Văn mẫu lớp 12 Tập 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

I. Mở bài

– Trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).

– Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ.

II. Thân bài

1. Một số nét khái quát

– Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.

– Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

2. Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc

– Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

– Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

    + Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;

    + Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên … dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.

    + Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.

    + Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.

    + Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.

    + Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.

– Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

– Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.

– Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

3. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:

    + Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.

    + Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

    + Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”

    + Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.

4. Hình tượng người lính Tây Tiến

– Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

– Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

    + Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.

    + Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

– Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

5. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả

– Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.

– Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

III. Kết bài

– Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

– Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Bài làm

    Quang Dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng!

    “Tây Tiến” là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm sung đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.

    “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.

    Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

    “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.

    Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ “nhớ” như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ “chơi vơi” cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng song Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

    “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

    Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong “sương lấp”, trong “đêm hơi” mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

    Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” chưa từng in dấu chân người! Những “cồn mây heo hút”. Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

    “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

    Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). “Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao ” ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nha ai Pha Luông mưa xa khơi”.

    Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:

    “Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

    Gục lên sung mũ bỏ quên đời!”.

    Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ “dãi dầu”, trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã “không bước nữa”,. vĩnh biệt đoàn binh, “bỏ quên đời”, bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ “gục lên súng mũ” thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ “chết”, từ “hi sinh” bằng cụm từ “không bước nữa”, “gục lên”…, “bỏ quên đời!”, nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt “gục lên súng mũ…” như vậy!

    Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng “gầm thét” của thác, của “cọp true người”. Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật “oai linh”, được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:

    “Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

    Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được “cơm lên khói”, hương vị đậm đà của “mùa em thơm nếp xôi”. Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của “mùa em”. Hai tiếng “nhớ ôi” gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

    “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

    Phần thứ hai bài “Tây Tiến” gồm có 8 câu nói về “hội đuốc hoa” và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm “hội đuốc hoa”. Chữ “kìa” là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn “man điệu” của núi rừng,có khúc nhạc du dương “xây hồn thơ”. Có dáng điệu duyên dáng “e ấp” của “nàng”, của những “bông hoa rừng” đang múa xòa, đang múa lăm- vông:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

    Khèn lên man điệu nàng e ấp,

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

    Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn “man điệu”, qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.

    Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến “hồn lau nẻo bến bờ”. Nhớ nhiều, nhớ mãi “dáng người trên độc mộc”, nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

    Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài “Tây Tiến” đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:

    “Người đi Châu mộc chiều sương ấy,

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

    Có nhớ dáng người trên độc mộc,

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

    Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, bỗng bất ngờ xuất hiện:

    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: “dữ oai hùm”. Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu), “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Nguyễn Trãi), … Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra tận trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hòa sảng như vậy!

    Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” ra đi đánh giặc với bao “mộng” và “mơ” tuyệt đẹp:

    “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. “Mắt trừng” gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một “dáng kiều thơm”, nơi Hà Nội thân yêu.

    Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài “Đồng Chí” của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, về giếng nước gốc đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:

    … “Ba năm rồi gửi lại quê hương,

    Mái lều gianh,

    Tiếng mõ đêm trường,

    Luống cày đất đỏ,

    Ít nhiều người vợ trẻ

    Mòn chân bên cối gạo canh khuya”…

    Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản… thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp.

    Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: “Tổ quốc hay là chết” đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:

    “Rải rác bên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

    Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với “áo bào thay chiếu” rất bình dị, chẳng có “da ngựa bọc thây” như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản “về đất”, vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ – Tổ quốc thân yêu. Các anh đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai chữ “về đất” rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ”, như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

    “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội dã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với “tình sông núi”, với quyết tâm “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả “đời xanh” hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!

    Sau này trong bài thơ “Sông Lào” cũng nói về những “nấm mồ viễn xứ” của những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:

    … “Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

    Gặp nghìn nấm mộ

    Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!

    Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng

    Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ

    Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.

    Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê – kông

    Nén hương thơm lẫn với hương rừng

    Những cô gái Lào đến thăm phần mộ

    Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…”

    Đúng là “Có cái chết hóa thành bất tử” (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh!

    Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

    “Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi

    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

    Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.

    Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo Cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

    “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

    Quang Dũng là một người nghệ sĩ tài hoa, ông không chỉ làm thơ, viết văn mà còn vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng người ta nhớ nhất về ông vẫn là trên vai trò của một nhà thơ. Thơ ông hồn hậu, phóng khoáng, mang cái lãng mạn, tài hoa. Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét vẽ tài hoa trong sáng tác cũng như trong chính tâm hồn ông.

    Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của tác phẩm:

    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

    Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Không chỉ nhớ sông Mã mà còn nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, những người đã gắn bó suốt quãng đời gian khổ mà vô cùng hào hùng.Và nỗi nhớ ấy còn bao trùm cả rừng núi – địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Tất cả nỗi nhớ ấy được cô đúc trong nỗi nhớ vô cùng đặc biệt: “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

    Sau việc khơi nguồn mạch cảm xúc là sự tái hiện lại núi rừng Tây Bắc, người bạn một thuở đã cận kề gắn bó với tác giả. Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… để đưa người đọc bước vào những địa danh heo hút, hoang sơ. Thiên nhiên ấy vô cùng khắc nghiệt, với sương khói mịt mù: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày vùi lấp cả đường đi, vùi lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi rã rời. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc mênh mông ấy… Ấn tượng tiếp theo được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là đèo dốc điệp trùng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Câu thơ chủ yếu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, vẽ nên cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên. Nhịp thơ ngắt 4/3 như bẻ đôi câu thơ để tạo độ cao dựng đứng và quanh co của triền dốc núi. Đồng thời ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Không chỉ vậy, thiên nhiên ấy còn đầy hoang sơ, bí ẩn: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Chiều chiều, tiếng thác nước gầm thét thị oai sức mạnh hoang sơ bản năng của núi rừng. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ trong âm thanh gầm thét mạnh mẽ kia. Đêm đến tiếng cọp thấp thoáng đâu đây đe doạ tính mạng con người… Giữa không gian rừng núi hiểm trở, đầy nguy hiểm, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với đầy khó khăn, gian khổ, hi sinh: Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Họ không chỉ mệt mỏi vì đường xa, mà còn vì đói khát, bệnh tật… nhưng họ vẫn cố gắng tiến bước cho đến lúc buộc phải nằm lại trên dọc đường hành quân. Cách nói giảm nói tránh “không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” khiến màu sắc tang thương, u buồn vợi bớt. Chính vì thế, câu thơ nói về cái chết nhưng không có màu sắc bi lụy.

    Trên con đường hành quân, với nhiều gian lao, vất vả, trước khung cảnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” đã khiến người lính quên đi biết bao khó khăn, vất vả và cả sự hi sinh. Trong những ngày dài hành quân, phải xa gia đình, quê hương, xa bạn bè lại chịu biết bao cực khổ, chỉ cần một mái nhà tranh gặp ven đường cũng làm lòng ta ấm lại. Nhà ai, mà ngỡ như chính nhà mình, và ẩn hiện trong đó là làn sương mờ ảo đầy nên thơ, trữ tình. Và hai câu thơ kết đã tái hiện lại một cảnh tượng thật êm ấm: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi ở một bản làng, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nếu như câu thơ trên dung ba thanh trắc gợi lên những làn khói mỏng manh bay qua từng kẽ lá, thì câu thơ cuối lại sử dụng toàn thành bằng gợi nên sự êm dịu, ấm áp. Đây chính là những kí ức đẹp đẽ nhất, còn mãi lằn sâu trong tiềm thức người lính Tây Tiến.

    Ở khổ thơ tiếp theo không khí rộn ràng trong một đêm liên hoan văn nghệ diễn ra vừa vui tươi, vừa ấm áp. Trong đêm liên hoan ấy, đối với nhà thơ, nổi bật nhất chính là hình ảnh: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Chữ “bừng” được xem là nhãn tự của câu thơ, gợi ra ánh sáng của những ngọn đuốc rừng rực như những bông hoa lửa. Ánh sáng càng rực rỡ và bừng sáng hơn khi có sự kết hợp với sự lộng lẫy của những người con gái đẹp vùng sơn cước. Người con gái vốn hàng ngày lam lũ, tần tảo nay hiện lên như những nàng thơ, vô cùng tuyệt mĩ. Hai chữ “kìa em” đã diễn tả đầy đủ tiếng reo vui, kèm với đó là sự ngỡ ngàng của những người lính. Trong tiếng khèn man điệu, người con gái e ấp, tình tứ trong điệu múa khiến biết bao người đắm say. Những người con gái ấy chính là linh hồn của đêm văn nghệ.

    Nếu bốn câu thơ trên rực rỡ, lung linh bao nhiêu thì bốn câu cuối trong khổ lại man mác, đượm buồn bấy nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên trong buổi chiều chia tay sương giăng mắc bốn phía: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Không gian mờ ảo, vưa hư mà vừa thực. Sông nước, bến bờ lặng lẽ, hoang dại, chỉ có màu lau trắng trải dài tít tắp, phất phơ theo chiều gió thổi. Thiên nhiên như có linh hồn, “hồn lau” hài hòa với “hồn thơ” của những người lính đa cảm. Cũng có thể hiểu “hồn lau” là một ẩn dụ đặc sắc gợi về vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người, những người lao động trên sông nước mênh mông. Trên nền thiên nhiên tĩnh lặng và thơ mộng đó nổi bật hình ảnh con người: Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. “Dáng người” là một hình ảnh đa nghĩa, có thể hiểu là dáng người con gái, là dáng người chiến sĩ hay dáng của những người dân nơi đây. Nhưng nếu kết hợp với câu thơ dưới thì hình ảnh dáng người ấy phải là người con gái, “hoa đong đưa” cũng như ánh mắt lung liếng, tình tứ của người con gái. Khiến những người lính chân tuy rời mà lòng vẫn thổn thức nhớ thương.

    Nếu trong những câu thơ trên hình ảnh những người lính Tây Tiến mới chỉ thấp thoáng xuất hiện thì ở khổ thơ cuối cùng, hình ảnh của họ đã hiện lên vô cùng chân thực, rõ nét. Họ trước hết hiện lên với ngoài hình kì lạ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Đây đều là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp mà người nào cũng phải trải qua. Trong hồi ức của những người lính Tây Tiến trở về, đoàn quân tử vong vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì đánh trận bởi rừng thiêng nước độc mà thuốc men không có. Tác giả không hề che giấu hiện thực, không nhìn nó bằng con mắt màu hồng, mà miêu tả chân thật, chi tiết. Cách nói chủ động: “không mọc tóc” chứ không phải tóc không thể mọc vì sốt rét tạo nên nét dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi của người lính Tây Tiến; cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua ngòi bút Quang Dũng lại toát lên vẻ oai phong, hùng dũng.

    Tuy nhiên cái nhìn của Quang Dũng không chỉ có hiện thực, mà còn hết sức lãng mạn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Trái tim những người lính trải qua bao lửa đạn không hề chai sạn, mà vẫn nồng nàn, rạo rực, khát khao yêu đương “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Dáng kiều ấy chẳng phải gì khác chính là hình ảnh của những cô thiếu nữ Hà Thành. Những giấc mơ mang hình dáng kiều thơm đã trở thành động lực để giúp người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; đã thúc giục họ tiến lên phía trước; và cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua bom đạn trở về.

    Trong quá trình chiến đấu không tránh khỏi những hi sinh, nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là lí tưởng, khát vọng sống cao đẹp: Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Dù phải chiến đấu gian khổ, dù biết cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào nhưng họ không hề sờn lòng nản chí, mà quyết tâm càng được nung nấu mạnh mẽ hơn. Đoạn thơ khép lại bằng sự hi sinh đầy anh dũng của họ: Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Trong bài thơ, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trong chặng đường hành quân, nhiều người lính không thể vượt qua đã gục lên súng mũ bỏ quên đời. Dọc đường Tây Tiến cũng là vô vàn những nấm mồ liệt sĩ mọc lên “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”… Và bây giờ, một lần nữa tác giả nhắc đến sự ra đi của họ Áo bào thay chiếu anh về đất. Người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu để che thân. Thế nhưng tác giả đã cố gắng làm giảm đi tính chất bi thương của những mất mát: Áo bào (áo mặc ngoài của các vị tướng thời xưa) đã khiến họ trở thành những chiến tướng sang trọng; Về đất là cách nói giảm nói tránh thanh thản và vô tư sau khi đã làm tròn nhiệm vụ. Và sông Mã gầm lên tráng khúc vừa dữ dội, vừa hào hùng để tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ.

    Bốn câu thơ cuối như một lời thề son sắt của người lính Tây Tiến, họ ra đi không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Hai câu thơ cuối là lời khẳng định chắc chắn dù có rời xa nhưng tâm hồn tình cảm của những người lính Tây Tiên vẫn gắn bó máu thịt với những ngày tháng, những địa điểm mà đoàn quân Tây Tiên đã đi qua.

    Tây Tiến – bài thơ đã dựng lên một cách đây đủ và chân thực nhất vẻ đẹp của ngươi lính. Họ vừa mang trong mình cái bay bổng, lãng mạn nhưng đồng thời cũng hết sức kiên cường, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho độc lập chung của tổ quốc. Để tạo nên sự thành công của tác phẩm cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về nghệ thuật như hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,… Tất cả hòa phối một cách nhịp nhàng đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

    Những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các tác giả thời kì này. Là một gương mặt nổi bật của văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, Quang Dũng mang trong mình thần thái, cốt cách rất riêng: vừa đậm chất cứng cỏi, khiên cường của một người lính, đồng thời cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa. Hai tính chất tưởng chừng như đối lập, khó có thể hòa hợp với nhau lại được Quang Dũng kiến tạo một cách hoàn hảo qua bài thơ Tây Tiến. Chất bi tráng và lãng mạn chính là điểm nổi bật tạo nên thành công cho tác phẩm này.

    Cảm hứng lãng mạn có thể coi là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này. Cảm hứng lãng mạn được hiểu là cảm hứng tìm kiếm và khẳng định cái tôi cá nhân độc đáo, phi thường, đầy lí tưởng hóa. Bởi vậy, trong các tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn thường phát huy trí tưởng tượng phong phú, sử dụng các thủ pháp khoa trương, phóng đại, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, tạo hình. Để từ đó càng làm nổi bật hơn nữa cái tôi cá nhân của tác giả. Văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, cảm hứng lãng mạn được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất trong chân dung những người lính, người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.

    Tây Tiến là bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, ngay từ những câu thơ đầu tiên nỗi nhớ da diết, ngập tràn đã bủa vây lấy toàn bộ tác phẩm:

        Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

        Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

    Nỗi nhớ man mác mà sâu đậm trải dài trong hai câu thơ đầu, và cứ thế tạo nên mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Tây Tiến được sáng tác khi ông đã rời binh đoàn của mình và nhận nhiệm vụ khác nhưng những năm tháng chiến đấu bên đồng đội là những năm tháng đẹp đẽ khiến ông không thể nào quên. Cũng bởi vậy mà ban đầu bài thơ này có tên là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó mới được chỉnh lí lại thành Tây Tiến – cô đọng súc tích hơn. Dù chữ nhớ trong nhan đề bài thơ đã được lược bớt đi, nhưng cũng không thể nào làm vơi bớt nỗi nhớ của ông đối với mảnh đất và con người nơi đây. Chữ “ơi” thật thân thương, da diết, như lời tâm tình với núi rừng, với quê hương, bản quán của mình. Và nỗi nhớ ấy nhân mãi lên, để đến câu thơ thứ hai, ông khẳng định trực tiếp “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Cách ông dùng từ cũng thật đặc biệt và đầy lãng mạn “nhớ chơi vơi”. Nhớ chơi vơi là gì? Là nỗi nhớ da diết, buâng khuâng trong lòng, nhẹ nhàng mà thấm đượm, khiến người ta khắc khoải chẳng thể nào quên.

    Dưới đôi bàn tay tài hoa của Quang Dũng thiên nhiên nơi đây hiện lên vừa dữ dội, oai linh vừa thơ mộng, đẹp đẽ. Những cung đường đèo với vực sâu thăm thẳm khiến bất cứ ai đi qua cũng phải run lên sợ hãi, được tác giả tái hiện qua hệ thống ngôn từ giàu chất tạo hình:

        Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Hay:

        Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

        Heo hút cồn mây súng ngửi trời

        Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Từ hiện thực khách quan, nhưng bằng con mắt lãng mạn, đầy tài hoa của người nghệ sĩ, ông đã vẻ nên khung cảnh vô cùng độc đáo, hùng vĩ, dữ dội. Những làn mây nặng trĩu, trắng xóa sà xuống khiến cả đoàn quân phải hành quân trong mờ mịt cùng với những ngọn núi trùng điệp, nối tiếp nhau, không khỏi khiến họ rã rời trong cái lạnh của núi rừng. Không chỉ vậy, những người lính còn phải đối mặt với thác cao, vực sâu. Ba câu thơ được ngắt nhịp 4/3, sử dụng đa phần thanh trắc gợi nên cái gân guốc rắn rỏi của đoàn quân và còn gợi lên cái hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường đi lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường đi xuống. Ngoài ra ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan mà người lính phải đối mặt. Không chỉ phải trải qua khí hậu, địa hình khắc nghiệt, mà họ còn phải đối mặt với những loài thú dữ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người”. Tất cả những từ láy, cách ngắt nhịp đó đã cho ta thấy sự kiên cường, anh dũng của người lính, họ phải trải qua bao nhiêu khó khăn mới có thể tiến tới thành công.

    Nhưng thiên nhiên ấy không chỉ có sự hoang sơ, hùng vĩ mà bên cạnh đó còn là một thiên nhiên hết sức thơ mộng, trữ tình. Cuộc sống con người, và khung cảnh thiên nhiên là một nét chấm phá đặc biệt, đem đến sự ấm áp, lãng mạn cho con người. Sau những gian nan, vất vả, người lính mới có cơ hội nghỉ ngơi, mới được cảm nhận hơi ấm của gia đình để có thêm động lực tiếp tục lên đường. Những người dân Thái, Mường,… được miêu tả đầy tinh tế, lãng mạn qua hình ảnh những người con gái trẻ tuổi, xuân thì trong điệu nhảy e ấp, đầy tình tứ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ…”. Còn khung cảnh thiên nhiên lại được Quang Dũng phác họa trong buổi chiều sương lãng đãng trước giờ phút chia tay: Người đi châu mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ…”. Cả không gian trở nên mơ hồ, huyền ảo, vừa hư vừa thực khi có những màn sương giăng mắc. Bến bờ như trở về thời tiên sử, chỉ có hàng lau trắng trải dài đến vô tận. Giản dị, gần gũi mà ấm áp lòng người, đây chính là không gian họ tiễn biệt nhau, trao gửi nhau những lời chúc, những tình ý, tiếp sức cho họ lên đường.

    Không chỉ dừng lại ở đó cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm còn được thể hiện trong việc ông sử dụng linh hoạt các thủ pháp lãng mạn, phóng đại, cường điệu, khiến người đọc ấn tượng sâu sắc về cái hùng vĩ, hào hùng của thiên nhiên và con người nơi đây.

    Không chỉ có những nét vẽ lãng mạn, mà Tây Tiến còn mang trong mình cả tinh thần bi tráng. Tinh thần bi tráng có thể hiểu là việc miêu tả hiện thực một cách trần trụi, không né tránh, không tô hồng hiện thực khắc khổ. Cái bi đó không phải là bi lụy, yếu đuối mà mà bi tráng, đầy hào hùng, lẫm liệt. Đoàn binh tây Tiến cũng được Quang Dũng khắc họa như vậy. Nói đến cái chết, khó khăn, nhưng không hề oán trách mà đầy kiêu dũng, hào hùng.

    Tính chất bi tráng của đoàn binh Tây Tiến trước hết là ở ngoại hình. Họ được Quang Dũng giới thiệu vô cùng độc đáo: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oại hùm”. Hai câu thơ vừa cho thấy dáng vẻ vừa cho thấy cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ của họ. Những cách nhìn nhận lại rất ngàng tàng, trẻ trung, đậm chất lính, ẩn chứa trong đó là sức mạnh tinh thần lớn lao, uy phong, lẫm liệt. Không chỉ vậy họ còn có thế giới nội tậm vô cùng phong phú. Đôi mắt trừng lên chứa chan lòng căm thù giặc, dữ dội, mạnh mẽ gắn liền với sự hùng tráng của nhân vật trữ tình, nhưng lại cũng rất lãng mạn với giấc mơ về những cô thiếu nữ Hà Thành.

    Tác phẩm có nói đến cái chết, có đau thương, mất mát, nhưng không hề bi lụy: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đã biết bao người đã anh dũng ngã xuống vì độc lập của đất nước, nhưng tuyệt nhiên không một ai hối tiếc, bởi họ đang phấn đấu cho lí tưởng cao đẹp nhất của cuộc đời mình. Dù trở về đất mẹ, không một manh chiếu bọc thân, chỉ có tấm áo sờn rách đưa anh về đất nhưng Quang Dũng đã biến hiện thực khắc nghiệt, bi thương đó thành cuộc tiễn đưa đầy bi tráng của con người và thiên nhiên: “Áo bào thay chiếu, anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Anh đã mang cả thân hình, cả tâm hồn hóa thân vào dáng hình xứ sở.

    Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã được Quang Dũng vận dụng một cách tài tình, nâng đỡ nhau tạo nên một tác phẩm bất hủ. Tác giả đã đem đến bức tranh chân dung chân thực nhất, đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của những người lính, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ tuổi hào hoa, yêu nước, yêu đời. Sự hòa quyện giữa các yếu tố này đã tạo nên sự thành công của tác phẩm trong lòng bạn đọc.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

I. Mở bài

– Trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).

– Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ.

II. Thân bài

1. Một số nét khái quát

– Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.

– Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

2. Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc

– Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

– Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

    + Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;

    + Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên … dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.

    + Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.

    + Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.

    + Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.

    + Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.

– Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

– Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.

– Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

3. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:

    + Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.

    + Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

    + Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”

    + Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.

4. Hình tượng người lính Tây Tiến

– Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

– Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

    + Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.

    + Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

– Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

5. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả

– Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.

– Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

III. Kết bài

– Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

– Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.

   Quang Dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng!

    “Tây Tiến” là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm sung đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.

    “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.

    Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

    “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.

    Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ “nhớ” như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ “chơi vơi” cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng song Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

    “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

    Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong “sương lấp”, trong “đêm hơi” mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

    Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” chưa từng in dấu chân người! Những “cồn mây heo hút”. Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

    “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

    Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). “Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao ” ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nha ai Pha Luông mưa xa khơi”.

    Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:

    “Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

    Gục lên sung mũ bỏ quên đời!”.

    Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ “dãi dầu”, trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã “không bước nữa”,. vĩnh biệt đoàn binh, “bỏ quên đời”, bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ “gục lên súng mũ” thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ “chết”, từ “hi sinh” bằng cụm từ “không bước nữa”, “gục lên”…, “bỏ quên đời!”, nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt “gục lên súng mũ…” như vậy!

    Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng “gầm thét” của thác, của “cọp true người”. Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật “oai linh”, được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:

    “Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

    Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được “cơm lên khói”, hương vị đậm đà của “mùa em thơm nếp xôi”. Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của “mùa em”. Hai tiếng “nhớ ôi” gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

    “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

    Phần thứ hai bài “Tây Tiến” gồm có 8 câu nói về “hội đuốc hoa” và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm “hội đuốc hoa”. Chữ “kìa” là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn “man điệu” của núi rừng,có khúc nhạc du dương “xây hồn thơ”. Có dáng điệu duyên dáng “e ấp” của “nàng”, của những “bông hoa rừng” đang múa xòa, đang múa lăm- vông:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

    Khèn lên man điệu nàng e ấp,

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

    Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn “man điệu”, qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.

    Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến “hồn lau nẻo bến bờ”. Nhớ nhiều, nhớ mãi “dáng người trên độc mộc”, nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

    Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài “Tây Tiến” đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:

    “Người đi Châu mộc chiều sương ấy,

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

    Có nhớ dáng người trên độc mộc,

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

    Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, bỗng bất ngờ xuất hiện:

    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: “dữ oai hùm”. Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu), “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Nguyễn Trãi), … Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra tận trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hòa sảng như vậy!

    Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” ra đi đánh giặc với bao “mộng” và “mơ” tuyệt đẹp:

    “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. “Mắt trừng” gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một “dáng kiều thơm”, nơi Hà Nội thân yêu.

    Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài “Đồng Chí” của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, về giếng nước gốc đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:

    … “Ba năm rồi gửi lại quê hương,

    Mái lều gianh,

    Tiếng mõ đêm trường,

    Luống cày đất đỏ,

    Ít nhiều người vợ trẻ

    Mòn chân bên cối gạo canh khuya”…

    Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản… thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp.

    Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: “Tổ quốc hay là chết” đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:

    “Rải rác bên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

    Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với “áo bào thay chiếu” rất bình dị, chẳng có “da ngựa bọc thây” như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản “về đất”, vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ – Tổ quốc thân yêu. Các anh đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai chữ “về đất” rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ”, như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

    “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội dã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với “tình sông núi”, với quyết tâm “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả “đời xanh” hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!

    Sau này trong bài thơ “Sông Lào” cũng nói về những “nấm mồ viễn xứ” của những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:

    … “Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

    Gặp nghìn nấm mộ

    Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!

    Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng

    Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ

    Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.

    Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê – kông

    Nén hương thơm lẫn với hương rừng

    Những cô gái Lào đến thăm phần mộ

    Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…”

    Đúng là “Có cái chết hóa thành bất tử” (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh!

    Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

    “Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi

    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

    Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.

    Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo Cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

    “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

    Quang Dũng là một người nghệ sĩ tài hoa, ông không chỉ làm thơ, viết văn mà còn vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng người ta nhớ nhất về ông vẫn là trên vai trò của một nhà thơ. Thơ ông hồn hậu, phóng khoáng, mang cái lãng mạn, tài hoa. Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét vẽ tài hoa trong sáng tác cũng như trong chính tâm hồn ông.

    Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của tác phẩm:

    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

    Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Không chỉ nhớ sông Mã mà còn nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, những người đã gắn bó suốt quãng đời gian khổ mà vô cùng hào hùng.Và nỗi nhớ ấy còn bao trùm cả rừng núi – địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Tất cả nỗi nhớ ấy được cô đúc trong nỗi nhớ vô cùng đặc biệt: “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

    Sau việc khơi nguồn mạch cảm xúc là sự tái hiện lại núi rừng Tây Bắc, người bạn một thuở đã cận kề gắn bó với tác giả. Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… để đưa người đọc bước vào những địa danh heo hút, hoang sơ. Thiên nhiên ấy vô cùng khắc nghiệt, với sương khói mịt mù: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày vùi lấp cả đường đi, vùi lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi rã rời. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc mênh mông ấy… Ấn tượng tiếp theo được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là đèo dốc điệp trùng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Câu thơ chủ yếu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, vẽ nên cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên. Nhịp thơ ngắt 4/3 như bẻ đôi câu thơ để tạo độ cao dựng đứng và quanh co của triền dốc núi. Đồng thời ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Không chỉ vậy, thiên nhiên ấy còn đầy hoang sơ, bí ẩn: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Chiều chiều, tiếng thác nước gầm thét thị oai sức mạnh hoang sơ bản năng của núi rừng. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ trong âm thanh gầm thét mạnh mẽ kia. Đêm đến tiếng cọp thấp thoáng đâu đây đe doạ tính mạng con người… Giữa không gian rừng núi hiểm trở, đầy nguy hiểm, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với đầy khó khăn, gian khổ, hi sinh: Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Họ không chỉ mệt mỏi vì đường xa, mà còn vì đói khát, bệnh tật… nhưng họ vẫn cố gắng tiến bước cho đến lúc buộc phải nằm lại trên dọc đường hành quân. Cách nói giảm nói tránh “không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” khiến màu sắc tang thương, u buồn vợi bớt. Chính vì thế, câu thơ nói về cái chết nhưng không có màu sắc bi lụy.

    Trên con đường hành quân, với nhiều gian lao, vất vả, trước khung cảnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” đã khiến người lính quên đi biết bao khó khăn, vất vả và cả sự hi sinh. Trong những ngày dài hành quân, phải xa gia đình, quê hương, xa bạn bè lại chịu biết bao cực khổ, chỉ cần một mái nhà tranh gặp ven đường cũng làm lòng ta ấm lại. Nhà ai, mà ngỡ như chính nhà mình, và ẩn hiện trong đó là làn sương mờ ảo đầy nên thơ, trữ tình. Và hai câu thơ kết đã tái hiện lại một cảnh tượng thật êm ấm: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi ở một bản làng, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nếu như câu thơ trên dung ba thanh trắc gợi lên những làn khói mỏng manh bay qua từng kẽ lá, thì câu thơ cuối lại sử dụng toàn thành bằng gợi nên sự êm dịu, ấm áp. Đây chính là những kí ức đẹp đẽ nhất, còn mãi lằn sâu trong tiềm thức người lính Tây Tiến.

    Ở khổ thơ tiếp theo không khí rộn ràng trong một đêm liên hoan văn nghệ diễn ra vừa vui tươi, vừa ấm áp. Trong đêm liên hoan ấy, đối với nhà thơ, nổi bật nhất chính là hình ảnh: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Chữ “bừng” được xem là nhãn tự của câu thơ, gợi ra ánh sáng của những ngọn đuốc rừng rực như những bông hoa lửa. Ánh sáng càng rực rỡ và bừng sáng hơn khi có sự kết hợp với sự lộng lẫy của những người con gái đẹp vùng sơn cước. Người con gái vốn hàng ngày lam lũ, tần tảo nay hiện lên như những nàng thơ, vô cùng tuyệt mĩ. Hai chữ “kìa em” đã diễn tả đầy đủ tiếng reo vui, kèm với đó là sự ngỡ ngàng của những người lính. Trong tiếng khèn man điệu, người con gái e ấp, tình tứ trong điệu múa khiến biết bao người đắm say. Những người con gái ấy chính là linh hồn của đêm văn nghệ.

    Nếu bốn câu thơ trên rực rỡ, lung linh bao nhiêu thì bốn câu cuối trong khổ lại man mác, đượm buồn bấy nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên trong buổi chiều chia tay sương giăng mắc bốn phía: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Không gian mờ ảo, vưa hư mà vừa thực. Sông nước, bến bờ lặng lẽ, hoang dại, chỉ có màu lau trắng trải dài tít tắp, phất phơ theo chiều gió thổi. Thiên nhiên như có linh hồn, “hồn lau” hài hòa với “hồn thơ” của những người lính đa cảm. Cũng có thể hiểu “hồn lau” là một ẩn dụ đặc sắc gợi về vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người, những người lao động trên sông nước mênh mông. Trên nền thiên nhiên tĩnh lặng và thơ mộng đó nổi bật hình ảnh con người: Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. “Dáng người” là một hình ảnh đa nghĩa, có thể hiểu là dáng người con gái, là dáng người chiến sĩ hay dáng của những người dân nơi đây. Nhưng nếu kết hợp với câu thơ dưới thì hình ảnh dáng người ấy phải là người con gái, “hoa đong đưa” cũng như ánh mắt lung liếng, tình tứ của người con gái. Khiến những người lính chân tuy rời mà lòng vẫn thổn thức nhớ thương.

    Nếu trong những câu thơ trên hình ảnh những người lính Tây Tiến mới chỉ thấp thoáng xuất hiện thì ở khổ thơ cuối cùng, hình ảnh của họ đã hiện lên vô cùng chân thực, rõ nét. Họ trước hết hiện lên với ngoài hình kì lạ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Đây đều là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp mà người nào cũng phải trải qua. Trong hồi ức của những người lính Tây Tiến trở về, đoàn quân tử vong vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì đánh trận bởi rừng thiêng nước độc mà thuốc men không có. Tác giả không hề che giấu hiện thực, không nhìn nó bằng con mắt màu hồng, mà miêu tả chân thật, chi tiết. Cách nói chủ động: “không mọc tóc” chứ không phải tóc không thể mọc vì sốt rét tạo nên nét dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi của người lính Tây Tiến; cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua ngòi bút Quang Dũng lại toát lên vẻ oai phong, hùng dũng.

    Tuy nhiên cái nhìn của Quang Dũng không chỉ có hiện thực, mà còn hết sức lãng mạn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Trái tim những người lính trải qua bao lửa đạn không hề chai sạn, mà vẫn nồng nàn, rạo rực, khát khao yêu đương “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Dáng kiều ấy chẳng phải gì khác chính là hình ảnh của những cô thiếu nữ Hà Thành. Những giấc mơ mang hình dáng kiều thơm đã trở thành động lực để giúp người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; đã thúc giục họ tiến lên phía trước; và cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua bom đạn trở về.

    Trong quá trình chiến đấu không tránh khỏi những hi sinh, nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là lí tưởng, khát vọng sống cao đẹp: Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Dù phải chiến đấu gian khổ, dù biết cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào nhưng họ không hề sờn lòng nản chí, mà quyết tâm càng được nung nấu mạnh mẽ hơn. Đoạn thơ khép lại bằng sự hi sinh đầy anh dũng của họ: Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Trong bài thơ, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trong chặng đường hành quân, nhiều người lính không thể vượt qua đã gục lên súng mũ bỏ quên đời. Dọc đường Tây Tiến cũng là vô vàn những nấm mồ liệt sĩ mọc lên “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”… Và bây giờ, một lần nữa tác giả nhắc đến sự ra đi của họ Áo bào thay chiếu anh về đất. Người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu để che thân. Thế nhưng tác giả đã cố gắng làm giảm đi tính chất bi thương của những mất mát: Áo bào (áo mặc ngoài của các vị tướng thời xưa) đã khiến họ trở thành những chiến tướng sang trọng; Về đất là cách nói giảm nói tránh thanh thản và vô tư sau khi đã làm tròn nhiệm vụ. Và sông Mã gầm lên tráng khúc vừa dữ dội, vừa hào hùng để tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ.

    Bốn câu thơ cuối như một lời thề son sắt của người lính Tây Tiến, họ ra đi không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Hai câu thơ cuối là lời khẳng định chắc chắn dù có rời xa nhưng tâm hồn tình cảm của những người lính Tây Tiên vẫn gắn bó máu thịt với những ngày tháng, những địa điểm mà đoàn quân Tây Tiên đã đi qua.

    Tây Tiến – bài thơ đã dựng lên một cách đây đủ và chân thực nhất vẻ đẹp của ngươi lính. Họ vừa mang trong mình cái bay bổng, lãng mạn nhưng đồng thời cũng hết sức kiên cường, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho độc lập chung của tổ quốc. Để tạo nên sự thành công của tác phẩm cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về nghệ thuật như hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,… Tất cả hòa phối một cách nhịp nhàng đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

   Những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các tác giả thời kì này. Là một gương mặt nổi bật của văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, Quang Dũng mang trong mình thần thái, cốt cách rất riêng: vừa đậm chất cứng cỏi, khiên cường của một người lính, đồng thời cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa. Hai tính chất tưởng chừng như đối lập, khó có thể hòa hợp với nhau lại được Quang Dũng kiến tạo một cách hoàn hảo qua bài thơ Tây Tiến. Chất bi tráng và lãng mạn chính là điểm nổi bật tạo nên thành công cho tác phẩm này.

    Cảm hứng lãng mạn có thể coi là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này. Cảm hứng lãng mạn được hiểu là cảm hứng tìm kiếm và khẳng định cái tôi cá nhân độc đáo, phi thường, đầy lí tưởng hóa. Bởi vậy, trong các tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn thường phát huy trí tưởng tượng phong phú, sử dụng các thủ pháp khoa trương, phóng đại, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, tạo hình. Để từ đó càng làm nổi bật hơn nữa cái tôi cá nhân của tác giả. Văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, cảm hứng lãng mạn được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất trong chân dung những người lính, người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.

    Tây Tiến là bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, ngay từ những câu thơ đầu tiên nỗi nhớ da diết, ngập tràn đã bủa vây lấy toàn bộ tác phẩm:

    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

    Nỗi nhớ man mác mà sâu đậm trải dài trong hai câu thơ đầu, và cứ thế tạo nên mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Tây Tiến được sáng tác khi ông đã rời binh đoàn của mình và nhận nhiệm vụ khác nhưng những năm tháng chiến đấu bên đồng đội là những năm tháng đẹp đẽ khiến ông không thể nào quên. Cũng bởi vậy mà ban đầu bài thơ này có tên là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó mới được chỉnh lí lại thành Tây Tiến – cô đọng súc tích hơn. Dù chữ nhớ trong nhan đề bài thơ đã được lược bớt đi, nhưng cũng không thể nào làm vơi bớt nỗi nhớ của ông đối với mảnh đất và con người nơi đây. Chữ “ơi” thật thân thương, da diết, như lời tâm tình với núi rừng, với quê hương, bản quán của mình. Và nỗi nhớ ấy nhân mãi lên, để đến câu thơ thứ hai, ông khẳng định trực tiếp “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Cách ông dùng từ cũng thật đặc biệt và đầy lãng mạn “nhớ chơi vơi”. Nhớ chơi vơi là gì? Là nỗi nhớ da diết, buâng khuâng trong lòng, nhẹ nhàng mà thấm đượm, khiến người ta khắc khoải chẳng thể nào quên.

    Dưới đôi bàn tay tài hoa của Quang Dũng thiên nhiên nơi đây hiện lên vừa dữ dội, oai linh vừa thơ mộng, đẹp đẽ. Những cung đường đèo với vực sâu thăm thẳm khiến bất cứ ai đi qua cũng phải run lên sợ hãi, được tác giả tái hiện qua hệ thống ngôn từ giàu chất tạo hình:

    Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Hay:

    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Từ hiện thực khách quan, nhưng bằng con mắt lãng mạn, đầy tài hoa của người nghệ sĩ, ông đã vẻ nên khung cảnh vô cùng độc đáo, hùng vĩ, dữ dội. Những làn mây nặng trĩu, trắng xóa sà xuống khiến cả đoàn quân phải hành quân trong mờ mịt cùng với những ngọn núi trùng điệp, nối tiếp nhau, không khỏi khiến họ rã rời trong cái lạnh của núi rừng. Không chỉ vậy, những người lính còn phải đối mặt với thác cao, vực sâu. Ba câu thơ được ngắt nhịp 4/3, sử dụng đa phần thanh trắc gợi nên cái gân guốc rắn rỏi của đoàn quân và còn gợi lên cái hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường đi lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường đi xuống. Ngoài ra ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan mà người lính phải đối mặt. Không chỉ phải trải qua khí hậu, địa hình khắc nghiệt, mà họ còn phải đối mặt với những loài thú dữ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người”. Tất cả những từ láy, cách ngắt nhịp đó đã cho ta thấy sự kiên cường, anh dũng của người lính, họ phải trải qua bao nhiêu khó khăn mới có thể tiến tới thành công.

    Nhưng thiên nhiên ấy không chỉ có sự hoang sơ, hùng vĩ mà bên cạnh đó còn là một thiên nhiên hết sức thơ mộng, trữ tình. Cuộc sống con người, và khung cảnh thiên nhiên là một nét chấm phá đặc biệt, đem đến sự ấm áp, lãng mạn cho con người. Sau những gian nan, vất vả, người lính mới có cơ hội nghỉ ngơi, mới được cảm nhận hơi ấm của gia đình để có thêm động lực tiếp tục lên đường. Những người dân Thái, Mường,… được miêu tả đầy tinh tế, lãng mạn qua hình ảnh những người con gái trẻ tuổi, xuân thì trong điệu nhảy e ấp, đầy tình tứ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ…”. Còn khung cảnh thiên nhiên lại được Quang Dũng phác họa trong buổi chiều sương lãng đãng trước giờ phút chia tay: Người đi châu mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ…”. Cả không gian trở nên mơ hồ, huyền ảo, vừa hư vừa thực khi có những màn sương giăng mắc. Bến bờ như trở về thời tiên sử, chỉ có hàng lau trắng trải dài đến vô tận. Giản dị, gần gũi mà ấm áp lòng người, đây chính là không gian họ tiễn biệt nhau, trao gửi nhau những lời chúc, những tình ý, tiếp sức cho họ lên đường.

    Không chỉ dừng lại ở đó cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm còn được thể hiện trong việc ông sử dụng linh hoạt các thủ pháp lãng mạn, phóng đại, cường điệu, khiến người đọc ấn tượng sâu sắc về cái hùng vĩ, hào hùng của thiên nhiên và con người nơi đây.

    Không chỉ có những nét vẽ lãng mạn, mà Tây Tiến còn mang trong mình cả tinh thần bi tráng. Tinh thần bi tráng có thể hiểu là việc miêu tả hiện thực một cách trần trụi, không né tránh, không tô hồng hiện thực khắc khổ. Cái bi đó không phải là bi lụy, yếu đuối mà mà bi tráng, đầy hào hùng, lẫm liệt. Đoàn binh tây Tiến cũng được Quang Dũng khắc họa như vậy. Nói đến cái chết, khó khăn, nhưng không hề oán trách mà đầy kiêu dũng, hào hùng.

    Tính chất bi tráng của đoàn binh Tây Tiến trước hết là ở ngoại hình. Họ được Quang Dũng giới thiệu vô cùng độc đáo: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oại hùm”. Hai câu thơ vừa cho thấy dáng vẻ vừa cho thấy cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ của họ. Những cách nhìn nhận lại rất ngàng tàng, trẻ trung, đậm chất lính, ẩn chứa trong đó là sức mạnh tinh thần lớn lao, uy phong, lẫm liệt. Không chỉ vậy họ còn có thế giới nội tậm vô cùng phong phú. Đôi mắt trừng lên chứa chan lòng căm thù giặc, dữ dội, mạnh mẽ gắn liền với sự hùng tráng của nhân vật trữ tình, nhưng lại cũng rất lãng mạn với giấc mơ về những cô thiếu nữ Hà Thành.

    Tác phẩm có nói đến cái chết, có đau thương, mất mát, nhưng không hề bi lụy: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đã biết bao người đã anh dũng ngã xuống vì độc lập của đất nước, nhưng tuyệt nhiên không một ai hối tiếc, bởi họ đang phấn đấu cho lí tưởng cao đẹp nhất của cuộc đời mình. Dù trở về đất mẹ, không một manh chiếu bọc thân, chỉ có tấm áo sờn rách đưa anh về đất nhưng Quang Dũng đã biến hiện thực khắc nghiệt, bi thương đó thành cuộc tiễn đưa đầy bi tráng của con người và thiên nhiên: “Áo bào thay chiếu, anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Anh đã mang cả thân hình, cả tâm hồn hóa thân vào dáng hình xứ sở.

    Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã được Quang Dũng vận dụng một cách tài tình, nâng đỡ nhau tạo nên một tác phẩm bất hủ. Tác giả đã đem đến bức tranh chân dung chân thực nhất, đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của những người lính, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ tuổi hào hoa, yêu nước, yêu đời. Sự hòa quyện giữa các yếu tố này đã tạo nên sự thành công của tác phẩm trong lòng bạn đọc.

Đề bài: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Bài làm

I. Mở bài

– Giới thiệu một vài nét khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.

– Tập trung giới thiệu về hình tượng người lính trong bài thơ.

II. Thân bài

– Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: họ là ai, xuất thân của họ, cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ là gì?

1. Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường

– Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao hiểm nguy ở miền núi Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

    + Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”

    + Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.

    + Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.

    + Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.

    + Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.

– Họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, bệnh tật: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

2. Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa

– Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

– Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

– Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:

    + Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.

    + Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

    + Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”

    + Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

– Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

3. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

    + Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.

    + Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.

    + Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

    + Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi)

– Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.

– Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối, tương phản, .. sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.

– Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường luôn có tâm hồn lãng mạn, hào hoa, mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng.

Đề bài: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

    Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biết là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sáng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.

    Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lư Chanh, sau khi nhà thơ dời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này đã cho thấy toàn bộ tác phẩm thấm đẫm trong nõi nhớ vừa tha thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.

    Trong phần một và hai của bài thơ, nổi bật hơn cả là bức tranh thiên nhiên và con người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình ảnh người lính Tây Tiến chỉ xuất hiện một cách gián tiếp, nhưng cũng đã phần nào cho người đọc hình dung về hình ảnh của họ. Sang đến phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như tài năng của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững về người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại hình cho đến tâm hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.

    Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất hiện thực:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực: không mọc tóc, quân xanh màu lá. Những hình ảnh này đã xé bỏ tất cả cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về cuộc sống cũng như sinh hoạt của người lính. Để đưa người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc khi do sự thiếu thốn về vật chất cũng nhưng sự hành hạ của bênh sốt rét rừng, hình ảnh những người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung hết sức kì lạ: tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được các thơ khác đề cập đến như:

    Cuộc đời gió bụi pha sương máu

    Đói rét bao lần xé thịt da

    Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

    Đâu còn tươi nữa những ngày hoa

    Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải là hiện thực trần trụi đó, mà từ hiện thực ấy nhấn mạnh vào ý chí, nghị lực phi thường của người lính. Bởi vậy, nó đối lập với khó khăn, khắc nghiệt là hình ảnh người lính hết sức oai phong. Dù nước da có xanh xao nhưng ở đó vẫn hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi cũng như bản lĩnh ngang tàng, sẵn sàng vượt lên khó khăn của người chiến sĩ.

    Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất đối lập nhưng kì thực lại rất thống nhất trong tâm hồn người lính Tây Tiến, đó chính là tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Hình ảnh “mắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội mà người lính dành cho kẻ thù. Ở đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc và khát vọng giết giặc lập công, bảo vệ quê hương. Giấc mộng của người lính là phương diện dễ nhận thấy nhất ở bất cứ người chiến sĩ nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác giả ở chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn người lính. Hình ảnh “dáng kiều thơm” chính là dáng người thướt tha, mền mại của những cô gái Hà Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa sữa nồng nàn đặc trưng của Hà Nội. Chính giấc mộng đó là động lực để họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây Quang Dũng lại đưa thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi, biên viễn với những nấm mồ rải rác tạo nên cảm giac xót xa, tang tóc, thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không rơi vào sự bi lụy, bởi ngay sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định lí tưởng của người lính Tây Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây Tiến ý thức rất rõ về quãng đời “xanh” – tuổi trẻ, mơ ước, khát vọng, đồng thời họ cũng ý thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi sinh. Nhưng cách ứng xử của người lính với cái chết không phải là sự run rẩy sợ hãi, mà là sự lựa chọn dứt khoát, chủ động. Hai chử “chẳng tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều đó. Nhà thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa chọn giữa sống vào chết từ đó làm bật lên lí tưởng sống cao đẹp của họ. Lí tưởng sống cao đẹp đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến mà còn là của tất cả những người lính: “Chúng tôi đã đi không tiếc đới mình/ Nhưng tuổi hai mười làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng tôi xin chết”.

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Câu thơ đầu tiếp tục là nét chạm khắc vô cùng chân thực về hiện thực thiếu thốn không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình chiến đấy mà còn theo họ đến tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có, họ phải lấy manh chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang Dũng đã nâng cái chết có phần xót xa trở thành cái chết vô cùng trang trọng, khi khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai chữ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ nhàng, thanh thản của người lính trước khi mất. Ở đây chết không phải là sự hi sinh mà là sự trở về với đất mẹ. Và để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông Mã đã gầm lên khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với cõi bất tử.

    Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, ngôn từ tinh tế, sắc sảo Quang Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến vừa mang trong mình ý chí, nghị lực kiên cường như bao chiến sĩ khác, vừa mang chiều sâu tâm hồn tài hoa lãng mạn, một nét vẽ rất riêng. Hình tượng người lính Tây Tiến chính là linh hồn cho toàn bộ bài thơ, nó đi vào văn học Việt Nam nhưng một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.

Đề bài: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

    Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong Đồng Chí – Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tấy Tiến trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.

   Tây Tiến là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, bởi vậy chân dung người lính cũng được tác giả tái hiện tương tự như vậy. Những người lính Tây Tiến không còn cái e dè thuở ban đầu như những người lính trong bài Đồng chí, mà đã mang trong mình nét vừa hóm hỉnh, vừa hiên ngang, mà cũng rất đỗi tài hoa của những người dân xuất thân từ tầng lớp trí thức.

   Bài thơ được Quang Dũng mở đầu bằng nỗi nhớ chơi vơi, khắc khoải:

       Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

       Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

   Ta từng biết đến nỗi nhớ tha thiết, bổi hổi “như đứng đống lửa, như ngồi đống than” của những chàng trai cô gái đang yêu nhau trong ca dao,… nhưng ta lại chưa từng thấy nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó là một nỗi nhớ thật đặc biệt, thật ấn tượng. Tuy là chơi với ấy nhưng vô cùng thâm trầm, sâu sắc, thấm đượm. Và cũng từ chính nỗi nhớ ấy, Quang Dũng truy dòng hồi tưởng nhớ về những người đồng chí của mình.

   Hình ảnh đầu tiên mà ông nhớ đến chính là những đoàn quân hành quân trong màn sương dày dặc: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Một nét vẽ thật hiện thực, thật trần trụi về hành trình chiến đấu gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với thiếu thốn về vật chất, mà còn phải đối mặt với thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng đằng sau đó cũng lại cho ta thấy tinh thần quật cường của những người lính này.

       Anh bạn dãi dầu không bước nữa

       Gục lên súng mũ bỏ quên đời

   Trên đường hành quân dài ngày, người lính phải đối mặt với vô vàn khó khan: địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang dã, đầy nguy hiểm,… bởi vậy không ít người đã phải bỏ mạng ở nơi rừng thiêng nước độc. Cách gọi anh bạn của tác giả cũng đây thân thương, gần gũi mà cũng trân trọng, xót thương. Cách nói giảm nói tránh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” khiến cho cái chết trở nên bớt bi thương hơn, đồng thời cũng khiến cho tổng thể văn bản không nhuốm màu sắc bi lụy.

   Sau những nét vẽ thấp thoáng, nhòa nhạt phải đến tận khổ thơ thứ ba chân dung của người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:

       Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

       Quân xanh màu lá dữ oai hùm

   Đây chính là hình ảnh trung tâm, phối ứng hòa hợp với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên cũng là vẻ đẹp hào hùng của con người – đó chính là binh đoàn Tây Tiến kiên cường, anh dũng. Họ là những con người không nề hà, khó khăn, gian khổ, mang sức trẻ, niềm tin, khao khát lên đường. Bởi vậy với căn bệnh sốt rét rừng họ không hề sợ hãi né tránh, cách nói thật chủ động: “không mọc tóc” khẳng định khí thế bản lĩnh của bản thân. Màu xanh của da cũng như hòa với màu lá của rừng, đầy oai hùng, dữ dội. Họ hiện lên thật oai phong, ngạo nghễ những đồng thời cũng vô cùng lãng mạn, hào hoa:

       Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

       Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

   Đây quả là một thái cực hoàn toàn trái ngược, mà ta khó có thể hình dung nổi lại tồn tại song song và hòa hợp đến thế trong người lính Tây Tiến. Trong câu thơ đầu, hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với hùng tâm tráng trí của kẻ làm trai: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. Và nó được thể hiện cái đôi mắt trừng đầy cảnh giác, đầy căm phẫn với kẻ thù, thể hiện lí tưởng anh dũng, hào hùng, thể hiện khát vọng vươn cao hơn, xa hơn. Nhưng câu thơ sau lại dịu dàng, mơ mộng biết mấy. Dáng kiều thơm, vừa có dáng hình, vừa có mùi hương, thật thơ mộng và lãng mạn biết bao. Hình ảnh những người con gái đẹp Hà thành xuất hiện làm với bớt cái khắc nghiệt của chiến tranh, tiếp thêm một nguồn sức mạnh mới cho người chiến sĩ.

   Ngay khổ thơ sau đó, Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào hiện thực, hiện thực chết chóc, đầy bi thương:

       Rải rác biên cương mồ viễn xứ

       Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

   Vì chiến tranh, vì môi trường khí hậu khắc nghiệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ mạng trên đường hành quân, những nấm mồ rải rác nơi biên cường lãnh lẽo, xa xôi. Câu thở sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cường, viễn xứ tạo nên sự trang nghiêm, tôn kính. Và câu thơ tiếp theo càng làm bật lên khí phách của người chiến sĩ, họ ra đi chẳng tiếc khoảng thanh xuân đẹp đẽ, tươi trẻ nhất của mình. Bởi lên đường là họ đã tìm thấy cho mình lí tưởng sống tươi đẹp: hi sinh vì sự độc lập, tự do của tổ quốc. Cũng bởi lí tưởng đó, cái chết của họ cũng được tác giả lí tưởng hóa, trở nên hùng tráng và thiêng liêng hơn:

       Áo bào thay chiếu anh về đất

       Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

   Anh mang trên mình chiếc “áo bào” trở về với đất mẹ, trở về với khởi nguyên. Và tiễn đưa họ là tiếng sống Mã gầm lên, vừa thể hiện sự xót thương, vừa là tiếng gầm của núi sông cảm ơn những người con dũng cảm đã sẵn mình xả thân cho mảnh đất này.

   Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chân dung những người lính vô danh đã được Quang Dũng tạc lên vô cùng anh dũng, đẹp đẽ. ở họ vừa có cái ngang tang, phí phách của một người anh hùng, nhưng cũng vô cùng lãng mạn hào hoa của một kẻ sĩ đất Bắc. Chính họ, những con người vô danh ấy lên đường, cống hiến tuổi trẻ, hi sinh bản thân để dành được độc lập cho tổ quốc, chính họ là người đã làm nên Đất Nước.

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

   Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác trên nhiều mảng nghệ thuật khác nhau: Viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc,… nhưng thành công hơn cả là ở những sáng tác thơ ca. Tên tuổi của ông được khẳng định với bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm này đã cho người đọc thấy hình ảnh một người lính vừa lãng mạn, hào hoa mà cũng vô cùng kiên trung, dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt tạo nên sự thành công cho tác phẩm này.

   Với vẻ đẹp lãng mạn hào hoa, người lính Tây Tiến được tác giả Quang Dũng viết bằng bút pháp lãng mạn. Ở họ, trước hết mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng. Họ là những người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, đến vùng đất biên cương phía tây của Tổ quốc để chiến đấu. Dù hiện thực khắc nghiệt, nhưng không thể mài mòn tâm hồn lãng mạn, yêu đời vốn có của họ. Sự hào hoa, lãng mạn của họ được thể hiện trong cách cảm nhận núi rừng và thiên nhiên. Một thiên nhiên thật dữ dội, và hiểm trở:“Dốc lên khúc khủy, dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Nhưng đó cũng là một thiên nhiên đầy lãng mạn qua cảm quan của người lính:

       Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

   Thiên nhiên Tây Bắc được cảm nhận một cách vô cùng độc đáo, vừa hùng vĩ, hiểm nguy mà cũng đầy tưới tắn, nên thơ. Hình ảnh những bông hoa trôi theo dòng nước lũ như một nét vẽ khác, làm cân bằng bức tranh nơi đây, cũng là cân bằng tâm trạng của những người lính.

   Trong hành trình chiến đấu đầy gian khổ, không tránh khỏi những hi sinh, nhưng những người lính vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai từ những chuyển biến tế vi nhất của hiện thực. Họ hạnh phúc, sung sướng khi ngửi thấy hương nếp hoa bừng lên, họ như được sống những ngày tháng ở quê hương:

       Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

   Họ nao lòng, say sưa trong điệu nhảy man điệu của những người con gái Tây Bắc:

         Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

       Kìa em xiêm áo tự bao giờ

       Khèn lên man điệu, nàng e ấp

       Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

   Đây có lẽ là những giây phúc nghỉ ngơi hiếm hoi của những người lính trong quá trình hành quân. Họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những người thiếu nữ nơi núi rừng, vẻ đẹp vừa có cái hoang dại, mà cũng vô cùng tình tứ. Hòa cùng tiếng khèn man điệu, những thiếu nữ e ấp, đa xthuwjc sự là nhà thơ say xưa, kinh ngạc. sự lãng mạn của người lình còn thể hiện trong giấc mơ gửi về quê hương:

       Mắt trừng gửi mộng qua biến giới

       Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

   Nhắc đến dáng kiều thơm hắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những người con gái Hà thành thướt tha trong tà áo dài trắng. Nó không hề thể hiện cái buồn rớt, mộng rớt của người trí thức tiểu tư sản, mà hình ảnh người thiếu nữ kia như một liều thuốc giúp họ có thêm tinh thần, động lực, bảo vệ biên giới: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” – họ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo quê hương, Tổ quốc.

   Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, người lính còn hiện lên với nét vẽ chân thực, hình tượng của họ trở nên gân guốc, rắn rỏi hơn bao giờ hết. Rừng núi hoang vu, hiểm trở không ít người đã bỏ mạng nơi chiến trường: “Anh bạn rãi rầu không bước nữa/ gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Những người còn kiên cường đi tiếp quả là những người anh hùng. Nhưng họ vẫn bị rừng thiêng nước độc dày vò đến thảm thương:

         Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

       Quân xanh màu lá dữ oai hùm

   Đây chính là hiện thực hết sức khốc liệt mà người lính phải đối mặt. Không mọc tóc, nước da xanh như tàu lá do những cơn sốt rét rừng, chúng làm cho người lính tùy tụy, bị bệnh tật hành hạ. Nhiều người hi sinh không phải trên sa trường mà hi sinh chính bởi rừng thiêng nước độc. Nhưng không vì thế mà họ đánh mất vẻ uy nghiêm của mình: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Họ vẫn mang trong mình vẻ oai phong, đôi mắt luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bất cứ khi nào giặc xuất hiện.

       Rải rác biên cương mồ viễn xứ

       

       Sông Mã gầm lên khúc độc hành

   Người lính Tây Tiến hi sinh cả tuổi thanh xuân, chiến đấu vì bình yên của Tổ quốc. Khi họ hi sinh vẫn ánh lên tinh thần quật cường, là áo bào, là về đất, là tiếng sông Mã gầm lên đưa những người chiến sĩ quả cảm về với đất mẹ. Về với đất mẹ chính là để anh được sống mãi, trường tồn với non sông, đất nước. Đoạn thơ có bi mà không lụy, nó là chất bi tráng, hào hùng, là nét hiên ngang, dũng cảm của những người lính.

   Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh người lính thật khác. Kết hợp linh hoạt, hài hòa giữa chất lãng mạn và hiện thực người lính hiện lên vừa mang trong mình cái hào hoa, phong nhãn nhưng đồng thời toát lên sự anh hùng, dũng cảm, những người con mang cả tuổi thanh xuân cống hiến cho đất nước.

Đề bài: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

I. Mở bài

– Giới thiệu một vài nét khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. – Tập trung giới thiệu về hình tượng người lính trong bài thơ.

II. Thân bài

– Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: họ là ai, xuất thân của họ, cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ là gì?

1. Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường

– Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao hiểm nguy ở miền núi Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

    + Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”

    + Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.

    + Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.

    + Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.

    + Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.

– Họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, bệnh tật: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

2. Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa

– Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

– Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

– Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:

    + Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.

    + Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

    + Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”

    + Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

– Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

3. Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

    + Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.

    + Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.

    + Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

    + Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi)

– Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.

– Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối, tương phản, .. sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.

– Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường luôn có tâm hồn lãng mạn, hào hoa, mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng.

    Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biết là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sáng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.

    Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lư Chanh, sau khi nhà thơ dời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này đã cho thấy toàn bộ tác phẩm thấm đẫm trong nõi nhớ vừa tha thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.

    Trong phần một và hai của bài thơ, nổi bật hơn cả là bức tranh thiên nhiên và con người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình ảnh người lính Tây Tiến chỉ xuất hiện một cách gián tiếp, nhưng cũng đã phần nào cho người đọc hình dung về hình ảnh của họ. Sang đến phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như tài năng của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững về người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại hình cho đến tâm hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.

    Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất hiện thực:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực: không mọc tóc, quân xanh màu lá. Những hình ảnh này đã xé bỏ tất cả cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về cuộc sống cũng như sinh hoạt của người lính. Để đưa người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc khi do sự thiếu thốn về vật chất cũng nhưng sự hành hạ của bênh sốt rét rừng, hình ảnh những người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung hết sức kì lạ: tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được các thơ khác đề cập đến như:

    Cuộc đời gió bụi pha sương máu

    Đói rét bao lần xé thịt da

    Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

    Đâu còn tươi nữa những ngày hoa

    Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải là hiện thực trần trụi đó, mà từ hiện thực ấy nhấn mạnh vào ý chí, nghị lực phi thường của người lính. Bởi vậy, nó đối lập với khó khăn, khắc nghiệt là hình ảnh người lính hết sức oai phong. Dù nước da có xanh xao nhưng ở đó vẫn hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi cũng như bản lĩnh ngang tàng, sẵn sàng vượt lên khó khăn của người chiến sĩ.

    Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất đối lập nhưng kì thực lại rất thống nhất trong tâm hồn người lính Tây Tiến, đó chính là tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Hình ảnh “mắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội mà người lính dành cho kẻ thù. Ở đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc và khát vọng giết giặc lập công, bảo vệ quê hương. Giấc mộng của người lính là phương diện dễ nhận thấy nhất ở bất cứ người chiến sĩ nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác giả ở chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn người lính. Hình ảnh “dáng kiều thơm” chính là dáng người thướt tha, mền mại của những cô gái Hà Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa sữa nồng nàn đặc trưng của Hà Nội. Chính giấc mộng đó là động lực để họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây Quang Dũng lại đưa thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi, biên viễn với những nấm mồ rải rác tạo nên cảm giac xót xa, tang tóc, thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không rơi vào sự bi lụy, bởi ngay sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định lí tưởng của người lính Tây Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây Tiến ý thức rất rõ về quãng đời “xanh” – tuổi trẻ, mơ ước, khát vọng, đồng thời họ cũng ý thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi sinh. Nhưng cách ứng xử của người lính với cái chết không phải là sự run rẩy sợ hãi, mà là sự lựa chọn dứt khoát, chủ động. Hai chử “chẳng tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều đó. Nhà thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa chọn giữa sống vào chết từ đó làm bật lên lí tưởng sống cao đẹp của họ. Lí tưởng sống cao đẹp đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến mà còn là của tất cả những người lính: “Chúng tôi đã đi không tiếc đới mình/ Nhưng tuổi hai mười làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng tôi xin chết”.

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Câu thơ đầu tiếp tục là nét chạm khắc vô cùng chân thực về hiện thực thiếu thốn không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình chiến đấy mà còn theo họ đến tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có, họ phải lấy manh chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang Dũng đã nâng cái chết có phần xót xa trở thành cái chết vô cùng trang trọng, khi khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai chữ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ nhàng, thanh thản của người lính trước khi mất. Ở đây chết không phải là sự hi sinh mà là sự trở về với đất mẹ. Và để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông Mã đã gầm lên khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với cõi bất tử.

    Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, ngôn từ tinh tế, sắc sảo Quang Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến vừa mang trong mình ý chí, nghị lực kiên cường như bao chiến sĩ khác, vừa mang chiều sâu tâm hồn tài hoa lãng mạn, một nét vẽ rất riêng. Hình tượng người lính Tây Tiến chính là linh hồn cho toàn bộ bài thơ, nó đi vào văn học Việt Nam nhưng một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.

    Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong Đồng Chí – Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tấy Tiến trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.

    Tây Tiến là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, bởi vậy chân dung người lính cũng được tác giả tái hiện tương tự như vậy. Những người lính Tây Tiến không còn cái e dè thuở ban đầu như những người lính trong bài Đồng chí, mà đã mang trong mình nét vừa hóm hỉnh, vừa hiên ngang, mà cũng rất đỗi tài hoa của những người dân xuất thân từ tầng lớp trí thức.

    Bài thơ được Quang Dũng mở đầu bằng nỗi nhớ chơi vơi, khắc khoải:

    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

    Ta từng biết đến nỗi nhớ tha thiết, bổi hổi “như đứng đống lửa, như ngồi đống than” của những chàng trai cô gái đang yêu nhau trong ca dao,… nhưng ta lại chưa từng thấy nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó là một nỗi nhớ thật đặc biệt, thật ấn tượng. Tuy là chơi với ấy nhưng vô cùng thâm trầm, sâu sắc, thấm đượm. Và cũng từ chính nỗi nhớ ấy, Quang Dũng truy dòng hồi tưởng nhớ về những người đồng chí của mình.

    Hình ảnh đầu tiên mà ông nhớ đến chính là những đoàn quân hành quân trong màn sương dày dặc: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Một nét vẽ thật hiện thực, thật trần trụi về hành trình chiến đấu gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với thiếu thốn về vật chất, mà còn phải đối mặt với thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng đằng sau đó cũng lại cho ta thấy tinh thần quật cường của những người lính này.

    Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời

    Trên đường hành quân dài ngày, người lính phải đối mặt với vô vàn khó khan: địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang dã, đầy nguy hiểm,… bởi vậy không ít người đã phải bỏ mạng ở nơi rừng thiêng nước độc. Cách gọi anh bạn của tác giả cũng đây thân thương, gần gũi mà cũng trân trọng, xót thương. Cách nói giảm nói tránh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” khiến cho cái chết trở nên bớt bi thương hơn, đồng thời cũng khiến cho tổng thể văn bản không nhuốm màu sắc bi lụy.

    Sau những nét vẽ thấp thoáng, nhòa nhạt phải đến tận khổ thơ thứ ba chân dung của người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Đây chính là hình ảnh trung tâm, phối ứng hòa hợp với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên cũng là vẻ đẹp hào hùng của con người – đó chính là binh đoàn Tây Tiến kiên cường, anh dũng. Họ là những con người không nề hà, khó khăn, gian khổ, mang sức trẻ, niềm tin, khao khát lên đường. Bởi vậy với căn bệnh sốt rét rừng họ không hề sợ hãi né tránh, cách nói thật chủ động: “không mọc tóc” khẳng định khí thế bản lĩnh của bản thân. Màu xanh của da cũng như hòa với màu lá của rừng, đầy oai hùng, dữ dội. Họ hiện lên thật oai phong, ngạo nghễ những đồng thời cũng vô cùng lãng mạn, hào hoa:

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Đây quả là một thái cực hoàn toàn trái ngược, mà ta khó có thể hình dung nổi lại tồn tại song song và hòa hợp đến thế trong người lính Tây Tiến. Trong câu thơ đầu, hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với hùng tâm tráng trí của kẻ làm trai: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. Và nó được thể hiện cái đôi mắt trừng đầy cảnh giác, đầy căm phẫn với kẻ thù, thể hiện lí tưởng anh dũng, hào hùng, thể hiện khát vọng vươn cao hơn, xa hơn. Nhưng câu thơ sau lại dịu dàng, mơ mộng biết mấy. Dáng kiều thơm, vừa có dáng hình, vừa có mùi hương, thật thơ mộng và lãng mạn biết bao. Hình ảnh những người con gái đẹp Hà thành xuất hiện làm với bớt cái khắc nghiệt của chiến tranh, tiếp thêm một nguồn sức mạnh mới cho người chiến sĩ.

    Ngay khổ thơ sau đó, Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào hiện thực, hiện thực chết chóc, đầy bi thương:

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Vì chiến tranh, vì môi trường khí hậu khắc nghiệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ mạng trên đường hành quân, những nấm mồ rải rác nơi biên cường lãnh lẽo, xa xôi. Câu thở sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cường, viễn xứ tạo nên sự trang nghiêm, tôn kính. Và câu thơ tiếp theo càng làm bật lên khí phách của người chiến sĩ, họ ra đi chẳng tiếc khoảng thanh xuân đẹp đẽ, tươi trẻ nhất của mình. Bởi lên đường là họ đã tìm thấy cho mình lí tưởng sống tươi đẹp: hi sinh vì sự độc lập, tự do của tổ quốc. Cũng bởi lí tưởng đó, cái chết của họ cũng được tác giả lí tưởng hóa, trở nên hùng tráng và thiêng liêng hơn:

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Anh mang trên mình chiếc “áo bào” trở về với đất mẹ, trở về với khởi nguyên. Và tiễn đưa họ là tiếng sống Mã gầm lên, vừa thể hiện sự xót thương, vừa là tiếng gầm của núi sông cảm ơn những người con dũng cảm đã sẵn mình xả thân cho mảnh đất này.

    Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chân dung những người lính vô danh đã được Quang Dũng tạc lên vô cùng anh dũng, đẹp đẽ. ở họ vừa có cái ngang tang, phí phách của một người anh hùng, nhưng cũng vô cùng lãng mạn hào hoa của một kẻ sĩ đất Bắc. Chính họ, những con người vô danh ấy lên đường, cống hiến tuổi trẻ, hi sinh bản thân để dành được độc lập cho tổ quốc, chính họ là người đã làm nên Đất Nước.

   Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác trên nhiều mảng nghệ thuật khác nhau: Viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc,… nhưng thành công hơn cả là ở những sáng tác thơ ca. Tên tuổi của ông được khẳng định với bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm này đã cho người đọc thấy hình ảnh một người lính vừa lãng mạn, hào hoa mà cũng vô cùng kiên trung, dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt tạo nên sự thành công cho tác phẩm này.

    Với vẻ đẹp lãng mạn hào hoa, người lính Tây Tiến được tác giả Quang Dũng viết bằng bút pháp lãng mạn. Ở họ, trước hết mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng. Họ là những người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, đến vùng đất biên cương phía tây của Tổ quốc để chiến đấu. Dù hiện thực khắc nghiệt, nhưng không thể mài mòn tâm hồn lãng mạn, yêu đời vốn có của họ. Sự hào hoa, lãng mạn của họ được thể hiện trong cách cảm nhận núi rừng và thiên nhiên. Một thiên nhiên thật dữ dội, và hiểm trở:“Dốc lên khúc khủy, dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Nhưng đó cũng là một thiên nhiên đầy lãng mạn qua cảm quan của người lính:

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

    Thiên nhiên Tây Bắc được cảm nhận một cách vô cùng độc đáo, vừa hùng vĩ, hiểm nguy mà cũng đầy tưới tắn, nên thơ. Hình ảnh những bông hoa trôi theo dòng nước lũ như một nét vẽ khác, làm cân bằng bức tranh nơi đây, cũng là cân bằng tâm trạng của những người lính.

    Trong hành trình chiến đấu đầy gian khổ, không tránh khỏi những hi sinh, nhưng những người lính vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai từ những chuyển biến tế vi nhất của hiện thực. Họ hạnh phúc, sung sướng khi ngửi thấy hương nếp hoa bừng lên, họ như được sống những ngày tháng ở quê hương:

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

    Họ nao lòng, say sưa trong điệu nhảy man điệu của những người con gái Tây Bắc:

    Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Khèn lên man điệu, nàng e ấp

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

    Đây có lẽ là những giây phúc nghỉ ngơi hiếm hoi của những người lính trong quá trình hành quân. Họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những người thiếu nữ nơi núi rừng, vẻ đẹp vừa có cái hoang dại, mà cũng vô cùng tình tứ. Hòa cùng tiếng khèn man điệu, những thiếu nữ e ấp, đa xthuwjc sự là nhà thơ say xưa, kinh ngạc. sự lãng mạn của người lình còn thể hiện trong giấc mơ gửi về quê hương:

    Mắt trừng gửi mộng qua biến giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Nhắc đến dáng kiều thơm hắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những người con gái Hà thành thướt tha trong tà áo dài trắng. Nó không hề thể hiện cái buồn rớt, mộng rớt của người trí thức tiểu tư sản, mà hình ảnh người thiếu nữ kia như một liều thuốc giúp họ có thêm tinh thần, động lực, bảo vệ biên giới: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” – họ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo quê hương, Tổ quốc.

    Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, người lính còn hiện lên với nét vẽ chân thực, hình tượng của họ trở nên gân guốc, rắn rỏi hơn bao giờ hết. Rừng núi hoang vu, hiểm trở không ít người đã bỏ mạng nơi chiến trường: “Anh bạn rãi rầu không bước nữa/ gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Những người còn kiên cường đi tiếp quả là những người anh hùng. Nhưng họ vẫn bị rừng thiêng nước độc dày vò đến thảm thương:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Đây chính là hiện thực hết sức khốc liệt mà người lính phải đối mặt. Không mọc tóc, nước da xanh như tàu lá do những cơn sốt rét rừng, chúng làm cho người lính tùy tụy, bị bệnh tật hành hạ. Nhiều người hi sinh không phải trên sa trường mà hi sinh chính bởi rừng thiêng nước độc. Nhưng không vì thế mà họ đánh mất vẻ uy nghiêm của mình: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Họ vẫn mang trong mình vẻ oai phong, đôi mắt luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bất cứ khi nào giặc xuất hiện.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ…

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Người lính Tây Tiến hi sinh cả tuổi thanh xuân, chiến đấu vì bình yên của Tổ quốc. Khi họ hi sinh vẫn ánh lên tinh thần quật cường, là áo bào, là về đất, là tiếng sông Mã gầm lên đưa những người chiến sĩ quả cảm về với đất mẹ. Về với đất mẹ chính là để anh được sống mãi, trường tồn với non sông, đất nước. Đoạn thơ có bi mà không lụy, nó là chất bi tráng, hào hùng, là nét hiên ngang, dũng cảm của những người lính.

    Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh người lính thật khác. Kết hợp linh hoạt, hài hòa giữa chất lãng mạn và hiện thực người lính hiện lên vừa mang trong mình cái hào hoa, phong nhãn nhưng đồng thời toát lên sự anh hùng, dũng cảm, những người con mang cả tuổi thanh xuân cống hiến cho đất nước.

Đề bài: Bình giảng khổ 2 trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    (…) Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Bài làm

   Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:

    “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.

   Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

   

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

   Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Khèn lên man điệu nàng e ấp

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

   Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hao trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.

   Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:

    “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

    Có nhớ dáng người trên độc mộc

    Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”.

   “Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:

    “Sương đầu núi buổi chiều như dội,

    Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”

           (Chinh phụ ngâm)

   Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:

    “Ngàn lau cười trong nắng

    Hồn của mùa thu về

    Hồn mùa thu sắp đi

    Ngàn lau xao xác trắng”.

           (Lau mùa thu – Chế Lan Viên)

   Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.

   Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.

   Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.

   Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

Đề bài: Bình giảng khổ 3 trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    (…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Bài làm

    “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.

    Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    (…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

    Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

    Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

    Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

    “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

    Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

    “Từ chiến khu xa

    Nhớ về ái ngại

    Lấy chồng thời chiến tranh

    Mấy người đi trở lại

    Lỡ khi mình không về

    Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”

    Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

    Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bỗ trợ, tô đậm chân dung người lính:

    “Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Áo bào thay chiếu anh về đất,

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

    Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo về độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thưở ấy:

    “Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

    Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

    Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

    “Anh Vệ quốc quân ơi

    Sao mà yêu anh thế!”

             (Cá nước – 1947, Tố Hữu)

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

    “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

    (…) Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Bài làm

    Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thách thức gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng.

    Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng chí” (Chính Hữu) , “Nhớ” (Nguyên Hồng)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng.

    Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ những kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

    “Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

    Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

    “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.

    Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi với” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

    Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến, không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

    “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

    Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới: “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành 2 vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ như mái nhà chọc trời được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.

    Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ dệt bằng những thanh liên tiếp, gợi sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

    Trước đây Đặng Trần Côn, trong “Chinh phụ ngâm” cũng đã viết về cảnh tượng chiến trường:

    “Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

    Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,

    Hình khe thế núi gần xa

    Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.

    Sương đầu núi buổi chiều như dội

    Nước lòng khe nẻo suổi còn sâu.

    Não người áo giáp bấy lâu,

    Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây…”

             (Đoàn Thị Điểm dịch)

    Thật là hãi hùng khủng khiếp! Nhưng đó chỉ là những ước lệ tượng trưng, những tưởng tượng của nàng chinh phụ. Chàng chinh phu mới ngày nào đó còn “Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu”, thì nay đã mệt mỏi, nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ vợ con héo hon cả ruột. Có đặt 2 đoạn thơ cạnh nhau, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp tráng chí của “anh bộ đội Cụ Hồ”, cảm nhận được cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng.

    Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ làmưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

    “Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

    “Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn luôn chỉ rõ cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, bang lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và chí khí con người được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng không hề né tránh khi nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

    “Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”.

    Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh nhưng không chút bi lụy, thảm thương. “Bỏ quên đời” vì các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

    Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm. Vừa bâng khuâng vừa tự hào:

    “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

    “Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đạm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở về uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân ấy, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

    “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

    Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

    Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

    Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.

    “Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

    Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, ngày một thêm sáng giá.

Đề bài: Cảm nhận của em về bốn câu thơ cuối bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

    “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

    (…) Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Bài làm

    Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

    “Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi

    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

    Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.

    Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng Chí” của Chính Hữu. “Tây Tiến”của Quang Dũng và…

    “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1020

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống