi lại đầu chồng, đối đáp với bọn giặc Mĩ mà không hề run sợ, biết nén đau thường thành lòng hận thù. Mặt khác cũng là người phụ nữ tháo vát, yêu thương chồng con.

– Chú Năm là là người luôn lưu giữ truyền thống gia đình (cuốn sổ), là người lao động chất phác có tâm hồn nghệ sĩ, hết lòng vì cách mạng (thu xếp cho cả hai chị em đi tòng quân).

– Nhận xét: đây là khúc sông thượng nguồn, kết tinh những vẻ đẹp truyền thống để truyền cho khúc sông sau phát huy.

   b. Vẻ đẹp của khúc sông sau

   *Nhân vật Chiến:

– Có những nét giống mẹ: mang vóc dáng của má “hai bắp tay tròn vo … chắc nịch”, giống má từ cái lối nằm với thằng út em, biết lo liệu mọi việc một cách chu đáo (đặc biệt trước đêm sắp xa nhà), Chiến tự thấy mình như hòa vào má “ Tao cũng đã lựa ý … nên tao cũng tính vậy”

– Là cô gái mới lớn nên khi thì người lớn (nhường em, tháo vát, …) nhưng có lúc vẫn rất trẻ con (vào chiến trường vẫn không quên mang gương nhỏ).

– Chiến cũng có những nét khác biệt so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng để trả thù cho người thân.

– Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

   *Nhân vật Việt:

– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn: hiếu động, ngây thơ, trẻ con

    + Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, …

    + Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun, …

    + Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

    + “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.

    + Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ “khóc đó rời cười đó”.

– Việt cũng là một chiến sĩ dũng cảm:

    + Khi còn nhỏ đã dám xông vào đá thằng giặc giết cha mình

    + Khi lớn lên tranh giành đi tòng quân với chị Chiến dù chưa dủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc.

    + Dù đang bị thương nặng nhưng vẫn luôn trong tư thế chiến đấu, không hề run sợ: “Tao sẽ chờ mày … mày là thằng chạy”.

– Nhận xét: Việt và Chiến chính là khúc sông sau, kế thừa những tinh hoa của khúc sông trước và chảy xa hơn khúc sông trước.

2. Hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má gửi nhà chú Năm

– Đó là sự tôn trọng, hiếu thảo với cha mẹ đã khuất

– Không khí thiêng liêng đã khiến Việt cảm thấy mình trưởng thành hơn: biết thương chị, cảm nhận sâu sắc mối thù đè nặng trên vai.

– Thể hiện sự trưởng thành của hai chị em, đã biết tự lo toan mọi điều, gánh vác những công việc qaun trọng trong gia đình.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, kể theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ đạm chất Nam Bộ, giọng kể giàu chất sử thi, …

– Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Nam Bộ, khẳng định truyền thống gia đình và dân tộc là sức mạnh to lớn để chống lại kẻ thù xâm lược.

   Nguyễn Thi – một con người tài hoa, sáng tác trên nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ngòi bút của tập trung chủ yếu vào những người dân Nam Bộ yêu nước mãnh liệt, có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tinh thần chiến đấu kiên cường. Những đứa con trong gia đình có thể coi là kết tinh phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 – giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng, ác liệt.

    Tác phẩm được xây dựng dựa trên tình huống Việt – một chiến sĩ giải phóng quân bị thương, lạc đồng đội giữa cánh rừng cao su. Đây là trận đánh đầu tiên của Việt nhưng đã lập được chiến công vang dội: dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép và sáu tên Mĩ lẻ. Anh chịu tổn thất nặng nề, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại Việt lại có dòng hồi ức miên man về gia đình, về những kỉ niệm ngày xưa. Câu chuyện được kể lại là những dòng hồi ức đứt nối giữa những lần chợt ngất đi tỉnh lại của Việt. Xây dựng tình huống này, tác giả nhằm khẳng định tình cảm lớn lao bao giờ cũng bắt nguồn từ những gì gần gũi, bình dị nhất.

    Việt bị thương trong một lần đánh giặc, cậu bị lạc đồng đội, bị ngất đi và tỉnh lại nhiều lần, trong những lần ấy, Việt nhớ về những kỉ niềm khi còn ở nhà, nhớ về cuốn sổ gia đình và những kỉ niệm trẻ thơ. Một cách rất tự nhiên tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật từ trần thuật về cuộc đời mình, khiến cho câu chuyện chân thực và giàu cảm xúc hơn.

    Việt sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ rạng rỡ những chiến công và có nhiều đau thương mất mát. Cha của Việt bị chặt đầu, chỉ có ba mẹ con nhưng dám dắt díu nhau đi đòi lại đầu chồng, không hề run sợ trước những lời hăm dọa của kẻ thù. Không chỉ vậy, má của Việt cùng ông nội và thím Năm đều chết dưới sự tàn sát, bom đạn của kẻ thù. Gia đình anh hùng mà cũng đầy đau thương, mất mát. Đây đồng thời cũng là hoàn cảnh chung của những gia đình Nam Bộ lúc bấy giờ.

    Việt là một người giàu tình cảm, luôn dành tình yêu thương sâu nặng nhất cho gia đình. Giữa lúc nằm một mình ở rừng, cái chết đang cận kề, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, điều cậu nghĩ tới đầu tiên chính là gia đình, là má của mình, và trong những lần ấy cậu còn tưởng má mình đang ở quanh đâu đây. Và ngay cả đêm trước khi lên đường ra chiến trường, nhìn vào hình ảnh chị Chiến cậu cũng liên tưởng đến má. Dù má đã mất, nhưng tình yêu thường dành cho má vẫn không bao giờ vơi cạn trong lòng Việt. Không chỉ dành tình yêu thương cho mẹ, mà Việt còn rất thương chị Chiến. Mẹ mất, chỉ có hai chị em nương tựa vào nhau, trong ngày khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, nghe thấy những bước chân bình bịch của chị, cậu thương chị đến lạ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm cùng chung sống dưới một mái nhà, tình cảm ấy được biểu lộ một cách rõ ràng đến vậy. Và một phản ứng vừa ngây ngô trẻ con mà cũng vô cùng đáng yêu của Việt ấy là khi ra chiến trường cậu giấu nhẹm chị mình, không bao giờ kể về chị với đồng đội, vì cậu sợ lỡ kể ra người ta sẽ lấy mất người chị thân yên của cậu, cậu giữ lấy chị làm của riêng. Hành động, suy nghĩ tuy trẻ con nhưng lại cho thấy tình yêu thương sâu sắc Việt dành cho chị.

    Không chỉ vậy, Việt còn có lòng căm thù giặc sâu sắc và luôn nung nấu quyết tâm trả thù. Gia đình Việt đã có biết bao người ngã xuống dưới sự tàn sát ghê rợn của kẻ thù: cha, mẹ, họ hàng, … bởi vậy lòng căm thù giặc càng trở nên mạnh mẽ, mãnh liệt hơn. Ngay sau cái chết của má, ý nghĩ ấy thôi thúc câu mãnh liệt hơn bao giờ hết, Việt tranh giành quyết liệt với chị Chiến để lên đường ra chiến trường, dù cậu còn nhỏ, vẫn chưa đủ tuổi nhưng ý chí, lòng quyết tâm vẫn không hề bị lay chuyển. Khi khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm , suy nghĩ trong tâm trí hai chị em: “…khi nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về”. Lòng căm thù giặc chính là động lực mạnh mẽ nhất để Việt cũng như Chiến nêu cao quyết tâm đánh giặc, trả thù cho gia đình.

    Ngoài mặt trận Việt là một người chiến sĩ hết sức gan góc, dũng cảm và vô cùng kiên cường. Mặc dù mới vào trận lần đầu tiên song với lòng dũng cảm, ý chí giết giặc cậu đã tiêu diệt được một xe bọc thép của kẻ thù và sáu tên giặc. Ngày cả khi bị thương thì tinh thần chiến đấu của Việt vẫn không hề giảm sút. Mặc dù bị lạc đồng đội, mắt không còn nhìn rõ, chín đầu ngón tay gần như bị tê liệt, nhưng Việt không hề nao núng sợ hãi, anh vẫn lắng nghe từng chuyển động để phán đoán hành động của kẻ thù và ngón tay duy nhất còn lại vẫn nắm chặt vào cò sung, sẵn sang chiến đấu. Việt luôn tâm niệm: “Bầu trời này có mày, mặt đất này có mày nhưng cánh rừng này có tao nếu mày giết tao thì tao sẽ giết mày”. Chỉ với một câu nói ấy thôi nhưng đã chủ thấy sự hiên ngang, chủ động của Việt.

    Dù trên chiến trường hết sức gan dạ, dũng cảm, nhưng trong cuộc sống đời thường cậu vẫn mang những nét hết sức dễ thương, hồn nhiên, vô tư của một đứa trẻ. Khi còn ở nhà, Việt luôn tranh giành, hay giận dỗi với chị Chiến. Ngay cả đêm trước khi lên chiến trường cậu cũng không them để tâm đến những gì chị nói và còn ngủ quên. Không chỉ vậy, tính cách trẻ con của Việt còn được biểu lộ ngay cả khi ở chiến trường cậu mang theo một chiếc ná thun và không bao giờ kể về chị mình với đồng đội. Dù gan góc, dũng cảm là thế, nhưng cậu có một nỗi sợ hết sức trẻ con ấy là sợ ma.

    Bên cạnh nhân vật Việt, cũng không thể không nhắc đến chị Chiến. Chị Chiến là người chan chứa tình cảm cho gia đình, đầu tiên là tình yêu thương với má. Chị giống má như tạc, có lẽ là do ngưỡng mộ má, tự tạc mình theo má. Đồng thời chị cũng rất yêu thương Việt, chị luôn nhường nhịn em, duy chỉ có việc ra chiến trường đầy nguy hiểm là chị tranh giành với việt.

    Trong chị Chiến cũng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Dù là một người con gái bé nhỏ, nhưng chị sẵn sang xung phong đi bộ đội. Khi khiêng bàn thờ ba má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù ho ba má…”, “mối thù thằng Mĩ có thể rờ thấy được”. Đêm trước ngày ra chiến trường: dặn em và cũng là dặn chính mình phải quyết tâm trả thù giặc bằng xong với về. Tự hứa: “Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Bằng những lời nói thật giản dị nhưng chất chứa lòng căm thù giặc sâu sắc của chị. Trong cuộc sống hàng ngày chị là một người con gái đảm đang, tháo vát. Trước khi đi, chị thu xếp việc nhà chu toàn: viết thư cho chị Hai, cho xã mượn nhà làm trường học;…

    Xây dựng hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả đã cho thấy lòng căm thù giặc, cùng ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của những người con trong các gia đình nông dân Nam Bộ. Đồng thời cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

    Vẻ đẹp của hai nhân vật chính là bắt nguồn từ thế hệ trước. Gia đình Chiến có lòng dũng cảm và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bên cạnh đó mỗi thế hệ lại mang những nét đẹp riêng, chú Năm luôn có ý thức gánh vác việc gia đình, tạo cơ hội cho các thế hệ sau được ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chiến công trả thù. Má Tư Năng, chồng mất, can trường bất khuất, một mình nuôi con. Thế hệ sau có Việt và Chiến với lòng căm thù giặc sâu sắc, khúc sông sau chảy mạnh hơn, đi xa hơn, đã hòa vào biển lớn. Truyền thống gia đình đã cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

    Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một nét đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm được trần thuật từ ngôi thứ ba, người kể chuyện giấu mình, tạo nên tính trung thực, khách quan. Bên cạnh đó còn còn phải kể đến ngôn ngữ giản dị, đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

    Tác phẩm đã xây dựng hàng loạt chân dung anh hùng, mang trong mình lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ không còn là cá nhân anh hùng đơn lẻ mà là tập thể, gia đình anh hùng. Qua đó nhà văn cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

   Một người nghệ sĩ có tài là người nghệ sĩ biết tìm từ những chất liệu đã nhiều người nhào nặn, nhào nặn một điều mới mẻ, nhào nặn một đứa con tinh thần đích thực của mình. Nguyễn Thi chính là một người nghệ sĩ như vậy. Trong những năm kháng chiến, văn học cách mạng là nguồn đề tài để các tác giả khai thác triệt để. Mà khai thác liên tục chắc chắn sẽ cạn kiệt. Đối với Nguyễn Thi ông đã tìm ra cách khai thác trong đề tài mà nhiều người đã lật mở, đào xới.

    Không giống như nhiều nhà văn khác, khi thác đề tài chiến tranh ở những góc độ khác nhau, như vẻ đẹp thân phận con người, chiến tranh như một cơ hội để tâm hồn con người được phát lộ, ông nhìn chiến tranh ở một góc độ rất khác – góc độ gia đình. Với cách khai thác này, Nguyễn Thi đã đem đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về chiến tranh, về số phận và phẩm chất của con người.

    Các nhân vật trong truyện được xây dựng có tên tuổi và cá tính riêng. Nhưng cá tính của mỗi người luôn có mạch nguồn khởi từ chính gia đình họ, nơi mà họ được sinh ra, nơi mà họ thuộc về. Tính cách đó đã có trong tất cả các thành viên và ở thế hệ sau tính cavhs đó lại không ngừng được bổ sung, thêm những nét tính cách mới. Ví như nhân vật Việt, sinh ra trong một gia đình giàu tinh thần chiến đấu. Ngay từ khi còn chưa đủ tuổi, Việt đã tranh với chị lên đường nhập ngũ. Cậu sẵn sàng nói dối tuổi của mình: “em mười tám, chị Chiến em mười chin”. Rồi cô chị vừa thương em,đã nói: “Đến Tết này nó mới được mười tám anh à! Em nói để em đi trước , nó ở nhà, thủng thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi, mà nó không chịu”. Như vậy, nguồn mạch, dòng màu yêu nước chảy trong huyết quản của hai chị em Việt Chiến chính là đã được hình thành ở các thế hệ trước đó. Và để giải quyết vấn đề này, chú của Việt và Chiến đã lên tiếng: “Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa là cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin cứ ghi tên cho cả hai.Việc lớn tính theo việc lớn, còn việc nhỏ thỏn mỏn, tôi thu xếp khác xong”. Như vậy có thể thấy, nét tính cách này đã được thể hiện một cách triệt để và toàn bộ trong gia đình Việt Chiến. Nét tính cách đó được hun đúc lên từ lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của gia đình.

    Thứ hai, chính là văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ trong đêm Việt bị thương, nằm giữa rừng, điều câu lo lắng, sợ hãi không phải là vết thương, không phải là nỗi đau đớn về thể xác mà chính là sự cô độc. Không được sống cùng mọi người, không được cùng chiến đấu, cậu một mình cô độc không biết cái chết sẽ ập đến lúc nào. Điều đó làm cậu thực sự sợ hãi. Bởi vậy, trong cơn mê man, Việt nhớ về những ngày ấu thơ, khi sống cùng chị, sống cùng chú Hai, rồi lại nhớ đến những người đồng đội của mình. Hình thức tái hiện quá khứ đó khiến cho Việt cảm thấy bớt cô độc, khiến cậu có thể kết nối được với mọi người. Tâm lí sợ cô đơn đó có thể lí giải bởi một vài nguyên nhân như: gia đình vốn là nơi mỗi người được sinh ra, bản thân chúng ta đều có một sợi dậy vô hình nối kết mọi thành viên trong gia đình với nhau. Đối với Việt gia đình còn là nơi để cậu có thêm động lực sống, chiến đấu để trả thù cho cha mẹ, cho những người thân thương của cậu.

    Như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “trong gia đình Việt, cái chất “anh hùng mộc mạc” được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cha mẹ của Việt và Chiến là những con người hết sức dũng cảm, và dòng máu nhiệt huyết đó vẫn không ngừng chảy trong lồng ngực cháy bỏng của hai chị em Việt và Chiến. Những việc làm của thế hệ đi trước luôn có ảnh hưởng rất lớn đến hành động, việc làm của hai chị em hiện tại. Để nhắc nhở về truyền thống gia đình, Việt thường xuyên mơ thấy mẹ vào những bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời cậu: khi mới vào nhập ngũ, khi bị thương, hình ảnh người mẹ hồn hậu lại hiện về trong tâm trí cậu, nó như thứ năng lượng tinh thần đặc biệt tiếp thêm sức mạnh cho cậu. Đồng thời những hình ảnh của mẹ thường xuất hiện vào những thời điểm quan trọng cũng cho thấy niềm tin tưởng, đức tin của những người còn sống với những người đã khuất, đức tin về sự bảo vệ, che chở. Ta có thể thấy, họ – hai chị em Việt Chiến đến với cuộc chiến đầy dai dẳng và quyết liệt này không chỉ bằng lòng căm thù giặc, lòng yêu nước mà còn là cả một chiều sâu tâm linh gia đình sâu thẳm.

    Để làm nổi bật lên cách khai thác chủ đề truyện, Nguyễn Thi đã lựa chọn một cách kể truyện vô cùng mộc mạc, giản dị, tự nhiên. Điểm nhìn trần thuật vô cùng linh hoạt, chủ yếu dựa trên quan điểm của nhân vật. Dòng sự kiện đi theo những cảm xúc nhân vật, từ đó tác giả có thể dễ dàng quan sát những tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Thời gian trần thuật liên tục bị xáo trộn, để ta vừa thấy một Việt vẫn còn những nét ngây thở, trẻ con, nhưng lại có cá tính, đã có sự khôn lớn, trưởng thành. Ngoài ra giọng điệu trần thuật gân guốc, rắn ròi cũng là một điểm nhấn trong tác phẩm. Đây là chất giọng điển hình của người dân Nam Bộ, những con người bộc trực, thẳng thắn, mạnh mẽ mà cũng giàu long yêu thương.

    Bằng một cách khai thác hiện thức rất khác, Nguyễn Thi đã đem đến cho người đọc một hiện thức khác, những con người khác trong hoàn cảnh chiến tranh. ở họ vẫn ngời sáng tinh thần anh hùng, dũng cảm nhưng nó không đơn độc, mà xuất phát từ truyền thống gia đình, xuất phát từ huyết mạch đang chảy trong họ. Cách khai thác đó, kết hợp với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc đã tạo nên thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong truyện Những đứa con trong gia đình

Bài làm

I. Mở bài

– Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ, tác phẩm của ông khắc họa vẻ đẹp của con người nơi đây: hồn nhiên, bộc trực, yêu quê hương, …

– Việt và Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình là hai nhân vật kết tính những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

II. Thân bài

1. Nhân vật Chiến

– Có những nét giống mẹ: mang vóc dáng của má “hai bắp tay tròn vo … chắc nịch”, giống má từ cái lối nằm với thằng út em, biết lo liệu mọi việc một cách chu đáo (đặc biệt trước đêm sắp xa nhà), Chiến tự thấy mình như hòa vào má “ Tao cũng đã lựa ý … nên tao cũng tính vậy”

– Là cô gái mới lớn nên khi thì người lớn (nhường em, tháo vát, …) nhưng có lúc vẫn rất trẻ con (vào chiến trường vẫn không quên mang gương nhỏ).

– Chiến cũng có những nét khác biệt so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng để trả thù cho người thân, cho quê hương.

– Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

2. Nhân vật Việt

– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn: hiếu động, ngây thơ, trẻ con

    + Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, …

    + Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun, …

    + Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

    + “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.

    + Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ.

– Việt cũng là một chiến sĩ dũng cảm:

    + Khi còn nhỏ đã dám xông vào đá thằng giặc giết cha mình

    + Khi lớn lên tranh giành đi tòng quân với chị Chiến dù chưa dủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc.

    + Dù đang bị thương nặng nhưng vẫn luôn trong tư thế chiến đấu, không hề run sợ: “Tao sẽ chờ mày … mày là thằng chạy”.

3. Hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má gửi nhà chú Năm

– Đó là sự tôn trọng, hiếu thảo với cha mẹ đã khuất

– Không khí thiêng liêng đã khiến Việt cảm thấy mình trưởng thành hơn: biết thương chị, cảm nhận sâu sắc mối thù đè nặng trên vai.

– Thể hiện sự trưởng thành của hai chị em, đã biết tự lo toan mọi điều, gánh vác những công việc qaun trọng trong gia đình.

– Nhận xét: Việt và Chiến chính là khúc sông sau, kế thừa những tinh hoa của khúc sông trước và chảy xa hơn khúc sông trước, cả hai chị em đã dần trưởng thành sau những biến cố, những lần tham gia đánh giặc.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, kể theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ đạm chất Nam Bộ, giọng kể giàu chất sử thi, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí sắc sảo, …

– Tác phẩm cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa tình cảm gia đình, tình yêu nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc. Đó là sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong truyện những đứa con trong gia đình

Bài làm

    Những đứa con trong gia đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi. Trong tác phẩm này, ông đã dựng lên một tập thể anh hùng, dũng cảm, và trong tập thể đó, nổi bật nhất chính là hình tượng hai nhật vật Việt và Chiến. Thế hệ tiếp bước truyền thống gia đình, làm rạng danh truyền thống của dòng họ.

    Hai chị em Việt Chiến là hình tượng chính, có sự tương đồng về lứa tuổi lại cùng được hun đúc, nuôi dưỡng từ một gia đình. Nên giữa hai chị em có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết ở họ cùng mang lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức giết giặc để trả thù trong gia đình lúc nào cũng sục sôi. Trong tác phẩm, tác giả xây dựng nhiều chi tiết để thể hiện lòng căm thù giặc của hai chị em Việt, Chiến song chi tiết cảm động nhất là khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chí Năm. Trong thời khắc đó Việt đã nhìn thấy rõ lòng mình: “Còn mối thù thằng Mĩ còn có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Lòng căm thù giặc vốn là một khái niệm trừu tượng, vô hình nay đã được Việt hữu hình hóa, có sức nặng cụ thể. Và khi mối thù đó đè năng trên vai cậu càng quyết tâm hơn nữa giết giặc, trả thù cho gia đình.

    Việt và Chiến còn là những chiến sĩ xông xáo trên mặt trận, gan dạ dũng cảm lập được nhiều chiến công. Chị Chiến mặc dù là con gái song chị mang trong mình ý chí, quyết tâm rất cao. Ra đi đánh giặc, chị chỉ mang theo một tâm nguyện: “Ta là thân gái, ra đi chỉ một câu này: Nếu giặc còn thì ta mất”. Tinh thần quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc ngoại xâm, đồng thời còn cho thấy sự mạnh mẽ, kiên cường của người phụ nữ nông dân Nam Bộ. Đây cũng là ý nguyện của toàn bộ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: “Ra đi chỉ một lời thề/ Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Còn Việt, anh tham gia chiến đấu khi chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng Việt đã chứng tỏ mình là một chiến sĩ vô cùng dũng cảm. Sự dũng cảm ấy được thể hiện trong lần anh ôm cả bầu pháo lao vào xe tăng địch; thể hiện trong lần Việt bị thương nằm giữa rừng, dù các giác quan gần như tê liệt, chỉ duy nhất một ngón tay còn cử động anh vẫn để sẵn vào cò sũng, luôn trong tư thế sẵn sang chiến đấy. Sự dũng cảm của Việt không chỉ thể hiện rõ trong chiến đấu mà còn thể hiện trong quan niệm về cái chết: “Chết là đau gấp mấy lần bị thương; chết là người thật bay lên nóc nhà còn người giả nằm dưới đất”, Qua niệm có phần ngây thơ, trẻ con, nhưng lại cho thấy cái chết đối với Việt không phải là điều khủng khiếp nhất với anh. Từ đó làm toát lên tình thần dũng cảm ở Việt. Sự gan dạ, dũng cảm ở hai chị em đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho những chiến sĩ giải phóng quân trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

    Nhìn sâu vào tâm hồn hai chị em Việt Chiến, chúng ta còn thấy được những vẻ đẹp khác, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương gia đình. Chị Chiến mặc dù chỉ hơn Việt một tuổi nhưng lại rất đảm đang, tháo vát và hết sức yêu thương em. Chị luôn nhường nhịn Việt, chỉ có lần duy nhất không nhường đó là đêm ghi tên để lên đường tòng quân. Chị giành lấy phần khó khăn, vất vả về phía mình để em được sống trong an toàn. Còn Việt lại là cậu bé còn nhiều nét tính cách trẻ con nên hay tranh giành với chị Chiến, nhưng thực tế lại rất giàu tình cảm và lòng yêu thương chị. Bước chân bình bịch của chị khi khiêng bàn thờ sang nhà chú Năm càng làm rõ hơn tình yêu thương ấy. Nằm trong rừng bị thương, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, Việt lại nhớ về những kí ức của hai chị em.

    Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hình tượng này còn mang những điểm khác biệt do tính cách, lứa tuổi và đặc biệt là do vị trí trong gia đình quy đình. Những điểm riêng biệt này đã giúp tác giả điển hình hóa nhân vật, giúp cho mỗi nhân vật có tính cách và số phận riêng.

    Chị Chiến mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bắp chân lúc nào cũng tròn lẳn, bước chân đi rất nhanh và mạnh, khiến Việt có thể cảm nhận rõ bước chân bình bịch khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đó là sức vóc đặc trưng của những người phụ nữ nông dân Nam Bộ, họ sinh ra để lo toan, thu vén cho gia đình. Là chị cả trong gia đình, chị Chiến sớm tỏ ra là người con gái đảm đang, tháo vát, chị lo toan công việc chu toàn. Trước khi lên đường ra mặt trận chị đã sắp xếp tươm tất mọi việc: chuyển bàn thờ má, cho mượn nhà làm trường học, trả lại ruộng cho xã,… Chị luôn suy nghĩ, lo toan chu đáo mọi việc.

    Bên cạnh những điểm chung, tác giả đã đem đến cho người đọc hình tượng nhân vật Việt những nét vẽ mới lạ, độc đáo. Trước hết, Việt là một đứa trẻ hồn nhiên, ngay thơ có phẩn trẻ con của một chàng trai tuổi mới lớn. Khi còn nhỏ cậu hiếu động, rất hay tranh giành với chị. Lớn lên, tham gia chiến đấu, khoác lên mình bộ quân phục đĩnh đạc nhưng trong tâm hồn cậu vẫn vương lại những nét tính cách trẻ con. Bị thương trong rừng, câu không sợ chết mà sợ con ma cụt đầu – nỗi ảm ảnh tuổi thơ, đã khiến Việt khóc một cách hồn nhiên. Không chỉ vậy, khi ra chiến trường cậu còn giấu nhẹm, không kể về chị cho những đồng đội của mình, vì sợ mất chị. Tất cả những biểu hiện hồn nhiên, vô tư đó đã đem đến một cái nhìn tươi sáng, rât đáng yêu về những anh giải phóng quân trẻ tuổi.

    Cùng là sự gan dạ, ũng cảm nhưng ta nhận thấy sự gan dạ của Việt được hình thành trên cơ sở cá tính mạnh mẽ, bộc trực hơn là thiên về bản lĩnh, kinh nghiệm. Sự mạnh mẽ, dũng cảm ở Việt được thể hiện trong hành động đầy gan dạ, ôm cả bọc pháo lao vào xe tăng địch.

    Đặc biệt với nhân vật này Nguyễn Thi đi sau vào khai hác những suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ông đã khéo léo hòa trộn, đan cài đôi khi là cả những suy nghĩ thoáng qua của Việt về tiếng chim, đôi khi lại là những cảm xúc vô cùng thiêng liêng về má, chú Năm, truyền thống gia đình và đó còn là lòng căm thù giặc sục sôi. Những biến đổi linh hoạt đó đã cho thấy ẩn đằng sau lòng dũng cảm, kiên cường còn là một anh giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên, ngây thơ lại vừa can trường, bản lĩnh, mang trong mình lí tưởng cao đẹp.

    Xây dựng chân dung hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả Nguyễn Thi đã làm nổi bật chân dung của những con người anh hùng trong thời đại mới. Trong họ trong chỉ đơn thuần là yêu căm chiến lạc, mà ở họ còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, khi mơ hồ, tinh tế, khi sắc nét, rõ ràng. Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công khi xây dựng chân dung nhân vật.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

Bài làm

   Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thi lại đặt tên cho tác phẩm của mình là “Những đứa con trong gia đình”. Những đứa con ấy chính là Việt và Chiến, từ trong căn huyết mỗi người đã tồn ngự lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu quật cường. Hai con người ấy, làm bừng sáng văn học kháng chiến, mang đến một thanh âm trong trẻo mà cũng đầy nhiệt huyết cho văn học giai đoạn này.

   Đầu tiên là hình ảnh của chị Chiến trong tác phẩm. Chú Năm đã từng nói rằng, chị Chiến giống y như má. Quả thực đúng như vậy, không chỉ giống ở dáng vẻ bề ngoài, mà con giống ở nội tâm, tính cách. Chị mang trong mình dáng vẻ tròn lẳn, chắc nịch của má, của người phụ nữ nông dân Nam Bộ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch”. Ở chị luôn tồn tại một sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Không chỉ là một người con gái khỏe mạnh, mà chị còn giống má ở tính cách đảm đang, tháo vát. Trước khi lên đường nhập ngũ, mọi chuyện đều được chị sắp xếp chu toàn đâu ra đó. Đầu tiên chính là đưa thằng Út sang nhà chú Năm: “Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Giường ván cũng cho xã mượn mở trường học. Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học. Nồi lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm để gửi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới. Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đăng chia cho cô bác khác mầm. hai cô mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm giỗ ba má. Đem bàn thờ sang gửi nhà chú Năm”. Quả thực, chị mới 19 tuổi, cái tuổi vẫn còn “ăn chưa no lo chưa tới” nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, chị sớm trở nên già dặn, đã có thể sắp xếp mọi chuyện chu toàn, gọn ghẽ. Chị chính là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ nông dân Việt Nam. Dù được thừa hưởng ở má rất nhiều nét đẹp khác nhau, nhưng bản thân chị Chiến vẫn mang trong mình những nét riêng biệt, chị mạnh mẽ dũng cảm cầm súng, trực tiếp ra chiến trường để trả nợ nước, thù nhà. Chị sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân đẹp đẽ nhất của bản thân vì sự nghiệp chung của đất nước.

   Nhân vật xuất hiện nhiều nhất, cũng là nhân vật chính trong tác phẩm này chính là Việt, một chàng thanh niên mới lớn. Ở cậu vừa có nét kiên cường, cứng cỏi, nhưng cũng có nét rất trẻ con.

   Hai chị em tranh nhau ra trận, vì muốn được đi mà Việt đã khai khống tuổi mình, cái việc nói dối khiến cậu không khỏi lo lắng, sau khi nói xong còn khẽ liếc chị so sánh “mình đứng đâu có thua chị, tuy tóc chị có cao hơn mình một chút thật”.Rồi đến lúc hành vi của mình bị chị vạch trần Việt vẫn mang quyết tâm được đi. Sau khi được chú Năm xin, “giải quyết” Việt vô cùng sung sướng khi được thỏa mãn mong muốn của bản thân. Cậu còn quay sang trách chứ “chị biết vậy sao hồi nãy chị ngăn tôi? Người ta mười tám tuổi rồi mà nói chưa…”. Trong giọng nói vẫn thập phần ấm ức. Bởi với đứa trẻ là cậu khi chị là chị, đã nhường thì chắc chắn sẽ phải nhường nhịn cậu trong mọi việc. Nhưng cậu nào đâu có hiểu cho những lo lắng của chị Chiến. Chỉ vì sợ cậu cực khổ nên mới muốn để cậu ở nhà.

   Nét ngây thơ của Việt còn thể hiện trong hành động hết sức ngây thơ của cậu. Việt giấu chị Chiến như là của riêng mình. Không nói cho những anh em đồng chí khác, sợ sẽ mất chị. Trong lúc bị thương nằm một mình ở rừng, Việt : “phải chi có chị Chiến ở đây, chị sẽ bắn thế cho Việt. Chỗ này gác súng thiệt tốt, ngay dưới gốc bông trang, chị cứ đưa Việt giữ giùm cái kiếng trong túi, ngồi hẳn xống,nhằm thẳng ngực nó mà nổ súng”. Những suy nghĩ đó của Việt vừa ngây thơ, non nớt những cũng rất đỗi cảm động trước tình cảm Việt giành cho chị.

   Nhưng đằng sau đó lại là một chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm. Trong một lần đọ lê, Việt leo lên được chiếc xe bọc thép của giặc đang tháo chạy, Việt dùng thủ pháp tiêu diệt được nó. Nhưng bản thân cậu lại bị thương mà ngất đi, cậu bị lạc đồng đội, một mình nằm trong rừng, tình huống vô cùng nguy hiểm. Cái chết đang bủa vây lấy Việt, hơn nữa trên trời tiếng trực thăng đang bay phạch phạch, dưới đất thì xe bọc thép và pháo mỗi lúc một gần hơn. Sự sống của Việt đang ngàn cân treo sợi tóc. Việt tự nhận thức “chúng đến để giết mình đây” nhưng chính trong lúc đó cậu cũng lại tự hỏi: “chết là gì nhỉ?” và tự trả lời: “chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết tức là gười thật từ biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm tại đó?”. Nhưng những ý nghĩ đó được thay thế bằng ý chí, quyết tâm của một chàng lính trẻ: “Được,Việt cứ nằm đây! Tao sẽ chời mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Khi tinh thần đã được lên dây cót, Việt luôn trong tư thế sẵn sàng, ngón tay luôn đặt vào súng, chỉ cần bất cứ động tĩnh gì cậu cũng sẽ sẵn sàng chiến đấu. Tuy hi vọng là mong manh nhưng cũng có thể thấy tinh thần ham sống, và lòng dũng cảm của Việt.

   Việt và Chiến đều là những đứa con có tình yêu thương cha mẹ và lòng căm thù giặc sâu sắc. Lòng căm thù giặc ấy cũng xuất phát từ chính tình yêu thương gia đình, muốn báo thù cho cha mẹ. Không chỉ vậy họ còn là những chiến sĩ hết sức kiên cường, dũng cảm. Trên trận tuyết họ không hề lo lắng, run sợ, đem hết sức kiên cường của bản thân chiến đấu đến cùng với giặc. Mặc dù có nhiều điểm chung nhưng hai nhân vật này vẫn có những nét riêng biệt. Chị Chiến chin chắn, trưởng thành, thiên tính nữ trong chị thể hiện rất rõ. Chị là người pụ nữ đảm đang tháo vát, già dặn trước tuổi. Còn Việt lại là cậu chàng mới lớn còn nhiều ngay thơ, bồng bột, hiếu thắng, nhưng cũng hết sức dũng cảm.

   Việt và Chiến là hai nhân vật trung tâm trong tác phẩm, được Nguyễn Thi kì công xây dựng. Ở họ vừa có nguồn lạch chung những đồng thời lại có những điểm khu biệt, khiến người đọc không thể nhầm lẫn. Việt và Chiến là hai đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam cầm sung kháng chiến, cứu nước.

Đề bài: Phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật Việt và Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.

Bài làm

    Truyện “Những đứa con trong gia đình” là sáng tác xuất sắc của Nguyễn Thi trong thời chống Mĩ nói về Chiển và Việt là hai chị em ruột, lại là hai chiến sĩ Giải phóng quân cùng ra trận trong một ngày. Với lối kể chuyện đậm đà màu sắc dân gian, vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ vào miêu tả và biểu cảm, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật điển hình – tất cả tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của áng văn xuôi này.

    Chiến và Việt có nhiều điểm giống nhau. Là con em của một gia đình cách mạng, giàu truyền thống anh hùng. Ông bà, ba má đều bị giặc sát hại. Mối thù chất chứa và đè nặng trong lòng có bao giờ nguôi? Hai chị em cùng một ước nguyện nung nấu được lên đường đánh giặc, trả thù cho ông bà, ba má, cho quê hương.

    Tình thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em. Nguyễn Thi đã gây xúc động cho người đọc trước cảnh hai chị em Chiến và Việt tranh nhau ghi tên tòng quân, và sáng hôm sau, trước lúc lên đường cùng ghé vai khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm. Đây là đoạn văn hay nhất, cảm động nhất của thiên truyện: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”…

    Gia đình Tư Năng là một gia đình có truyền thống bất khuất. Ba má gan góc nên bầy con cũng gan góc. Má đi trước bầy con đi sau, chị Hai, Chiến và Việt bám sát lũ giặc mà la: “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, Giặc bắn cũng không sợ! Cho đến lúc lấy lại được đầu ba rồi, Việt “cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Gan góc như thế nên Việt và Chiến đã cùng ba má và quê hương kiên cường đánh giặc. Cả hai chị em đều chiến đấu dũng cảm và lập được nhiều chiến công. Chị Chiến đã đánh tàu giặc trên sóng Định Thuỷ bắn chết một thằng Mĩ, còn Việt thì phá được một xe tăng Mĩ trong một trận đánh ác liệt giữa rừng cao su.

    Quê hương mấy chục năm trời đầy bóng giặc, tang tóc đau thương trùm lên mọi gia đình. Thù nhà, nợ nước chất cao. Cha mẹ đều là dũng sĩ nên hai chị em dường như sinh ra để mà đánh giặc. Đánh giặc để trả thù cho ba má, cho gia đình và quê hương, đất nước. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em Việt và Chiến, của tuổi trẻ miền Nam: “Hạnh phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù”. Chiến đã nói với em trong đêm thu xếp việc nhà trước lúc ra trận: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi là tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Câu nói mộc mạc ấy, giản dị ấy vang lên thiêng liêng như một lời thề! Nó chẳng khác nào câu nói của chị út Tịch – người mẹ cầm súng: “Còn cái lai quần cũng đánh!”. Nó giống như quyết tâm đánh giặc của hàng triệu thanh niên ta hồi ấy: “Ra đi chỉ một lời thề – Chưa giết hết giặc, chưa về quê hương”.

    Chiến và Việt ở độ tuổi 17, 18 bắt đầu trưởng thành. Có lúc hai chị em còn giành nhau bắt ếch, ai được nhiều hay được ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc trên sông Định Thủy và giành nhau ghi tên tòng quân. Cái hồn nhiên, ngây thơ vẫn còn in đậm trong mỗi nhân vật nhưng nhận thức về thù nhà nợ nước, về nghĩa vụ đánh giặc để giải phóng miền Nam lại vô cùng sâu sắc.

    Việt và Chiến có những nét chung về tính cách và có những khía cạnh riêng về cá tính. Cái tài của Nguyễn Thi là tạo cho mỗi người một vẻ. Sự khác biệt giữa Chiến và Việt xét cho cùng vì một người là chị, một người là em và khác nhau về giới tính. Chú Năm nhận xét: “Việt là một thằng nhỏ gan, chị Chiến là đứa con gái không khác mẹ một chút nào”. Chiến giống mẹ ở tính gan góc, tần tảo, tháo vát, đã nói là làm, biết lo toan thu xếp việc nhà đâu vào đấy. Nấu cơm cúng má, gửi đồ đoàn nhà cửa, trao lại chi bộ năm công ruộng, gửi bàn thờ má, thu xếp cho đứa em út ăn ở học hành, từ việc nhỏ đến việc lớn, Chiến đều bàn với em và chú, đã thu xếp chu đáo tất cả mọi việc trước lúc lên đường đi đánh giặc. Là chị lớn, sau khi mẹ mất, Chiến sớm phải làm chủ gia đình nên cô khôn ngoan và già dặn trước tuổi. Nghe Chiến trình bày việc nhà, chú Năm phải buột miệng khen: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bay kỳ đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”.

    Là chị, Chiến rất thương em, hầu như trong mọi chuyện tranh giành, cuối cùng chị đều nhường nhịn. Khi ghi tên tòng quân, Chiến nhất định không chịu nhường vì ngoài niềm khát khao đánh giặc, còn có lòng thương em của người chị. Chiến chưa muốn em phải xông pha bom đạn hiểm nguy vội, vì em còn nhỏ “thủng thẳng để chú Năm thu xếp rồi hãy đi…”.

    Hai chị em đều là con nhà nghèo, mồ côi. Chiến tranh kéo dài nên cả hai chị em đều thất học, đang bập bẹ tập đánh vần, tập viết. Chiến kiên nhẫn hơn Việt trong việc học hành. Có lúc em còn bỏ bê về nhà ăn cơm hay đi chơi, còn chị thì cứ ngồi ở một góc ván, tập đánh vần hoài “từ trưa tới xế, rồi từ xế tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vạng”.

    Việt là em, lại là trai nên hiếu thắng, hay tranh giành với chị. Việc nhà phó mặc cả cho chị. Nghe chị bàn, Việt cứ ừ ào cho qua, vừa nghe vừa đưa tay chụp con đom đóm rồi ngủ gục lúc nào không biết. Thích đi đánh giặc, dũng cảm trong chiến trận, lạc đơn vị ba ngày đêm, mình đầy thương tích, lúc nào nòng súng lên đạn vẫn hướng về phía giặc, thế mà khi bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao phủ chiến trường, Việt lại sợ ma: “con ma cụt đầu” … “thằng chỏng thụt lưỡi”, vừa chợt nhớ tới, đã làm cho cậu ta “nằm thở dốc”. Trong thơ của Trần Đăng Khoa có một hình ảnh rất hay về chú bộ đội thời đánh Mĩ:

    “Cháu nghe chú đánh, những đâu

    Những tàu chiến cháy, những tay bay rơi.

    Đến đây chỉ thấy chú cười

    Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi”…

           (Gửi theo các chú bộ đội)

    Ở đây, Việt cũng vậy, khi đã trở thành một Giải phóng quân nhưng trong hành trang của cậu ta vẫn có chiếc ná thun nằm gọn trong túi áo như hồi còn ở nhà… Trong câu hò chú Năm, Việt khi thì biến thành tấm áo vá quàng, hoặc con sông dài cá lượn, lúc thì biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười. Phải rồi,Việt là hình ảnh quê hương, Việt là hình ảnh củ nhân dân anh hùng.

    Tóm lại, hai chị em Chiến và Việt là “con nòi” gốc gác nông dân, tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có cá tính khác nhau, chị và em mỗi người một bản sắc, Cả hai chị em đều đáng yêu. Nguyễn Thi đã tạo dựng nên tính cách điển hình sống động: Chiến và Việt tiêu biểu cho khí phách anh hùng của tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ. Trong một chừng mực nhất định, bức chân dung hai chị em đều được cá thể hoá cao độ, tạo nên ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Thời đánh Mĩ: “Ra đến ngõ, gặp anh hùng”. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi giúp ta cảm nhận được điều đó.

    Chú Năm có nói: “…Con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng con cũng ra từ đó!… Phải rồi, lòng tốt của chị em Chiến, Việt sinh ra từ dòng sông và mảnh đất quê hương.

    Tiền tuyến thời đánh Mĩ đã gọi hai chị cm Việt và Chiến lên đường. Sau khi chồng bị giặc giết, má Tư Năng nói: “Để má ráng nuôi bay lớn coi bay có làm được gì cho cha mày vui không?”. Má đã trông ngày trông đem cho con mau lớn. Chị em Chiến và Việt ra trận dể bảo vệ quê hương và cũng là để làm trọn lời nguyền của má. Chiến và Việt khác nào hai giọt nước trên dòng cửu Long Giang cuộn sóng của đất trời phương Nam.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong truyện những đứa con trong gia đình

I. Mở bài

– Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ, tác phẩm của ông khắc họa vẻ đẹp của con người nơi đây: hồn nhiên, bộc trực, yêu quê hương, …

– Việt và Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình là hai nhân vật kết tính những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

II. Thân bài

1. Nhân vật Chiến

– Có những nét giống mẹ: mang vóc dáng của má “hai bắp tay tròn vo … chắc nịch”, giống má từ cái lối nằm với thằng út em, biết lo liệu mọi việc một cách chu đáo (đặc biệt trước đêm sắp xa nhà), Chiến tự thấy mình như hòa vào má “ Tao cũng đã lựa ý … nên tao cũng tính vậy”

– Là cô gái mới lớn nên khi thì người lớn (nhường em, tháo vát, …) nhưng có lúc vẫn rất trẻ con (vào chiến trường vẫn không quên mang gương nhỏ).

– Chiến cũng có những nét khác biệt so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng để trả thù cho người thân, cho quê hương.

– Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

2. Nhân vật Việt

– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn: hiếu động, ngây thơ, trẻ con

    + Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, …

    + Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun, …

    + Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

    + “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.

    + Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ.

– Việt cũng là một chiến sĩ dũng cảm:

    + Khi còn nhỏ đã dám xông vào đá thằng giặc giết cha mình

    + Khi lớn lên tranh giành đi tòng quân với chị Chiến dù chưa dủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc.

    + Dù đang bị thương nặng nhưng vẫn luôn trong tư thế chiến đấu, không hề run sợ: “Tao sẽ chờ mày … mày là thằng chạy”.

3. Hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má gửi nhà chú Năm

– Đó là sự tôn trọng, hiếu thảo với cha mẹ đã khuất

– Không khí thiêng liêng đã khiến Việt cảm thấy mình trưởng thành hơn: biết thương chị, cảm nhận sâu sắc mối thù đè nặng trên vai.

– Thể hiện sự trưởng thành của hai chị em, đã biết tự lo toan mọi điều, gánh vác những công việc qaun trọng trong gia đình.

– Nhận xét: Việt và Chiến chính là khúc sông sau, kế thừa những tinh hoa của khúc sông trước và chảy xa hơn khúc sông trước, cả hai chị em đã dần trưởng thành sau những biến cố, những lần tham gia đánh giặc.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, kể theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ đạm chất Nam Bộ, giọng kể giàu chất sử thi, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí sắc sảo, …

– Tác phẩm cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa tình cảm gia đình, tình yêu nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc. Đó là sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

   Những đứa con trong gia đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi. Trong tác phẩm này, ông đã dựng lên một tập thể anh hùng, dũng cảm, và trong tập thể đó, nổi bật nhất chính là hình tượng hai nhật vật Việt và Chiến. Thế hệ tiếp bước truyền thống gia đình, làm rạng danh truyền thống của dòng họ.

    Hai chị em Việt Chiến là hình tượng chính, có sự tương đồng về lứa tuổi lại cùng được hun đúc, nuôi dưỡng từ một gia đình. Nên giữa hai chị em có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết ở họ cùng mang lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức giết giặc để trả thù trong gia đình lúc nào cũng sục sôi. Trong tác phẩm, tác giả xây dựng nhiều chi tiết để thể hiện lòng căm thù giặc của hai chị em Việt, Chiến song chi tiết cảm động nhất là khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chí Năm. Trong thời khắc đó Việt đã nhìn thấy rõ lòng mình: “Còn mối thù thằng Mĩ còn có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Lòng căm thù giặc vốn là một khái niệm trừu tượng, vô hình nay đã được Việt hữu hình hóa, có sức nặng cụ thể. Và khi mối thù đó đè năng trên vai cậu càng quyết tâm hơn nữa giết giặc, trả thù cho gia đình.

    Việt và Chiến còn là những chiến sĩ xông xáo trên mặt trận, gan dạ dũng cảm lập được nhiều chiến công. Chị Chiến mặc dù là con gái song chị mang trong mình ý chí, quyết tâm rất cao. Ra đi đánh giặc, chị chỉ mang theo một tâm nguyện: “Ta là thân gái, ra đi chỉ một câu này: Nếu giặc còn thì ta mất”. Tinh thần quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc ngoại xâm, đồng thời còn cho thấy sự mạnh mẽ, kiên cường của người phụ nữ nông dân Nam Bộ. Đây cũng là ý nguyện của toàn bộ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: “Ra đi chỉ một lời thề/ Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Còn Việt, anh tham gia chiến đấu khi chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng Việt đã chứng tỏ mình là một chiến sĩ vô cùng dũng cảm. Sự dũng cảm ấy được thể hiện trong lần anh ôm cả bầu pháo lao vào xe tăng địch; thể hiện trong lần Việt bị thương nằm giữa rừng, dù các giác quan gần như tê liệt, chỉ duy nhất một ngón tay còn cử động anh vẫn để sẵn vào cò sũng, luôn trong tư thế sẵn sang chiến đấy. Sự dũng cảm của Việt không chỉ thể hiện rõ trong chiến đấu mà còn thể hiện trong quan niệm về cái chết: “Chết là đau gấp mấy lần bị thương; chết là người thật bay lên nóc nhà còn người giả nằm dưới đất”, Qua niệm có phần ngây thơ, trẻ con, nhưng lại cho thấy cái chết đối với Việt không phải là điều khủng khiếp nhất với anh. Từ đó làm toát lên tình thần dũng cảm ở Việt. Sự gan dạ, dũng cảm ở hai chị em đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho những chiến sĩ giải phóng quân trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

    Nhìn sâu vào tâm hồn hai chị em Việt Chiến, chúng ta còn thấy được những vẻ đẹp khác, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương gia đình. Chị Chiến mặc dù chỉ hơn Việt một tuổi nhưng lại rất đảm đang, tháo vát và hết sức yêu thương em. Chị luôn nhường nhịn Việt, chỉ có lần duy nhất không nhường đó là đêm ghi tên để lên đường tòng quân. Chị giành lấy phần khó khăn, vất vả về phía mình để em được sống trong an toàn. Còn Việt lại là cậu bé còn nhiều nét tính cách trẻ con nên hay tranh giành với chị Chiến, nhưng thực tế lại rất giàu tình cảm và lòng yêu thương chị. Bước chân bình bịch của chị khi khiêng bàn thờ sang nhà chú Năm càng làm rõ hơn tình yêu thương ấy. Nằm trong rừng bị thương, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, Việt lại nhớ về những kí ức của hai chị em.

    Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hình tượng này còn mang những điểm khác biệt do tính cách, lứa tuổi và đặc biệt là do vị trí trong gia đình quy đình. Những điểm riêng biệt này đã giúp tác giả điển hình hóa nhân vật, giúp cho mỗi nhân vật có tính cách và số phận riêng.

    Chị Chiến mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bắp chân lúc nào cũng tròn lẳn, bước chân đi rất nhanh và mạnh, khiến Việt có thể cảm nhận rõ bước chân bình bịch khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đó là sức vóc đặc trưng của những người phụ nữ nông dân Nam Bộ, họ sinh ra để lo toan, thu vén cho gia đình. Là chị cả trong gia đình, chị Chiến sớm tỏ ra là người con gái đảm đang, tháo vát, chị lo toan công việc chu toàn. Trước khi lên đường ra mặt trận chị đã sắp xếp tươm tất mọi việc: chuyển bàn thờ má, cho mượn nhà làm trường học, trả lại ruộng cho xã,… Chị luôn suy nghĩ, lo toan chu đáo mọi việc.

    Bên cạnh những điểm chung, tác giả đã đem đến cho người đọc hình tượng nhân vật Việt những nét vẽ mới lạ, độc đáo. Trước hết, Việt là một đứa trẻ hồn nhiên, ngay thơ có phẩn trẻ con của một chàng trai tuổi mới lớn. Khi còn nhỏ cậu hiếu động, rất hay tranh giành với chị. Lớn lên, tham gia chiến đấu, khoác lên mình bộ quân phục đĩnh đạc nhưng trong tâm hồn cậu vẫn vương lại những nét tính cách trẻ con. Bị thương trong rừng, câu không sợ chết mà sợ con ma cụt đầu – nỗi ảm ảnh tuổi thơ, đã khiến Việt khóc một cách hồn nhiên. Không chỉ vậy, khi ra chiến trường cậu còn giấu nhẹm, không kể về chị cho những đồng đội của mình, vì sợ mất chị. Tất cả những biểu hiện hồn nhiên, vô tư đó đã đem đến một cái nhìn tươi sáng, rât đáng yêu về những anh giải phóng quân trẻ tuổi.

    Cùng là sự gan dạ, ũng cảm nhưng ta nhận thấy sự gan dạ của Việt được hình thành trên cơ sở cá tính mạnh mẽ, bộc trực hơn là thiên về bản lĩnh, kinh nghiệm. Sự mạnh mẽ, dũng cảm ở Việt được thể hiện trong hành động đầy gan dạ, ôm cả bọc pháo lao vào xe tăng địch.

    Đặc biệt với nhân vật này Nguyễn Thi đi sau vào khai hác những suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ông đã khéo léo hòa trộn, đan cài đôi khi là cả những suy nghĩ thoáng qua của Việt về tiếng chim, đôi khi lại là những cảm xúc vô cùng thiêng liêng về má, chú Năm, truyền thống gia đình và đó còn là lòng căm thù giặc sục sôi. Những biến đổi linh hoạt đó đã cho thấy ẩn đằng sau lòng dũng cảm, kiên cường còn là một anh giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên, ngây thơ lại vừa can trường, bản lĩnh, mang trong mình lí tưởng cao đẹp.

    Xây dựng chân dung hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả Nguyễn Thi đã làm nổi bật chân dung của những con người anh hùng trong thời đại mới. Trong họ trong chỉ đơn thuần là yêu căm chiến lạc, mà ở họ còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, khi mơ hồ, tinh tế, khi sắc nét, rõ ràng. Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công khi xây dựng chân dung nhân vật.

   Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thi lại đặt tên cho tác phẩm của mình là “Những đứa con trong gia đình”. Những đứa con ấy chính là Việt và Chiến, từ trong căn huyết mỗi người đã tồn ngự lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu quật cường. Hai con người ấy, làm bừng sáng văn học kháng chiến, mang đến một thanh âm trong trẻo mà cũng đầy nhiệt huyết cho văn học giai đoạn này.

    Đầu tiên là hình ảnh của chị Chiến trong tác phẩm. Chú Năm đã từng nói rằng, chị Chiến giống y như má. Quả thực đúng như vậy, không chỉ giống ở dáng vẻ bề ngoài, mà con giống ở nội tâm, tính cách. Chị mang trong mình dáng vẻ tròn lẳn, chắc nịch của má, của người phụ nữ nông dân Nam Bộ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch”. Ở chị luôn tồn tại một sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Không chỉ là một người con gái khỏe mạnh, mà chị còn giống má ở tính cách đảm đang, tháo vát. Trước khi lên đường nhập ngũ, mọi chuyện đều được chị sắp xếp chu toàn đâu ra đó. Đầu tiên chính là đưa thằng Út sang nhà chú Năm: “Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Giường ván cũng cho xã mượn mở trường học. Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học. Nồi lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm để gửi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới. Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đăng chia cho cô bác khác mầm. hai cô mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm giỗ ba má. Đem bàn thờ sang gửi nhà chú Năm”. Quả thực, chị mới 19 tuổi, cái tuổi vẫn còn “ăn chưa no lo chưa tới” nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, chị sớm trở nên già dặn, đã có thể sắp xếp mọi chuyện chu toàn, gọn ghẽ. Chị chính là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ nông dân Việt Nam. Dù được thừa hưởng ở má rất nhiều nét đẹp khác nhau, nhưng bản thân chị Chiến vẫn mang trong mình những nét riêng biệt, chị mạnh mẽ dũng cảm cầm súng, trực tiếp ra chiến trường để trả nợ nước, thù nhà. Chị sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân đẹp đẽ nhất của bản thân vì sự nghiệp chung của đất nước.

    Nhân vật xuất hiện nhiều nhất, cũng là nhân vật chính trong tác phẩm này chính là Việt, một chàng thanh niên mới lớn. Ở cậu vừa có nét kiên cường, cứng cỏi, nhưng cũng có nét rất trẻ con.

    Hai chị em tranh nhau ra trận, vì muốn được đi mà Việt đã khai khống tuổi mình, cái việc nói dối khiến cậu không khỏi lo lắng, sau khi nói xong còn khẽ liếc chị so sánh “mình đứng đâu có thua chị, tuy tóc chị có cao hơn mình một chút thật”.Rồi đến lúc hành vi của mình bị chị vạch trần Việt vẫn mang quyết tâm được đi. Sau khi được chú Năm xin, “giải quyết” Việt vô cùng sung sướng khi được thỏa mãn mong muốn của bản thân. Cậu còn quay sang trách chứ “chị biết vậy sao hồi nãy chị ngăn tôi? Người ta mười tám tuổi rồi mà nói chưa…”. Trong giọng nói vẫn thập phần ấm ức. Bởi với đứa trẻ là cậu khi chị là chị, đã nhường thì chắc chắn sẽ phải nhường nhịn cậu trong mọi việc. Nhưng cậu nào đâu có hiểu cho những lo lắng của chị Chiến. Chỉ vì sợ cậu cực khổ nên mới muốn để cậu ở nhà.

    Nét ngây thơ của Việt còn thể hiện trong hành động hết sức ngây thơ của cậu. Việt giấu chị Chiến như là của riêng mình. Không nói cho những anh em đồng chí khác, sợ sẽ mất chị. Trong lúc bị thương nằm một mình ở rừng, Việt : “phải chi có chị Chiến ở đây, chị sẽ bắn thế cho Việt. Chỗ này gác súng thiệt tốt, ngay dưới gốc bông trang, chị cứ đưa Việt giữ giùm cái kiếng trong túi, ngồi hẳn xống,nhằm thẳng ngực nó mà nổ súng”. Những suy nghĩ đó của Việt vừa ngây thơ, non nớt những cũng rất đỗi cảm động trước tình cảm Việt giành cho chị.

    Nhưng đằng sau đó lại là một chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm. Trong một lần đọ lê, Việt leo lên được chiếc xe bọc thép của giặc đang tháo chạy, Việt dùng thủ pháp tiêu diệt được nó. Nhưng bản thân cậu lại bị thương mà ngất đi, cậu bị lạc đồng đội, một mình nằm trong rừng, tình huống vô cùng nguy hiểm. Cái chết đang bủa vây lấy Việt, hơn nữa trên trời tiếng trực thăng đang bay phạch phạch, dưới đất thì xe bọc thép và pháo mỗi lúc một gần hơn. Sự sống của Việt đang ngàn cân treo sợi tóc. Việt tự nhận thức “chúng đến để giết mình đây” nhưng chính trong lúc đó cậu cũng lại tự hỏi: “chết là gì nhỉ?” và tự trả lời: “chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết tức là gười thật từ biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm tại đó?”. Nhưng những ý nghĩ đó được thay thế bằng ý chí, quyết tâm của một chàng lính trẻ: “Được,Việt cứ nằm đây! Tao sẽ chời mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Khi tinh thần đã được lên dây cót, Việt luôn trong tư thế sẵn sàng, ngón tay luôn đặt vào súng, chỉ cần bất cứ động tĩnh gì cậu cũng sẽ sẵn sàng chiến đấu. Tuy hi vọng là mong manh nhưng cũng có thể thấy tinh thần ham sống, và lòng dũng cảm của Việt.

    Việt và Chiến đều là những đứa con có tình yêu thương cha mẹ và lòng căm thù giặc sâu sắc. Lòng căm thù giặc ấy cũng xuất phát từ chính tình yêu thương gia đình, muốn báo thù cho cha mẹ. Không chỉ vậy họ còn là những chiến sĩ hết sức kiên cường, dũng cảm. Trên trận tuyết họ không hề lo lắng, run sợ, đem hết sức kiên cường của bản thân chiến đấu đến cùng với giặc. Mặc dù có nhiều điểm chung nhưng hai nhân vật này vẫn có những nét riêng biệt. Chị Chiến chin chắn, trưởng thành, thiên tính nữ trong chị thể hiện rất rõ. Chị là người pụ nữ đảm đang tháo vát, già dặn trước tuổi. Còn Việt lại là cậu chàng mới lớn còn nhiều ngay thơ, bồng bột, hiếu thắng, nhưng cũng hết sức dũng cảm.

    Việt và Chiến là hai nhân vật trung tâm trong tác phẩm, được Nguyễn Thi kì công xây dựng. Ở họ vừa có nguồn lạch chung những đồng thời lại có những điểm khu biệt, khiến người đọc không thể nhầm lẫn. Việt và Chiến là hai đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam cầm sung kháng chiến, cứu nước.

    Truyện “Những đứa con trong gia đình” là sáng tác xuất sắc của Nguyễn Thi trong thời chống Mĩ nói về Chiển và Việt là hai chị em ruột, lại là hai chiến sĩ Giải phóng quân cùng ra trận trong một ngày. Với lối kể chuyện đậm đà màu sắc dân gian, vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ vào miêu tả và biểu cảm, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật điển hình – tất cả tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của áng văn xuôi này.

    Chiến và Việt có nhiều điểm giống nhau. Là con em của một gia đình cách mạng, giàu truyền thống anh hùng. Ông bà, ba má đều bị giặc sát hại. Mối thù chất chứa và đè nặng trong lòng có bao giờ nguôi? Hai chị em cùng một ước nguyện nung nấu được lên đường đánh giặc, trả thù cho ông bà, ba má, cho quê hương.

    Tình thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em. Nguyễn Thi đã gây xúc động cho người đọc trước cảnh hai chị em Chiến và Việt tranh nhau ghi tên tòng quân, và sáng hôm sau, trước lúc lên đường cùng ghé vai khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm. Đây là đoạn văn hay nhất, cảm động nhất của thiên truyện: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”…

    Gia đình Tư Năng là một gia đình có truyền thống bất khuất. Ba má gan góc nên bầy con cũng gan góc. Má đi trước bầy con đi sau, chị Hai, Chiến và Việt bám sát lũ giặc mà la: “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, Giặc bắn cũng không sợ! Cho đến lúc lấy lại được đầu ba rồi, Việt “cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Gan góc như thế nên Việt và Chiến đã cùng ba má và quê hương kiên cường đánh giặc. Cả hai chị em đều chiến đấu dũng cảm và lập được nhiều chiến công. Chị Chiến đã đánh tàu giặc trên sóng Định Thuỷ bắn chết một thằng Mĩ, còn Việt thì phá được một xe tăng Mĩ trong một trận đánh ác liệt giữa rừng cao su.

    Quê hương mấy chục năm trời đầy bóng giặc, tang tóc đau thương trùm lên mọi gia đình. Thù nhà, nợ nước chất cao. Cha mẹ đều là dũng sĩ nên hai chị em dường như sinh ra để mà đánh giặc. Đánh giặc để trả thù cho ba má, cho gia đình và quê hương, đất nước. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em Việt và Chiến, của tuổi trẻ miền Nam: “Hạnh phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù”. Chiến đã nói với em trong đêm thu xếp việc nhà trước lúc ra trận: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi là tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Câu nói mộc mạc ấy, giản dị ấy vang lên thiêng liêng như một lời thề! Nó chẳng khác nào câu nói của chị út Tịch – người mẹ cầm súng: “Còn cái lai quần cũng đánh!”. Nó giống như quyết tâm đánh giặc của hàng triệu thanh niên ta hồi ấy: “Ra đi chỉ một lời thề – Chưa giết hết giặc, chưa về quê hương”.

    Chiến và Việt ở độ tuổi 17, 18 bắt đầu trưởng thành. Có lúc hai chị em còn giành nhau bắt ếch, ai được nhiều hay được ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc trên sông Định Thủy và giành nhau ghi tên tòng quân. Cái hồn nhiên, ngây thơ vẫn còn in đậm trong mỗi nhân vật nhưng nhận thức về thù nhà nợ nước, về nghĩa vụ đánh giặc để giải phóng miền Nam lại vô cùng sâu sắc.

    Việt và Chiến có những nét chung về tính cách và có những khía cạnh riêng về cá tính. Cái tài của Nguyễn Thi là tạo cho mỗi người một vẻ. Sự khác biệt giữa Chiến và Việt xét cho cùng vì một người là chị, một người là em và khác nhau về giới tính. Chú Năm nhận xét: “Việt là một thằng nhỏ gan, chị Chiến là đứa con gái không khác mẹ một chút nào”. Chiến giống mẹ ở tính gan góc, tần tảo, tháo vát, đã nói là làm, biết lo toan thu xếp việc nhà đâu vào đấy. Nấu cơm cúng má, gửi đồ đoàn nhà cửa, trao lại chi bộ năm công ruộng, gửi bàn thờ má, thu xếp cho đứa em út ăn ở học hành, từ việc nhỏ đến việc lớn, Chiến đều bàn với em và chú, đã thu xếp chu đáo tất cả mọi việc trước lúc lên đường đi đánh giặc. Là chị lớn, sau khi mẹ mất, Chiến sớm phải làm chủ gia đình nên cô khôn ngoan và già dặn trước tuổi. Nghe Chiến trình bày việc nhà, chú Năm phải buột miệng khen: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bay kỳ đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”.

    Là chị, Chiến rất thương em, hầu như trong mọi chuyện tranh giành, cuối cùng chị đều nhường nhịn. Khi ghi tên tòng quân, Chiến nhất định không chịu nhường vì ngoài niềm khát khao đánh giặc, còn có lòng thương em của người chị. Chiến chưa muốn em phải xông pha bom đạn hiểm nguy vội, vì em còn nhỏ “thủng thẳng để chú Năm thu xếp rồi hãy đi…”.

    Hai chị em đều là con nhà nghèo, mồ côi. Chiến tranh kéo dài nên cả hai chị em đều thất học, đang bập bẹ tập đánh vần, tập viết. Chiến kiên nhẫn hơn Việt trong việc học hành. Có lúc em còn bỏ bê về nhà ăn cơm hay đi chơi, còn chị thì cứ ngồi ở một góc ván, tập đánh vần hoài “từ trưa tới xế, rồi từ xế tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vạng”.

    Việt là em, lại là trai nên hiếu thắng, hay tranh giành với chị. Việc nhà phó mặc cả cho chị. Nghe chị bàn, Việt cứ ừ ào cho qua, vừa nghe vừa đưa tay chụp con đom đóm rồi ngủ gục lúc nào không biết. Thích đi đánh giặc, dũng cảm trong chiến trận, lạc đơn vị ba ngày đêm, mình đầy thương tích, lúc nào nòng súng lên đạn vẫn hướng về phía giặc, thế mà khi bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao phủ chiến trường, Việt lại sợ ma: “con ma cụt đầu” … “thằng chỏng thụt lưỡi”, vừa chợt nhớ tới, đã làm cho cậu ta “nằm thở dốc”. Trong thơ của Trần Đăng Khoa có một hình ảnh rất hay về chú bộ đội thời đánh Mĩ:

    “Cháu nghe chú đánh, những đâu

    Những tàu chiến cháy, những tay bay rơi.

    Đến đây chỉ thấy chú cười

    Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi”…(Gửi theo các chú bộ đội)

    Ở đây, Việt cũng vậy, khi đã trở thành một Giải phóng quân nhưng trong hành trang của cậu ta vẫn có chiếc ná thun nằm gọn trong túi áo như hồi còn ở nhà… Trong câu hò chú Năm, Việt khi thì biến thành tấm áo vá quàng, hoặc con sông dài cá lượn, lúc thì biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười. Phải rồi,Việt là hình ảnh quê hương, Việt là hình ảnh củ nhân dân anh hùng.

    Tóm lại, hai chị em Chiến và Việt là “con nòi” gốc gác nông dân, tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có cá tính khác nhau, chị và em mỗi người một bản sắc, Cả hai chị em đều đáng yêu. Nguyễn Thi đã tạo dựng nên tính cách điển hình sống động: Chiến và Việt tiêu biểu cho khí phách anh hùng của tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ. Trong một chừng mực nhất định, bức chân dung hai chị em đều được cá thể hoá cao độ, tạo nên ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Thời đánh Mĩ: “Ra đến ngõ, gặp anh hùng”. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi giúp ta cảm nhận được điều đó.

    Chú Năm có nói: “…Con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng con cũng ra từ đó!… Phải rồi, lòng tốt của chị em Chiến, Việt sinh ra từ dòng sông và mảnh đất quê hương.

    Tiền tuyến thời đánh Mĩ đã gọi hai chị cm Việt và Chiến lên đường. Sau khi chồng bị giặc giết, má Tư Năng nói: “Để má ráng nuôi bay lớn coi bay có làm được gì cho cha mày vui không?”. Má đã trông ngày trông đem cho con mau lớn. Chị em Chiến và Việt ra trận dể bảo vệ quê hương và cũng là để làm trọn lời nguyền của má. Chiến và Việt khác nào hai giọt nước trên dòng cửu Long Giang cuộn sóng của đất trời phương Nam.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Đình Thi

Bài làm

   Chiến tranh đã lùi xa thế nhưng trong mỗi người Việt Nam chúng ta dường như không thể quên được những năm tháng hào hùng của cuộc khánh chiến chống Mĩ ác liệt ấy. Nhiều người đã nằm xuống để cho đất nước dân tộc chúng ta được yên bình tươi đẹp như hôm nay, đã có vô số những tác phẩm hay và nổi tiếng của nhiều nhà văn,nhà thơ viết về đề tài chống Mĩ cứu nước ra đời và in sâu trong lòng độc giả, cũng như nhiều người việt nam. Trong số những nhà văn ấy chúng ta không thể không nhắc đến “nhà văn của người nông dân Nam bộ”- Nguyễn thi, một cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền nam những năm chống mĩ.

   Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” là một trong những sáng tác xuất sắc của Nguyễn Thi ra đời vào 2/1966 khi nguyễn thi đang công tác ở tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Truyện ngợi ca lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc cũng như lòng chung thủy với cách mạng của nhân dân nam bộ thời kì chống Mĩ lúc bấy giờ. Nhà văn đã xây dựng thành thành công những hình tượng nhân vật một cách chân thật, sống động, có những nét chung thống nhất lại vừa có những nét tính cách độc đáo, riêng biệt khiến chúng ta khó quên được. Nổi trội hơn cả đấy là Việt, một nhân vật được tác giả ưu ái, dành nhiều tình cảm khi anh xuất hiện và được nhắc đến nhiều nhất trong tác phẩm.

   Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Trong anh hội tụ những phẩm chất, tính cách cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp đáng quý của nhân dân miền nam trong thời kì đánh mĩ. Mang mối thù sâu nặng với Mĩ-ngụy: ông nội và bố Việt điều bị giặc giết hại, mẹ Việt vừa phải vất vả nuooit con vừa phải đương đầu với bọn giặc và cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, Chị Chiến, Chú năm, thằng út em và người chị nuôi lấy chồng xa. Việt và chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc, vì nhỏ tuổi đồng đội hay gọi thân thiết là “cậu tư”. Anh rất gắn bó với đơn vị đặc biệt là tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở Việt luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, tiêu diệt địch quyết lập được nhiều chiến công như chị chiến để trả thù cho ba má.

   Được tác giả kể lại trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt khi Việt đang chiến đấu ác liệt trong khi rừng cao su, anh đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, mỗi lần ngất đi tỉnh lại những dòng hồi ức về những kỉ niệm thân thiết đã que của anh về chị chiến, về má, chú năm….lại ùa về. Ngoài ra những ấn tượng khó quên của chúng ta về nhân vật việt đó là tính cách của anh.

   Là một cậu bé mới lớn tính tình còn “Trẻ con”, vô tư, ngây thơ có phần nghịch ngợm ta có thể dễ dàng nhận thấy được những điều này qua những dòng hồi tưởng đứt quãng của việt. Như việc anh hay giành với chị chiến chuyện bắn tàu giặc Mĩ trên sông Định thủy hay kể cả việc tưởng như nhỏ nhặt là tranh công bắt ếch với chị. Ngoài ra lúc chị Chiến không cho Việt đi bộ đội anh đã bộc lộ hành động rất “trẻ con” của mình đó là “đá trái dừa rụng xuống mương cái đùng”. Ngay cả khi đang bị thương ở khu rừng cao su nghĩ đến việt đối mặt với những tên giặc dường như không làm Việt cảm thấy sợ hãi mà điều trái ngược khi anh nhớ lại những câu chuyện của các chị kể lúc ở nhà về “Con ma cụt đầu” ngồi trên cây xoài lại khiến anh lạnh gáy, sợ hãi đến nỗi thở dốc. Tính tình “trẻ con”, vô tư ấy còn được thể hiện trong đêm sắp xa nhà đi bộ đội, trong khi chị chiến phải lo toan, phải sắp xếp việc nhà ổn thỏa còn Việt thì cứ “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, rồi thì nghịch nghợm “Chụp con đom đóm úp trong lòng bàn tay” rồi “ngủ quên lúc nào không hay”. Cả cách thương chị của Việt cũng thật trẻ con làm sao khi anh “Giấu chị như giấu của riêng” khi bị anh tánh và đồng đội chọc gẹo. Và nổi bật cho cái tính cách trẻ con ấy dường như là lúc nằm lại chiến trường anh tỏ ra rất kiên cường, không hề sợ hãi vậy mà đến khi gặp lại đồng đội thì lại òa khóc một cách ngon lành “Khóc đó rồi lại cười đó”. Nguyễn thi đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Việt, một tính cách rất đỗi đời thường, đáng yêu, dễ mến lại vô cùng sinh động mà không hề bị gượng ép. Đó dường như đã trở thành dấu ấn khó quên trong lòng độc giả về nhân vật này.

   Không dừng lại ở đấy Việt thật sự là một người chiến sĩ, người anh hùng hội tụ đủ các phẩm chất của một người lính với tính cách gan dạ, kiên cường, bản lĩnh không sợ hãi, khuất phục trước khó khăn. Lúc nhỏ Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc “Luyện đầu ba” mà đá. Lớn lên dù vẫn chưa đủ tuổi nhưng việt vẫn quyết chí đi bộ đội cầm súng giết giặc trả thù cho Ba Má. Đi bộ đội được 2 năm, chiến đấu dũng cảm anh đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch lập lên chiến công mặc dù sao đó anh bị thương nặng ở hai mắt và ngất đi, chính điều này càng làm cho người đọc chúng ta thêm khâm phục trước sự gan dạ, dũng cảm của việt. Chi tiết khi anh bị lạc đơn vị, bị thương nhưng anh vẫn bình tĩnh, kiên cường và luôn ở tư thế chiến đấu “đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵng sàng nổ súng” khi phát hiện tên giặc nào tiến đến.Đặc biệt chi tiết chị chiến và Việt khiên bàn thờ ba má sang gởi bên nhà chú năm để ngày mai lên đường nhập ngũ. Khẳng định sự trưởng thành trong con người Việt qua cảm giác “Mối thù giặc Mĩ đang đè nặng trên vai” chứng tỏ Việt đã sẵng sàng và xứng đáng viết tiếp tên mình vào dòng sông truyền thống cách mạng của gia đình mình.

   Cuối cùng ngoài những tính cách nổi bật bên ngoài không thể không nhắc đến tâm hồn Việt, một con người giàu tình yêu thương và gắn bó với gia đình sâu sắc. Khi việt bị trọng thương và ngất đi tỉnh lại đến tận 4 lần. Mỗi lần như thế lần lượt những dòng hồi tưởng của anh về gia đình, đồng đội, những người thân yêu của mình trong anh lại ùa về. Những dòng hồi ức đẹp đẽ, hạnh phúc ấy có lẽ nào là sợi dây tình cảm chắc chắn đang cố gắng giành lấy Việt khỏi cái lằn ranh mong manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường ấy. Trong những hồi ức ấy Việt nhớ lại hình ảnh của má hiện lên nơi chị chiến và hình như anh có cảm giác má về đâu đây, về để dõi theo 2 đứa con của mình giờ đã trưởng thành để mà ngày mai lên đường đánh giặc, chống mĩ cứu nước và mặc dù đang bị thương nằm ở nơi chiến trường nhưng Việt luôn mong muốn gặp được má, rồi hình ảnh má bơi xuồng, xoa đầu Việt…dường như đó chính là sức mạnh của tình mẫu tử, sức mạnh để anh vượt qua được khó khăn, thử thách lúc ấy, và có lẽ đó cũng là phần tươi đẹp sâu thẩm, thiêng liêng nơi tâm hồn Việt. Chúng ta còn bắt gặp cả những dòng hồi ức về chú năm với những câu hò, lời dặn dò trước khi Việt, Chiến ra đi, về cuốn sổ gia đình. Có lẽ chính tất cả những kỉ niệm ấy đã giúp cho việt chiến thắng được cái chết và tìm lại được những người đồng đội của mình.

   “Những đứa con trong gia đình” với hình tượng nhân vật được Nguyễn thi khắc họa một cách chân thật, tài tình và mang đậm tính sử thi trãi dài trong suốt truyện. Tiêu biểu nhất đó là hình tượng nhân vật Việt cũng chính là phẩm chất, tính cách đáng quý của người nông dân Nam bộ lúc bấy giờ. Ngoài ra trong truyện Nguyễn Thi còn nêu lên quan niệm rằng “Chuyện gia đình thì cũng dài như sông, mỗi gia đình phải ghi vào một khúc” dường như trong “Những đứa con trong gia đình” Việt, chị chiến dường như đã ghi một phần của mình vào khúc sông ấy, dòng sông truyền thống của gia đình mình.

   Nguyễn Thi đã thành công trong việc xây dựng tính cách, tâm hồn mình và khắc họa hình tượng nhân vật một cách chân thật,sinh động mà không hề gượng ép. Nhữngđặc sắc về nghệ thuật trần thuật qua những dòng hồi tưởng của nhân vật, khắc họa tính cách và miêu tả tâm tí sắc sảo, có lẽ không sai khi người ta đặt cho ông danh hiệu “nhà văn của người nông dân nam bộ” với ngôn ngữ phong phú và đậm chất riêng của người Nam Bộ. Nhà văn đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc khó quên về nhân vật việt và qua nhân vật ấy nhà văn muốn khảng định rằng chính truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người, của dân tộc VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Cũng Đã gần 5 thập kỉ trôi qua nhưng dường như “Những đứa con trong gia đình” vẫn tồn tại 1 chỗ đứng nhất định trong lòng đọc giả không thể nào phai mờ. Đồng thời cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải góp một phần xứng đáng của mình vào khúc sông của dân tộc, của đất nước Việt Nam ta.

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và chỉ ra những nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi

Bài làm

    Nguyễn Thi là nhà văn Quân đội đã anh dũng hi sinh tại mặt trận Sài Gòn năm 1968. “Truyện và kí” xuất bản 1978 là tuyển tập của Nguyễn Thi, trong đó có truyện “Những đứa con trong gia đình” được ông viết vào tháng 2 nãm 1966. Bên cạnh những nhân vật như má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, còn có nhân vật Việt được tác giả xây dựng khá thành công, tiêu biểu cho một đứa con tốt đẹp của gia đình, một chiến sĩ quả cảm, anh hùng của quê hương. Tác phẩm này đã cho thấy một số nét đặc sắc về nghẹ thuật viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thi.

    Việt là một chàng trai có tâm hồn trong sáng và hồn nhiên yêu đời. Hai gò má thì “căng mướt” như da trái vú sữa. Nụ cười thì “lỏn lẻn”. Việt là em ruột của chị Chiến, là con trai thứ hai của má Tư Năng. Chiếc ná thun bằng nạng ổi “láng o” đã gắn bó với tâm hồn Việt. Thuở nhỏ, Việt để đầu trần, lội tắt trong vườn, xách ná thun đi bắn chim. Lớn lên đi làm, cái ná thun lại giắt gọn sau lưng quần. Lúc trở thành một chiến sĩ Giải phóng quân, cầm súng tự động, đánh Mĩ bằng lô, thì cái ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo của Việt. Chiếc ná thun là kỉ vật tuổi thơ, là một phần đời thân thiết của chú. Việt đã dùng nó đi gác, bắn “chóc… bịch!” báo tin cho các cô, các chú cán bộ ở trong nhà xuống hầm bí mật khi bọn lính giặc kéo tới.

    Việt là một chú bé “hiếu thắng” hay tranh giành với chị Chiến. Từ chuyện bắt ếch, chuyện bắn tàu chiến Mĩ trên sông Định Thủy đến chuyện ghi tên tòng quân, Việt đều tranh giành với chị. Vốn được má cưng chiều, biết chị hay nhường nhịn, nên chú mới hay tranh giành như thế. Đó là một nét tâm lí dễ thương của tuổi thơ hồn nhiên.

    Việt quý mến tin cậy đồng đội biết bao, nhất là anh Tánh, anh Công… nhưng Việt không cho ai biết là chú có chị gái tên là Quyết Chiến, tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân Bến Tre. Việt giấu chị như giấu của riêng vậy, vì cậu ta “sợ mất chị mà”. Khi Việt đã có hai tuổi quân, đã từng trải qua những trận đánh dữ dội, những cuộc đọ lê ác liệt với giặc Mĩ, chú ta không sợ giặc, không sợ chết mà lại sợ ma. Bị lạc đơn vị, bị thương nằm một mình giữa chiến trường, chú “nằm thở dốc” khi chợt nhớ tới con ma cụt đầu, thằng chỏng thụt lưỡi mà các chị vẫn kể hồi ở nhà…

    Cái đêm trước lúc hai chị em ra trận, chị Chiến bàn với cậu em trai thu xếp việc gia đình. Việt phó thác hết mọi chuyện cho chị gái, chỉ ậm ừ cho xong chuyên, “rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Thật là vô tư và hồn nhiên.

    Việt là một con người có một trái tim giàu tình yêu thương. Bị thương nặng, nằm giữa chiến trường, Việt ngất đi mê man rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê đến ba bốn lần. Chú nhớ má, nhớ câu chuyện của má thời con gái, nhớ đôi mắt “sắc ánh lên” của má khi má đứng trước mũi súng quân giặc, nhớ kỉ niệm đau thương mấy chị em theo má lên tới quận đòi “trả đầu ba”. Việt nhớ “cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng” của má lúc chèo xuồng, nhớ tiếng gọi đầy yêu thương của má: “Việt à, ra phụ má nghe con!”. Có nhiều đêm má đi làm thuê đến canh hai mới về, Việt tỉnh giấc “ngửi thấy mùi gạo và mùi mồ hôi của má ngay trên đầu mình”. Sau ngày má mất, nhất là đêm cuối cùng trước lúc đi bộ đội, đom đóm từ ngoài rặng bần kéo vào đầy nhà, Việt cảm thấy “má cũng đã về đâu đây”… Việt cùng chị Chiến khiêng bàn thờ má gửi sang nhà chú Năm, Việt đã hứa với linh hồn má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập, con lại đưa má về”. Nghe tiếng chân bình bịch của chị Chiến, Việt “thấy thương chị lạ”. Lần đầu tiên, Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Việt càng yêu thương gia đình sâu nặng bao nhiêu thì chú càng căm thù quân giặc bấy nhiêu, đúng là “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” !

    Thương má, thương chị, Việt nhớ và thương chú Năm vô cùng. Việt nhớ cuốn sổ của chú Năm ghi mọi chuyện “thỏn mỏn” của gia đình, nhớ chú Năm hay bênh Việt, nhớ giọng hò tức và đục như gà gáy của chú. Ọuên sao được câu hò của chú khi chị em Việt khiêng bàn thờ má đi gửi, tiếng hò “cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội”.

    Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân rất quả cảm, anh hùng. Chú ra trận mang theo sức mạnh truyền thống cách mạng của gia đình, sức mạnh của tình thương ba má…, sức mạnh của lòng căm thù quân xâm lược giày xéo quê hương.

    Lúc còn sống, má đã từng nói với Việt: “Để má ráng nuôi bay lớn, coi bây có làm được gì cho cha mày vui không?”. Ý nghĩ “đi trả thù” thôi thúc Việt suốt đêm ngày. Chưa đủ 18 tuổi vẫn xung phong ghi tên tòng quân. Mới được 2 tuổi quân, Việt đã lập chiến công dùng thủ pháo tiêu diệt một xe bọc thép của giặc Mĩ. Bị trọng thương, khắp người “đau điếng, rỉ máu”, đôi mắt sưng lên không nhìn thấy gì hết, mười ngón tay chỉ còn một ngón cái cử động được. Bị lạc đơn vị, đói, khát đã hai ba ngày đêm. Thế nhưng, ba viên đạn còn dưới hộp, một viên đã lên nòng, Việt vẫn day họng súng về phía giặc khi nghe hơi xe bọc thép chạy mỗi lúc một gần. Việt quyết đánh đến viên đạn cuối cùng, đánh đến giọt máu cuối cùng: “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không thấy đơn độc, anh tin rằng: “Nghe tiếng súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày!”.

    Gặp lại anh Tánh và đồng đội sau 3 ngày đêm bị trọng thương, bị lạc đơn vị một mình nằm giữa chiến trường, tuy đã bị kiệt sức, nhưng Việt vẫn giữ vững tư thế sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với quân thù, “ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu xe bọc thép hằn ngang dọc”. Câu hỏi đầu tiên của Việt là câu hỏi về tin chiến sự. Và Việt đã cười khi nghe anh Tánh báo tin “diệt hết rồi, trận đánh xong rồi, xong rồi…”. Tư thế ấy, nụ cười ấy là những biểu hiện tuyệt đẹp tính cách anh hùng của đứa con trai má Tư Năng.

    Cũng như chị Chiến, Việt là một đứa con đã nêu cao truyền thống gia đình, đi tiếp con đường cách mạng của ba má, “một lòng theo Đảng”, hăm hở ra trận với quyết tâm “đi trả thù mà không sợ dài lâu” (Nguyễn Khoa Điềm). Chú Năm dã tự hào nói: “Việt là một thằng nhỏ gan”. Việt đã trở thành câu hò, là hiện thân câu hò của chú Năm: “theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”. Việt là niềm tự hào và hi vọng của gia đình, là hình bóng thân thiết của quê hương. Nhân vật Việt tiêu biểu cho tình yêu gia đình, quê hương đất nước, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí phách anh hùng của những chàng trai vùng đồng bằng sông Cửu Long thời đánh Mĩ. Nhân vật Việt là một thành công của Nguyễn Thi về nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả tính cách anh hùng.

    Truyện ” Những đứa con trong gia đình” đã thể hiện tập trung nhất nét đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Thi về kể chuyện, về xây dựng nhân vật, về sử dụng ngôn ngữ.

    Truyện được kể theo hồi ức của Việt. Mở đầu truyện, Việt nằm trong bệnh viện dã chiến. Tiếp theo nói về trận đánh lớn giữa đồn điền cao su. Việt lập chiến công to và bị thương nặng, bị lạc đơn vị. Mê rồi tỉnh, tỉnh rồi mê… Việt nhớ lại tuổi thơ, nhớ lại những kỉ niêm về má, về chú, về chị, về đêm ghi tên tòng quân, chuyện gửi bàn thờ má… Cấu trúc truyện rất hiện đại, tạo nên sự đồng hiện về thời gian, không gian (hiện tại, quá khứ, hôm nay và hôm qua, bệnh viện, chiến trường và quê hương), đồng hiện về sự việc, nhân vật, tâm trạng. Mọi tình tiết đan xen, thế mà không rối vẫn hấp dẫn, mạch lạc, chân thực, đó là tài kể chuyên của Nguyễn Thi.

    Đặc sắc thứ hai về nghệ thuật là xây dựng tính cách nhân vật. Má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt đều có những nét chung như hồn nhiên, yêu đời, bộc trực, căm thù ngùn ngụt, gan góc, dũng mãnh, yêu nước, yêu gia đình quê hương, sẵn sàng hi sinh vì đại nghĩa, v.v… Nhưng mỗi nhân vật lại có những nét riêng, cá tính riêng. Cuốn sổ tay và giọng hò của chú Năm. Cái nhìn “sắc ánh lên” và câu trả lời: “Vợ Tư Năng đây!”, với cái tư thế hiên ngang của má Việt đứng trước mũi súng giặc. Cái bịt miệng cười, cử chỉ hứ một cái “cóc”, đôi chân đi “bịch bịch” của Chiến. Cái ná thun, cái nụ cười “lỏn lẻn” của Việt, v.v… Đó là những chi tiết nghệ thuật rất cụ thể đã cá thể hóa nhân vật khi khắc hoạ tính cách nhân vật.

    Một thành công nữa của Nguyễn Thi là đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ bà con nông dân Nam Bộ trong miêu tả cảnh vật và kể chuyện. Những từ ngữ: trọng trọng, tía, việc thỏn mỏn, kiếng, ná thun, tèm lem, rê thuốc… đã tạo nôn màu sắc và không khí Nam Bộ, đem đến nhiều nhã thú văn chương cho độc giả trên miền Bắc. Ngôn ngữ nhân vật, mộc mạc đậm đà, thể hiện cá tính và tâm lí nhân vật một cách rõ nét. Đây là một câu nói của chú Năm với anh cán bộ Huyện đội trong đêm hội tòng quân: “Tôi xin có một câu nói với đồng chí Huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong”.

    Tóm lại, đọc truyện “Những đứa con trong gia đình” nhân vật Việt, một chiến sĩ anh hùng để lại cho ta nhiều yêu mến. Nguyễn Thi là một cây bút giàu bản sắc, ông xứng đáng được tôn vinh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời đánh Mĩ.

Đề bài: Cảm nhận về tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

Bài làm

   Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống mỹ. Ông được coi là nhà văn của nông dân Nam Bộ vì thế người trung tâm trở thành hình tượng trung tâm trong các sáng tác của ông. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một truyện ngắn đặc sắc nhất của ông. Với bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn Nguyễn Thi đã mang đến hiện thực chiến tranh và không khí đấu tranh kiên cường bất khuất sục sôi của nhân dân Nam Bộ lúc bấy giờ.

   Truyện được kể theo điểm nhìn của nhân vật Việt. Anh là một người chiến sĩ dũng cảm anh dũng đã bắn được một xe tăng bọc thép của địch. tuy nhiên anh bị thương cho nên phải nằm lại trong rừng. Trong những lần ngất đi tỉnh lại Việt nhớ về những kỉ niệm đã qua. Khi ấy anh còn là một đứa trẻ hay cả khi mười tám tuổi. Việt ngất đi tỉnh lại bốn lần, mỗi một lần tỉnh là một kỉ niệm trở về trong tâm trí anh. Trong đoạn trích này là lần tỉnh lại thứ tư của Việt. Anh nhớ về kỉ niệm gia đình, về những mất mát và những chiến công của gia đình anh. Đặc biệt là kỉ niệm hai chị em Chiến và Việt tranh nhau đi tòng quân xung lính. Có thể nói qua điểm nhìn của Việt chúng ta thấy được một cách rõ nét nhất cảm xúc và lòng yêu quê hương gia đình đất nước của những thanh niên miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nói cách khác anh là đại diện cho toàn thế hệ trẻ miền Nam. Gia đình của anh đại diện cho những gia đình miền Nam yêu nước kiên cường.

   Trước hết về gia đình của Việt thì gia đình anh có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Trong kháng chiến chống Mỹ gia đình Việt đã phải trải qua biết bao nhiêu đau thương và nước mắt. Đồng thời gia đình anh cũng lập nên những chiến công cho quê hương đất nước mình. Ba Việt làm du kích, ngày đêm chiến đấu chống bọn xâm lược. Thế nhưng trong một lần ba Việt bị địch bắt và ông đã bị chúng chặt đầu. Nỗi đau ấy làm sao có thể chịu được. Còn ông bà của Việt thì cũng phải chịu những dày vò đánh đập của bọn tay sai và quan phủ. Bấy nhiêu đau thương từng thành viên trong gia đình Việt khắc cốt ghi tâm. Không những thế má Việt tuy chỉ là một người phụ nữ chân yếu tay mềm cũng không chịu khuất phục trước sự tàn ác của bọn giặc.

   Bà mẹ miền Nam ấy dám đi thẳng đến chỗ chồng mình bị chặt đầu mà đòi xác chồng. Người mẹ ấy không chỉ đảm việc nhà mà còn lo được việc nước. Bà có con mắt nhìn bốn phía đôi chân thì tìm đường. Má Việt theo du kịch và cũng lập những chiến công lẫy lừng. Những thế hệ cha ông đi qua còn lại thế hệ trẻ là chị em Chiến và Việt. Những đứa con trong gia đình này lại vươn xa hơn cả bố mẹ mình. Ngay từ nhỏ hai chị em đã lập được chiến công bắn chết tên giăc trên sông Định Thủy và lớn lên hai chị em tiếp tục tòng quân. Biết bao nhiêu đau thương và chiến công đều được chú Năm người gìn giữ cuốn sổ gia đình ghi chép lại một cách cẩn thận để mai này nhắc nhở con cháu về mối thù cha ông. Nếu thể coi gia đình Việt là một con sông lớn thì khúc sông của chị em Chiến và Việt là khúc sông chảy xa nhất. Trong kháng chiến ác liệt ấy mọi con sông đều chảy về biển cả, con sông nhà Việt cũng vậy.

   Việt một anh chiến sĩ bị thương trong rừng, ban đầu Việt nhớ lại những kỉ niệm về má. Hình ảnh má hiện về với rất đỗi thân thương, má xoa đầu anh, má lấy xoong cơm xuống dưới xuồng cho Việt ăn. Má đánh thức Việt dậy. Kỉ niệm ấy cho thấy Việt đang rất nhớ má. Tuổi thơ gắn liền với sông nước của Việt khiến cho Việt thấy yêu và thương má vô cùng.

   Không những thế trong không gian bao la mệnh mông mà vô cùng vắng lặng ấy Việt bỗng thấy lòng mình trở nên bé lại. Việt nhớ đến anh Tánh, rồi muốn nũng nịu anh như thằng em út thường nũng nịu chị Chiến vậy. Bỗng nhiên Việt thấy cảm giác sợ khi hình ảnh con ma cụt đầu và thằng chỏng cụt lưỡi mà chị vẫn thường hay kể khi còn ở nhà. Đây chính là nét tươi vui mà hồn nhiên của chàng chiến sĩ trẻ tuổi. thế rồi anh nghe thấy đạn rơi bom nổ dữ dội. Việt ngẫm đây chắc chắn là súng của quân ta rồi. Anh vươn dậy đi về phía sự sống, phía của đồng đội anh đang chờ.

   Có thể nói trong hoàn cảnh cái chết cận kề và không gian mênh moogn rợn ngợp như thế Việt vẫn có thể bình tĩnh nghe theo tiếng goi của trái tim mình. Anh vẫn nằm đó không nhuc nhích được nhưng anh đang gắng gượng để đi về phía sự sống.

   Sau đó Việt kể hay chính là hồi tưởng về việc anh và chị Chiến tranh nhau đi lính. Chị Chiến là người chị gái có khuôn mặt và hình dáng rất giống mẹ. Chị luôn nhường nhịn Việt, cho Việt dành phần hơn trong các chiến công lập được. Còn Việt thì lại hồn nhiên vô tư không nghĩ ngợi. Chiến thương em cho nên không muốn việt sớm phải chịu cảnh gian nan của chiến trường. hai chị em không ai chịu nghe theo ai. Trong đêm tong quân đi lính, Việt giơ tay xin đi lính thì Chiến đứng lên ngăn lại. Có thể nói hai chị em cách nhau có một tuổi mà chị Chiến lại có những suy nghĩ chín chắn hơn Việt rất nhiều. Chú năm mừng khi thấy tinh thần chiến đấu của hai đứa cháu nên quyết định cho cả hai đứa đi cũng một lúc. Bố mẹ mất Chiến như người đứng đầu trong gia đình. Trước khi đi tòng quân đánh giặc, Chiến bàn với em về chuyện sắp xếp nhà cửa rằng nhà thì sẽ cho xã mượn để dạy học, ruộng vườn để lại cho chú Năm và mấy người nhà chăm sóc hộ. Số tiền bán được từ mấy ruộng mía thì để đó làm giỗ ba má. Đứa út thì gửi cho chú Năm trông. Bát đũa mang sang bên đó cho chị Hai muốn xuống lấy thì lấy. Những sắp xếp đâu ra đấy của một cô gái mười chín tuổi quả thật là quá chín chắn. Điều đó làm cho Việt nghĩ má dặn chị từ trước rồi. Hình ảnh đáng nhớ nhất là hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm. Hành động đó thể hiện truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên của nhân dân ta.

   Và như thế hai chị em đi lính lập được nhiều thành tích cao nhất là Việt. Dòng hồi tưởng ấy kết thúc và khi đồng đội nhận ra anh chạy đến cứu may mà cất tiếng nói trước không thì đã bị ăn đạn của cậu Tư rồi. Điều đó cho thấy dù cận kề cái chết Việt hay chính là thế hệ thanh niên Nam Bộ vẫn ở trong trạng thái chiến đâu anh dũng.

   Đọc xong truyện ngắn này chúng ta thêm yêu thêm thương những con người ở phía cuối tổ quốc. Đồng thời hiểu thêm về sự ác liệt của chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam nước ta. Gia đình Việt đại diện cho những gia đình miền nam chống Mỹ khác. Biết bao nhiêu gia đình chịu thương đau mất mát như thế, cũng biết bao nhiêu gia đình đứng lên đấu tranh kiên cường. Nguyễn Thi như thấu hiểu hết nỗi lòng của người dân Nam Bộ và quả thật ông thật xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người dân Nam Bộ.

Đề bài: Cảm nhận về truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Bài làm

   Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

   Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

   Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, mẹ, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.

   Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và mẹ, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và mẹ được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

   Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu.

   Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

   Mẹ của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng bà đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, bà là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

   Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha mẹ, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, mẹ bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

   Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống mẹ, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như mẹ, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

   Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ mẹ qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

   Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

   Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.

Đề bài: Cảm nhận về tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Bài làm

   Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông rất xứng đáng với danh hiệu “nhà văn của nhân dân Nam Bộ”. Bởi nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của ông là những người nông dân, những con người bản chất hồn nhiên, bộc trực, giàu lòng yêu nước, yêu cách mạng, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Tác phẩm thể hiện điều ấy là truyện ngắn “những đứa con trong gia đình”.

   Truyện ngắn này là một trong những truyện ngắn xuất sắc được viết trong những ngày chiến đấu ác liệt chống đế quốc Mĩ khi nhà văn công tác ở tạp chí văn nghệ quân giải phóng (tháng 2/1966). Truyện ngắn trước hết có một nghệ thuật kể chuyện độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, người kể tự giấu mình. Truyện được kể lại dưới góc nhìn của nhân vật Việt trong hoàn cảnh bị trọng thương lạc đồng đội bà nằm lại giữa rừng. Chính vì được kể theo cách này mà câu chuyện trở nên đậm đà, mang màu sắc trữ tình, tạo điều kiện cho tác giả xâm nhập sâu để dẫn dắt câu truyện. Đặc sắc trong lối kể chuyện không chỉ dừng lại ở ngôi kể, mà còn ở diễn biến câu chuyện linh hoạt. Diễn biến truyện không bị phụ thuộc vào trật tự thời gian, không gian. Truyện biến đổi linh hoạt từ hiện thực chiến trường quay lại về quá khứ rồi từ sự việc này đến sự việc khác. Nhớ về những ngày cùng chú Năm bắt mấy con ếch về nhậu, rồi Việt lại nhớ về những ngày lấy ná bắn chim, hay rồi Việt lại nhớ má…. Mỗi lần tỉnh Việt lại hồi tưởng đến những sự việc khác nhau. Qua mỗi lần hồi tưởng ấy, các tuyến nhân vật lại có dịp bộc lộ tính cách cũng như vẻ đẹp của riêng mình.

   Xung quanh câu truyện là một gia đình có truyền thống yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Từng thành viên trong gia đình đều là những con người gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu. Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại. Mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con, vừa phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những mất mát đau thương đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ gia đình. Chú Năm là người lớn tuổi nhất còn lại trong gia đình. Chú từng bôn ba khắp nơi, là người cưu mang mấy chị em Việt khi ba mẹ hi sinh. Chú rất đề cao truyền thống gia đình, mọi sự việc chú đều ghi lại trong cuốn sổ ấy. Một con người lao động chẩt phác như chú còn rất giàu tình cảm, có tâm hồn nghệ sĩ. Chú hay cất những câu hò, chú thích hò, câu hò “bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng, vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Chú là người đã hết lòng góp sức cho chị em Việt – Chiến lên đường hành quân.

   Nhưng trong truyện, chú Năm không phải nhân vật trung tâm. Tuyến nhân vật quan trọng nhất là hai chị em Việt – Chiến. Với những nét tính cách chung của một gia đình truyền thống, Việt – Chiến đã thể hiện toàn bộ giá trị nội dung của tác phẩm. Đó là sức mạnh của sự đoàn kết, những tấm gương thi đua, những con người mang dòng máu nóng trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Hai nhân vật Việt – Chiến đặc trưng cho phong cách xây dựng nhâm vật của Nguyễn Thi. Đó là những con người sinh ra là để đánh giặc. Vẻ đẹp của Việt và Chiến đã soi sáng toàn bộ tác phẩm.

   Truyện không chỉ hấp dẫn người đọc ở giá trị nội dung mà còn ở giá trị nghệ thuật. Không chỉ với lối kể chuyện độc đáo, đặc sắc nghệ thuật còn thể hiện ở việc xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật. Từng hồi ức của nhân vật Việt đều được miêu tả một cách sống động. Không chỉ đơn thuần là kể lại, Nguyễn Thi còn cho người đọc thấy được từng cảm xúc, diễn biến tâm trạng của các nhân vật. Từ cảm giác tưởng tượng ra con ma thụt đầu đến hình ảnh của mà trong hồi ức Việt đều được miêu tả rất rõ. Cách xây dựng nhân vật cũng hết sức đặc biệt mamg màu sắc Nguyễn Thi. Đó là nhân vật đều phải có nét chung thống nhất. Như trong truyện ngắn này, điểm chung của các nhân vật là cùng xuất thân và mang trong mình một dòng máu truyền thống căm thù giặc. Và điều góp phầm khiến truyện ngắn gần gũi hơn với người đọc chính là sự vận dụng sáng tạo ngôn ngữ của người dân Nam Bộ trong miêu tả, khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ ấy mộc mạc, giản dị, gần gũi, giúp người đọc dễ dàng tiếp cận.

   Tóm lại, với những đặc sắc riêng gắn liền với đặc trưng của phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi, “Những đứa con gia đình” là một tác phẩm xuất sắc. Không chỉ đơn thuần là câu chuyện được kể, mà nó còn như tấm gương phản chiếu trong cách mạng với những nhân vật tiêu biểu cho con người Việt Nam lúc bấy giờ: gan góc, kiên cường, dũng cảm, dám hi sinh.

Đề bài: Màu sắc Nam Bộ trong truyện “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.

Bài làm

    Truyện “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là khúc tráng ca của tuổi trẻ miền Nam anh hùng thời đánh Mĩ.

    Một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật là Nguyễn Thi đã tạo nên màu sắc Nam Bộ, một dấu ấn tuyệt đẹp mà độc giả dễ dàng nhận thấy.

    Màu sắc Nam Bộ biểu hiện rõ nhất là ở cảnh vật được miêu tả, ở sự việc được nói đến, ở tính cách và ngôn ngữ nhân vật được khắc hoạ (má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt,…)

    Cảnh tượng chiến trường ở nơi nào, ở thời nào chẳng giống nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Thi, chiến trường sau tiếng bom rền đạn réo lại có nét riêng, rất Nam Bộ. Giữa đồng không mông quạnh “một sự vắng từ trên trời lao xuống…”, “tiếng dế gáy u u caovút mãi lên” giữa đêm sâu thăm thẳm. Chính giữa không gian ấy, người chiến sĩ bị thương nặng, lạc đơn vị mới cảm thấy rõ nhất mình đang trở về kỉ niệm tuổi thơ, mình đang sống giữa quê hương (một nơi trên vùng đồng bằng Nam Bộ): “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao trùm lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…”.

    Ngôi nhà má Tư Năng cũng như hàng ngàn hàng vạn mái nhà của bà con khắp vùng Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Bến Tre… ở cạnh các vàm, các kênh, bao trùm bởi màu xanh của rặng bần, của khóm đước, mà người Bắc rất dễ nhận ra: “Nhà day ra cửa sông, trong đêm vui náo nức này, đom đóm từ ngoài rặng bần cũng kéo vào đầy nhà. Chúng bay chớp chớp như dò trên nóc rồi sà xuống mặt Việt”.

    Màu sắc Nam Bộ được thể hiện ở những vật dụng, ở cái gia tài của má Tư Năng để lại. Đó là “năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba là “hai công mía để dành làm đám giỗ ba má”, là những thứ làm ăn của nhà nông nghèo khó, lam lũ: nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi mà chị em Việt sẽ gửi lại chú Năm, trước khi đi đánh giặc.

    Cảnh đêm tòng quân của tuổi trẻ vùng đồng bằng Nam Bộ vui như ngày hội, bà con cô bác cả xã kéo đến, “đèn sáng rực”, hai chị em Chiến và Việt tranh giành nhau, làm cho anh cán bộ “đã cầm viết rồi lại đặt xuống”, chú Năm phải “nheo mắt nhìn” đứng ra phân xử: “Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cả hai.Việc lớn ta tính theo việc lớn còn việc thỏn mọn trong nhà tôi thu xếp khắc xong”. Đó là tấm lòng, là ý nghĩ, là cách nói chất phác của bà con cô bác nơi miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

    Cảnh hổn chiến giữa ta và giặc, cảnh tấn công như vũ bão của quân ta, qua sự lắng nghe, sự cảm nhận của Việt vừa hồi tỉnh sau cơn mê cũng mang nét rất riêng của Nam Bộ thời đánh Mĩ: “Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lểnh lảng của giặc. Đó là tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi”.

    Màu sắc Nam Bộ được thể hiện rõ nhất ở tính cách và ngôn ngữ của các nhân vật như má Tư Năng, chú Nãm, của Chiến, Việt.

    Hình ảnh má Tư Năng dẫn đàn con đi đòi đầu ba, hình ảnh má Tư Năng hiên ngang, thách thức: “Vợ Tư Năng đây!” khi đứng trước mũi súng và lời hăm dọa của lũ giặc: “Vợ Tư Năng đâu?”. Bọn lính bắn vọt qua đầu má, má đưa hai bàn tay to bản phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Má chèo xuồng, mà đi làm thuê, mà đi đấu tranh chính trị, má coi thường cái chết, vì má tin một cách mộc mạc, giản dị rằng “người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì?”. Hình ảnh má Tư Năng làm ta nhớ đến câu nói: “Còn cái lai quần cũng đánh” của chị út Tịch trong “Người mẹ cầm súng”.

    Cái cuốn sổ ghi bao việc “thỏn mỏn” trong gia đình bằng thứ chữ “lòng còng”. Chuyện thím Năm, ông nội, bác Hai, tía của Việt… bị giặc giết như thế nào, các chiến tích của ông nội, của thằng Hai, của chị em Việt, chú đều ghi rõ. Cuốn sổ ấy là truyền thống cách mạng của gia đình má Tư Năng, cũng là của hàng vạn gia đình nông dân Nam Bộ trong suốt ba mươi năm trời đánh Pháp, đánh Mỹ.

    Nguyễn Thi có tài sử dụng một số chi tiết nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, nâng lên tầm khái quát, tô đậm màu sắc Nam Bộ. Tiếng hò của chú Năm là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Thi tạo dựng nên. Giọng hò của chú Năm “đục và tức như gà gáy”. Đã nhiều lần chú cất giọng hò. Trước bữa cúng má Tư Năng, chị em Việt Chiến sắp lên đường ra trận, chú Năm cất giọng hò: “Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”.

    Chị Chiến giống má như đúc. Chiến cũng có hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng như má. Tiếng “cóc”, tiếng “nghen” tiếng “ừ”, tiếng chân bước “bịch bịch” của Chiến có khác nào má, “in như má vậy”. Bàn việc thu xếp nhà cửa trước khi đi đánh giặc, nghe em nói, Chiến “hứ một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” như má. Chiến đảm đang, sớm biết lo liệu, thường nhường nhịn em, chú Năm đã hết lời ca ngợi: “Không! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, nặng bề nước non”. Chiến có tư thế hiên ngang, quyết liệt như các o du kích vườn dừa Bến Tre: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.

    Việt là hình ảnh đẹp nhất, in đậm màu sắc Nam Bộ nhất trong truyện “Những đứa con trong gia đình”. Nụ cười “lỏn lẻn”, hai gò má “căng mướt như da trái vú sữa”, cái ná thun của tuổi thơ vẫn mang theo khi đi bộ đội, Việt rất giống ba, mỗi lần nghe tiếng ná thun của Việt, má lại nói: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rôi!”. Việt hồn nhiên, trong sáng: hay tranh giành với chị, nhưng lại “giấu chị như giấu của riêng” trước đồng đội. Dũng cảm trong chiến đấu, không sợ giặc nhưng lại sợ “thằng chỏng thụt lưỡi”, “con ma cụt đầu”,… Mới hai tuổi quân đã lập công tiêu diệt một xe bọc thép Mỹ; bị trọng thương, lạc đơn vị, nằm giữa chiến trường, tuy chỉ còn một viên đạn đã lên nòng, Việt “vẫn sẵn sàng nổ súng”. “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”… Hình ảnh Việt theo má lên tới quận “đòi đầu ba”, hình ảnh Việt trong đêm tòng quân, trong cảnh cùng chị gái khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm đã làm ta nhớ mãi, nhớ đứa con trai má Tư Năng, nhớ một chàng trai mới lớn vùng miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long thời chống Mĩ. Việt là hình bóng của quê hương; Việt là hiện thân trong câu hò của chú Năm: “… khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”.

    Thời chống Mĩ, tuổi trẻ cả nước ta nung nấu một lời thề: “Ra đi chỉ một lời thề – Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Việt và chị gái khi khiêng bàn thờ má đi gửi cũng đinh ninh một lời thề: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập, con lại đưa má về”.

    “Những đứa con trong gia đình” đã kết tinh nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Thi. Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo hình, chọn chi tiết điển hình, phân tích tâm lí nhân vật, cá biệt hoá ngôn ngữ nhân vật,… tất cả đều mang màu sắc và hương vị Nam Bộ. Màu sắc Nam Bộ tạo nên hồn cốt phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyền Thi trong “Người mẹ cầm súng” và “Những đứa con trong gia đình”.

    Sự thành công đó đã khẳng định vị thế được tôn vinh của Nguyễn Thi là “nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời chống Mĩ”.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 983

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống