Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài làm

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

II. Thân bài

1. Ý nghĩa nhan đề: “vợ nhặt” nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

2. Tình huống truyện

– Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.

– Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.

– Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.

3. Nhân vật Tràng

– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

    + Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

    + Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

    + Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

    + Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

    + Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

    + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

    + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

    + Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trì và vị trí của người đan bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đỏi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

4. Nhân vật người vợ nhặt

a. Lai lịch

– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

b. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

c. Phẩm chất

– Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

5. Nhân vật bà cụ Tứ

– Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

– Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.

– Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoàn đi ”:thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài làm

    Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.

    Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng 8 thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.

    Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn làn, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.

    Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.

    Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.

    Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.

    Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũ vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.

    Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, phớn phở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng ngịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.

    Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuê mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

    Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lên trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.

    Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gày và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chat, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chj ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.

    Nhưng đằng sao sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không giành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ, bà dặn dò hai vợ chồng mới. Nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.

    Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích phân tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Bài làm

   Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện thực khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một nhà văn hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng, mà còn rất nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.

   Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo mó trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến cùng cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình người, tình yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ. Nhân đạo chính là ở chỗ đó.

   Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc, thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng lởn vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang còn sống. Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối với anh “chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai thô kệch, xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không được khôn ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đôi khi tự ngửa cổ lên trời mà cười hềnh hệch. Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân xóm ngụ cư, cảng được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận cùng của sự khổ sở và đau đớn.

   Nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự kiện chàng có vợ. Một cô vợ được nhặt về. Càng lạ hơn là trong thời buổi, lo cho mình còn chưa xong, mà Tràng lại sẵn sang đèo bòng thêm một người phụ nữ, thêm một miếng ăn cho chính mình. Liệu đây có phải là một phút bồng bột nhất thời của người đàn ông này hay không? Nhưng đó quả thực không phải là một quyết định nhất thời, mà quyết định đó xuất phát từ tình yêu thương, từ khát khao hạnh phúc rất đỗi bình thường của mỗi con người. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, một kẻ tứ cố vô thân, gầy đen như sắp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn nhân của những con người cùng khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật dường như nhà văn đã đánh cược với tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.

   Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có một mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa hồ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và đơn sơ, nó có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân hôn tuyệt vời có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon ghẽ, thấy người vợ quét tước dọn dẹp, lại bừng lại trong cgangf khát vọng vun vén cho gia đình. Cuộc sống, chao ôi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc dù ngay sau đó hiện thực lại ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vô cùng thảm hại, nhưng ai cũng thấy ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát vọng về tương lai tốt đẹp.

   Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà, bà vừa lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thông và chúc phúc cho hai người, rồi bà còn tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Có người mẹ nào lại không muốn con mình, yên ấm, hanh phúc. Nhưng vì hoàn cảnh mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính bà cũng tự hiểu: ôi, người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong có con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mới có được vợ … chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Bà không chỉ thương con trai mà thương cả người con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng thương. Nhưng trong bà cũng không thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vạch ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.

   Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.

   Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

– Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

II. Thân bài

1. Ý nghĩa nhan đề: “vợ nhặt” nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

2. Tình huống truyện

– Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.

– Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.

– Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.

3. Nhân vật Tràng

– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

    + Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

    + Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

    + Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

    + Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

    + Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

    + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

    + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

    + Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trì và vị trí của người đan bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đỏi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

4. Nhân vật người vợ nhặt

a. Lai lịch

– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

b. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

c. Phẩm chất

– Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

5. Nhân vật bà cụ Tứ

– Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

– Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.

– Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoàn đi ”:thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

   Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.

    Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng 8 thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.

    Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn làn, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.

    Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.

    Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.

    Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.

    Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũ vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.

    Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, phớn phở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng ngịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.

    Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuê mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

    Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lên trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.

    Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gày và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chat, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chj ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.

    Nhưng đằng sao sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không giành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ, bà dặn dò hai vợ chồng mới. Nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con. Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích phân tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.

   Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện thực khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một nhà văn hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng, mà còn rất nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.

    Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo mó trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến cùng cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình người, tình yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ. Nhân đạo chính là ở chỗ đó.

    Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc, thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng lởn vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang còn sống. Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối với anh “chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai thô kệch, xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không được khôn ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đôi khi tự ngửa cổ lên trời mà cười hềnh hệch. Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân xóm ngụ cư, cảng được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận cùng của sự khổ sở và đau đớn.

    Nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự kiện chàng có vợ. Một cô vợ được nhặt về. Càng lạ hơn là trong thời buổi, lo cho mình còn chưa xong, mà Tràng lại sẵn sang đèo bòng thêm một người phụ nữ, thêm một miếng ăn cho chính mình. Liệu đây có phải là một phút bồng bột nhất thời của người đàn ông này hay không? Nhưng đó quả thực không phải là một quyết định nhất thời, mà quyết định đó xuất phát từ tình yêu thương, từ khát khao hạnh phúc rất đỗi bình thường của mỗi con người. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, một kẻ tứ cố vô thân, gầy đen như sắp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn nhân của những con người cùng khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật dường như nhà văn đã đánh cược với tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.

    Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có một mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa hồ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và đơn sơ, nó có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân hôn tuyệt vời có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon ghẽ, thấy người vợ quét tước dọn dẹp, lại bừng lại trong cgangf khát vọng vun vén cho gia đình. Cuộc sống, chao ôi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc dù ngay sau đó hiện thực lại ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vô cùng thảm hại, nhưng ai cũng thấy ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát vọng về tương lai tốt đẹp.

    Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà, bà vừa lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thông và chúc phúc cho hai người, rồi bà còn tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Có người mẹ nào lại không muốn con mình, yên ấm, hanh phúc. Nhưng vì hoàn cảnh mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính bà cũng tự hiểu: ôi, người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong có con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mới có được vợ … chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Bà không chỉ thương con trai mà thương cả người con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng thương. Nhưng trong bà cũng không thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vạch ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.

    Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.

    Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.

Đề bài: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh

– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …

– Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

2. Tâm trạng và hàng động

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

    + Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

    + Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

    + Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

    + Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

    + Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

    + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

    + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

    + Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trì và vị trí của người đan bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đỏi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.

– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Đề bài: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm

    Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm dã dựng lên cuộc đời, số phận của người dân Việt Nam trong năm 1945 với nạn đói khủng khiếp khi hơn hai triệu người chết đói. Và tất cả đã được phản ánh đầy đủ thông qua nhân vật Tràng – nhân vật trung tâm của tác phẩm.

    Nhân vật Tràng có hoàn cảnh, số phận bi đát, đáng thương tiêu biểu cho số phận của những người nông dân trước năm 1945. Nhà văn Kim Lân đã phác họa một vài nét về ngoại hình của nhân vật: quai hàm bạnh ra, dáng đi ngật ngưỡng, lưng to bè như lưng gấu. Tuy chỉ là vài nét nhưng lại cho thấy sự quê mùa, thô kệch, xấu xí ở hình dáng của nhân vật này. Đồng thời hình dáng nhân vật cũng im đậm dấu ấn nghề nghiệp, quanh năm phải gồng mình kéo xe, nên dáng người thô kệch, gương mặt trở nên lam lũ, khắc khổ.

    Mặc dù là một người trưởng thành, nhưng tính cách của Tràng còn vương lại rất nhiều nét hồn nhiên, thậm chí ngờ ngệch của trẻ con. Tràng thường xuyên trêu đùa với lũ trẻ, rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ngoài ra, gia cảnh của Tràng cũng hết sức khốn khổ. Cha mất, chỉ còn lại hai mẹ con Tràng sống với nhau, ngôi nhà nơi hai mẹ con ở dúm dó, siêu vẹo và mảnh vườn lổn nhổn đầy cỏ dại. Không chỉ vậy, Tràng còn là dân ngụ cư, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ, không được phân chia ruộng đất, không được sinh hoạt cùng cộng đồng. Bằng cái nhìn đầy cảm thương, Kim Lân đã ghi lại hình ảnh lam lũ, vất vả của Tràng. Từ tính cách cho đến gia cảnh, nghề nghiệp cho thấy Tràng hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ.

    Một người hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ như Tràng nhưng lại lấy được vợ hết sức nhanh chóng, chỉ qua hai lần gặp gỡ. Lần đầu, Tràng kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng chỉ hát mấy câu vu vơ: “Muốn ăn cơm trắng mới giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Nhưng câu hò đã nhắc đến miếng ăn, vô tình tác động mạnh đến người đàn bà đã bị bỏ đói lâu ngày, bởi vậy, thị đã ton ton chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ hai, chỉ mất bốn bát bánh đúc và một câu nói đùa “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút đó Tràng chính thức có một người vợ. Câu chuyện Tràng lấy vợ quả là một câu chuyện bi hài. Hài là ở chỗ Tràng lấy được vợ quá đỗi nhanh chóng dễ dàng. Bi là ở chỗ nạn đói đang hoành hành, Tràng còn chưa lo nổi thân mình, lại đi đèo bòng thêm một người khác, không chỉ vậy, đám cưới là sự kiến quan trọng của đời người lại diễn ra hết sức qua loa, chóng vánh.

    Mặc dù sự kiện Tràng lấy vợ diễn ra vô cùng chóng vánh, không có sự chuẩn bị chu đáo, nhưng lại có tác động rất mạnh, khiến cho Tràng có sự thay đổi toàn diện. Trước hết là sự thay đổi tâm lí. Sau khi cô vợ nhặt cùng Tràng về nhà, tâm lí Tràng có sự biến đổi liên tục, đi từ ngạc nhiên đến sung sướng, hạnh phúc, choáng ngợp. Tràng ngạc nhiên bởi không ngờ câu nói đùa của mình, lại khiến người đàn bà kia theo Tràng về thật. Tràng bất giác lo sợ, vì bản thân còn chưa lo xong, lại đèo bòng thêm một người nữa, trong hoàn cảnh nạn đói đang diễn ra tràn lan. Nhưng niềm vui sướng ngập tràn, đã choán lấy tâm chí Tràng, khiến Tràng quyết định bỏ ra hai hào mua dầu về thắp với tâm niệm: “Vợ viếc gì thì cũng phải sáng sủa một tí chứ”. Câu nói có phần quê kệch nhưng lại cho thấy sự tôn trọng của Tràng với vợ, đồng thời hành động đó còn mang ý nghĩa thắp lên niềm tin, hi vọng vào tương lai. Sự xuất hiện của người vợ, đã đem đến cho cuộc sống của Tràng những màu sắc mới mẻ, tương vui cùng với đó là cả niềm tin, hi vọng vào tương lai.

    Không chỉ vậy, Tràng còn có sự thay đổi về tính cách. Trước hết là trong cách ứng xử với lũ trẻ, nếu thường ngày Tràng là bạn của chúng, thì hôm nay khi về cùng cô vợ nhặt, Tràng đã nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không hài lòng với chúng. Sự vô tâm, vô tính hàng ngày biến mất thay vào đó là dáng điệu của một người đàn ông trưởng thành. Sự thay đổi lớn lao nhất chính là khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ. . Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng: “Nhà tôi ó mới về làm bạn với tôi đây u ạ” “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau … chẳng qua nó cũng là cái số cả ….”. Ai có thể ngờ rằng một con người quê mùa, cục mịch, ít học lại có thể nói ra những lời sâu sắc, ý nghĩa đến vậy. Tràng đã bỏ qua cái chóng vánh của cuộc hôn nhân, để tránh sự xấu hổ cho cô vợ. Dùng những lời lẽ trang trọng nhất: duyên số, kiếp để lí giải cho việc lấy vợ của mình. Câu nói tuy giản dị nhưng cho thấy sự trưởng thành trong suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật này, Tràng đã là một người đàn ông thực thụ.

    Sự thay đổi toàn diện và có ý nghĩa nhất trong suy nghĩ và tính cách của Tràng được thể hiện trong buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ. Sự sung sướng hạnh phúc của người đàn ông có vợ “êm ái, lửng lơ như vừa bước từ giấc mơ ra”. Cùng với đó là sự thay đổi bất ngờ, nhanh chóng, Tràng nhận thức được trách nhiệm của bản thân với gia đình, vun vén hạnh phúc cho tổ ấm của mình. Tràng không chỉ dừng lại ở việc biết lo lắng cho mình, mà còn biết lo lắng cho người khác, không còn sống qua quýt tạm bợ, mà biết lo nghĩ cho tương lai.

    Cuối cùng là sự thay đổi trong nhận thức. Cuối tác phẩm hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới, cùng sự kiện phá kho thóc nhất, để lại trong Tràng nỗi ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, trước đó Tràng hoang mang, sợ hãi. Điều này cho thấy trong Tràng có sự thay đổi nhận thức, việc đi theo Đảng, cách mạng như một hệ quả tất yếu để đem lại tự do cho bản thân, và tương lai tốt đẹp cho cả gia đình.

    Tràng đã được nhà văn Kim Lân đặt trong tình huống truyện độc đáo: nhặt được vợ, qua đó khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật. Nghệ thuật phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tự nhiên, hợp lí. Ngôn ngữ tự nhiên, nhuần nhuyễn, giản dị.

    Bằng ngòi bút phân tích tâm lí bậc thầy, ngôn ngữ giản dị mà điều luyện Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Nhân vật đã vẽ nên chân thực cuộc sống của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. Đồng thời cũng thể hiện sự cảm thong, tin yêu của Kim Lân với số phận những người nông dân bất hạnh vào tương lai tươi sáng của họ.

Đề bài: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Bài làm

   Là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam, Kim Lân đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm xuất sắc. Một trong những tác phẩm đó là Vợ nhặt. Tác phẩm lấy bối cảnh vào những năm đen tối nhất của dân tộc ta, khi hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nhưng cũng chính từ đêm đen đó mà ánh sáng tình người lại rực rỡ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của nhân tính, long nhân đạo đó được tập trung nhất trong nhân vật anh cu Tràng.

   Vợ nhặt vốn ban đầu có tên là “Xóm ngụ cư” được Kim Lân chấp bút ngay sau cách mạng tháng Tám. Nhưng sau đó bản thảo bị mất, mãi cho đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, dựa vào cốt truyện đã có, Kim Lân viết lại truyện và đổi nhan đề thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm là chuỗi nhưng oan trái, bi kịch, những bi và hài, nhưng sau tất cả đó là tấm long, tình yêu thương giữa những con người nghèo khổ.

   Tràng được nhà văn Kim Lân dụng bút, miêu tả rất nhiều. Tràng vốn là kẻ sống ngụ cư, gia đình nghèo khổ, em gái và cha đã mất, chỉ còn Tràng và mẹ già sống trong một căn nhà xiêu vẹo, mà bất cứ cơn bão nào cũng có thể thổi bay. Thân là một kẻ sống ở xóm ngụ cứ, đối với bất cứ người nào cũng là điều khổ tâm. Nhưng cuộc đời đưa đẩy, Tràng và mẹ không còn lựa chọn nào khác. Tràng có vẻ nghèo thô kệch, xấu xíu. Gương mặt được Kim lân đặc tả: “hai con mắt nhỏ tí, hai quai hàm bạnh ra” “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước” và đặc biệt tính cách còn dở hơi, đi đường thường nói chuyện một mình và ngửa đầu lên trời cười hềnh hệch. Quả thực dưới ngòi bút của Kim Lân, Tràng bị đẩy đến tận cùng của bất hạnh, hoàn cảnh sống bấp bênh, ngoại hình xấu xí, tính cách dở hơi. Tất cả những yếu tố đó cũng ngầm báo với bạn đọc về việc Tràng có lẽ sẽ phải độc thân đến suốt đời.

   Nhưng đằng sau con người ngờ nghệch đó, lại là một chàng trai vị tha, nhân hậu, có tình yêu thương con người sâu sắc. Tràng và vợ nhặt gặp nhau rất tình cờ, lần đầu tiên là một câu hò vu vợ, thị híp mắt cười tình đến bên Tràng đẩy xe bò. Và lần gặp gỡ thứ hai, càng bất ngờ hơn khi Tràng không thể nhận ra người phụ nữ béo tốt lần trước lại “gầy sọp hẳn đi”, quần áo thì rách rưới như tổ đỉa. Thì ra cái đói có thể hủy hoại con người ta nhanh đến như vậy. Trước tình cảnh đó, ai chẳng động lòng thương cảm, đặc biệt là Tràng, một con người hết sức hiền lành, chân chất, nhân hậu. Thương tình Tràng còn đã thị mấy bát bánh đúc, con buông lời đùa cợt: “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, nhưng nào ngờ thị tin thật, vào theo Tràng về nhà làm vợ. Ban đầu, Tràng cũng thoáng sợ hãi, bởi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng khi hạnh phúc đến, khi long thương người lấn át tất cả, Tràng đã “chậc kệ”. Tràng không nỡ chối bỏ một con người tội nghiệp đến vậy. Tràng mang đôi vai, dương cánh tay giúp đỡ mặc dù hoàn cảnh của gia đình mình cũng chẳng khá khấm hơn là bao nhiêu.

   Không chỉ vậy, Tràng còn là người hết sức ý nhị, tinh tế. Tự bản thân Tràng cũng hiểu, cách mình lấy vợ là một điều đặc biệt, cũng hiểu những e dề ngại ngùng mà người vợ nhặt sẽ có. Bởi vậy, trên đường về nhà, khi những đứa trẻ bông đùa, Tràng như một người khác, không còn vui đùa với chúng mà nghiêm mặt. Chẳng phải đó cũng là cách để bảo vệ người vợ, làm người vợ bớt thẹn thùng đó sao. Đặc biệt, sự tinh tế của Tràng được thể hiện rõ nhất trong màn giới thiệu cô dâu mới với mẹ mình. Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đây u ạ” “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau … chẳng qua nó cũng là cái số cả ….”. Ta không còn thấy sự quê mùa cục mịch ở người đàn ông, mà thay vào đó là một người hiểu chuyện, hiểu long người. Lời giới thiệu đó đã khiến người con gái bớt ngượng ngùng, xóa tan cái bi của cuộc hôn nhân vội vàng, chóng vánh.

   Ngoài ra, Tràng còn là người biết vun bén, có trách nhiệm với gia đình, có niềm tin và mơ ước vào tương lai. Sau đêm tân hôn, Tràng dậy muộn, và cảm thấy bản thân mình đã có sự biển chuyển lớn, tràng thấy “trong người êm ái lửng lơ như từ trong giấc mơ đi ra”. Thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, hai người phụ nữ đang dọn dẹp, lòng Tràng bỗng cảm thấy có ý thức và trách nhiệm hơn bao giờ hết. Giờ Tràng đã có gia đình, đã có người để qan tâm, lo lắng, Tràng bỗng thấy yêu thương và gắn bó với gia đinh biết bao : “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Một cuộc sống mới, đầy tình yêu thương và trách nhiệm đã đến đối với Tràng giữa hoàn cảnh đầy éo le, giữa gianh giới của sự sống và cái chết.

   Với nhân vật Tràng, Kim Lân đã một lần nữa xây dựng thành công chân dung của những con người lao động nghèo khổ, nhưng có tấm lòng nhân hậu và tình yêu thương con người bao la. Ngoài ra cũng cần kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống đặc sắc, đặc nhân vật vào hoàn cảnh éo le, để từ đó giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất đẹp đẽ của bản thân. Tràng là hình tiêu biểu của những người lao động nghèo khổ nhưng có tấm lòng đẹp đẽ, soi sáng, sưới ấm những đêm đen của đất nước.

Đề bài: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

– Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh

– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …

– Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

2. Tâm trạng và hàng động

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

    + Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

    + Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

    + Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

    + Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

    + Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

    + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

    + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

    + Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trì và vị trí của người đan bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đỏi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.

– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

   Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm dã dựng lên cuộc đời, số phận của người dân Việt Nam trong năm 1945 với nạn đói khủng khiếp khi hơn hai triệu người chết đói. Và tất cả đã được phản ánh đầy đủ thông qua nhân vật Tràng – nhân vật trung tâm của tác phẩm.

    Nhân vật Tràng có hoàn cảnh, số phận bi đát, đáng thương tiêu biểu cho số phận của những người nông dân trước năm 1945. Nhà văn Kim Lân đã phác họa một vài nét về ngoại hình của nhân vật: quai hàm bạnh ra, dáng đi ngật ngưỡng, lưng to bè như lưng gấu. Tuy chỉ là vài nét nhưng lại cho thấy sự quê mùa, thô kệch, xấu xí ở hình dáng của nhân vật này. Đồng thời hình dáng nhân vật cũng im đậm dấu ấn nghề nghiệp, quanh năm phải gồng mình kéo xe, nên dáng người thô kệch, gương mặt trở nên lam lũ, khắc khổ.

    Mặc dù là một người trưởng thành, nhưng tính cách của Tràng còn vương lại rất nhiều nét hồn nhiên, thậm chí ngờ ngệch của trẻ con. Tràng thường xuyên trêu đùa với lũ trẻ, rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ngoài ra, gia cảnh của Tràng cũng hết sức khốn khổ. Cha mất, chỉ còn lại hai mẹ con Tràng sống với nhau, ngôi nhà nơi hai mẹ con ở dúm dó, siêu vẹo và mảnh vườn lổn nhổn đầy cỏ dại. Không chỉ vậy, Tràng còn là dân ngụ cư, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ, không được phân chia ruộng đất, không được sinh hoạt cùng cộng đồng. Bằng cái nhìn đầy cảm thương, Kim Lân đã ghi lại hình ảnh lam lũ, vất vả của Tràng. Từ tính cách cho đến gia cảnh, nghề nghiệp cho thấy Tràng hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ.

    Một người hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ như Tràng nhưng lại lấy được vợ hết sức nhanh chóng, chỉ qua hai lần gặp gỡ. Lần đầu, Tràng kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng chỉ hát mấy câu vu vơ: “Muốn ăn cơm trắng mới giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Nhưng câu hò đã nhắc đến miếng ăn, vô tình tác động mạnh đến người đàn bà đã bị bỏ đói lâu ngày, bởi vậy, thị đã ton ton chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ hai, chỉ mất bốn bát bánh đúc và một câu nói đùa “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút đó Tràng chính thức có một người vợ. Câu chuyện Tràng lấy vợ quả là một câu chuyện bi hài. Hài là ở chỗ Tràng lấy được vợ quá đỗi nhanh chóng dễ dàng. Bi là ở chỗ nạn đói đang hoành hành, Tràng còn chưa lo nổi thân mình, lại đi đèo bòng thêm một người khác, không chỉ vậy, đám cưới là sự kiến quan trọng của đời người lại diễn ra hết sức qua loa, chóng vánh.

    Mặc dù sự kiện Tràng lấy vợ diễn ra vô cùng chóng vánh, không có sự chuẩn bị chu đáo, nhưng lại có tác động rất mạnh, khiến cho Tràng có sự thay đổi toàn diện. Trước hết là sự thay đổi tâm lí. Sau khi cô vợ nhặt cùng Tràng về nhà, tâm lí Tràng có sự biến đổi liên tục, đi từ ngạc nhiên đến sung sướng, hạnh phúc, choáng ngợp. Tràng ngạc nhiên bởi không ngờ câu nói đùa của mình, lại khiến người đàn bà kia theo Tràng về thật. Tràng bất giác lo sợ, vì bản thân còn chưa lo xong, lại đèo bòng thêm một người nữa, trong hoàn cảnh nạn đói đang diễn ra tràn lan. Nhưng niềm vui sướng ngập tràn, đã choán lấy tâm chí Tràng, khiến Tràng quyết định bỏ ra hai hào mua dầu về thắp với tâm niệm: “Vợ viếc gì thì cũng phải sáng sủa một tí chứ”. Câu nói có phần quê kệch nhưng lại cho thấy sự tôn trọng của Tràng với vợ, đồng thời hành động đó còn mang ý nghĩa thắp lên niềm tin, hi vọng vào tương lai. Sự xuất hiện của người vợ, đã đem đến cho cuộc sống của Tràng những màu sắc mới mẻ, tương vui cùng với đó là cả niềm tin, hi vọng vào tương lai.

    Không chỉ vậy, Tràng còn có sự thay đổi về tính cách. Trước hết là trong cách ứng xử với lũ trẻ, nếu thường ngày Tràng là bạn của chúng, thì hôm nay khi về cùng cô vợ nhặt, Tràng đã nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không hài lòng với chúng. Sự vô tâm, vô tính hàng ngày biến mất thay vào đó là dáng điệu của một người đàn ông trưởng thành. Sự thay đổi lớn lao nhất chính là khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ. . Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng: “Nhà tôi ó mới về làm bạn với tôi đây u ạ” “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau … chẳng qua nó cũng là cái số cả ….”. Ai có thể ngờ rằng một con người quê mùa, cục mịch, ít học lại có thể nói ra những lời sâu sắc, ý nghĩa đến vậy. Tràng đã bỏ qua cái chóng vánh của cuộc hôn nhân, để tránh sự xấu hổ cho cô vợ. Dùng những lời lẽ trang trọng nhất: duyên số, kiếp để lí giải cho việc lấy vợ của mình. Câu nói tuy giản dị nhưng cho thấy sự trưởng thành trong suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật này, Tràng đã là một người đàn ông thực thụ.

    Sự thay đổi toàn diện và có ý nghĩa nhất trong suy nghĩ và tính cách của Tràng được thể hiện trong buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ. Sự sung sướng hạnh phúc của người đàn ông có vợ “êm ái, lửng lơ như vừa bước từ giấc mơ ra”. Cùng với đó là sự thay đổi bất ngờ, nhanh chóng, Tràng nhận thức được trách nhiệm của bản thân với gia đình, vun vén hạnh phúc cho tổ ấm của mình. Tràng không chỉ dừng lại ở việc biết lo lắng cho mình, mà còn biết lo lắng cho người khác, không còn sống qua quýt tạm bợ, mà biết lo nghĩ cho tương lai.

    Cuối cùng là sự thay đổi trong nhận thức. Cuối tác phẩm hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới, cùng sự kiện phá kho thóc nhất, để lại trong Tràng nỗi ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, trước đó Tràng hoang mang, sợ hãi. Điều này cho thấy trong Tràng có sự thay đổi nhận thức, việc đi theo Đảng, cách mạng như một hệ quả tất yếu để đem lại tự do cho bản thân, và tương lai tốt đẹp cho cả gia đình.

    Tràng đã được nhà văn Kim Lân đặt trong tình huống truyện độc đáo: nhặt được vợ, qua đó khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật. Nghệ thuật phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tự nhiên, hợp lí. Ngôn ngữ tự nhiên, nhuần nhuyễn, giản dị.

    Bằng ngòi bút phân tích tâm lí bậc thầy, ngôn ngữ giản dị mà điều luyện Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Nhân vật đã vẽ nên chân thực cuộc sống của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. Đồng thời cũng thể hiện sự cảm thong, tin yêu của Kim Lân với số phận những người nông dân bất hạnh vào tương lai tươi sáng của họ.

   Là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam, Kim Lân đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm xuất sắc. Một trong những tác phẩm đó là Vợ nhặt. Tác phẩm lấy bối cảnh vào những năm đen tối nhất của dân tộc ta, khi hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nhưng cũng chính từ đêm đen đó mà ánh sáng tình người lại rực rỡ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của nhân tính, long nhân đạo đó được tập trung nhất trong nhân vật anh cu Tràng.

    Vợ nhặt vốn ban đầu có tên là “Xóm ngụ cư” được Kim Lân chấp bút ngay sau cách mạng tháng Tám. Nhưng sau đó bản thảo bị mất, mãi cho đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, dựa vào cốt truyện đã có, Kim Lân viết lại truyện và đổi nhan đề thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm là chuỗi nhưng oan trái, bi kịch, những bi và hài, nhưng sau tất cả đó là tấm long, tình yêu thương giữa những con người nghèo khổ.

    Tràng được nhà văn Kim Lân dụng bút, miêu tả rất nhiều. Tràng vốn là kẻ sống ngụ cư, gia đình nghèo khổ, em gái và cha đã mất, chỉ còn Tràng và mẹ già sống trong một căn nhà xiêu vẹo, mà bất cứ cơn bão nào cũng có thể thổi bay. Thân là một kẻ sống ở xóm ngụ cứ, đối với bất cứ người nào cũng là điều khổ tâm. Nhưng cuộc đời đưa đẩy, Tràng và mẹ không còn lựa chọn nào khác. Tràng có vẻ nghèo thô kệch, xấu xíu. Gương mặt được Kim lân đặc tả: “hai con mắt nhỏ tí, hai quai hàm bạnh ra” “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước” và đặc biệt tính cách còn dở hơi, đi đường thường nói chuyện một mình và ngửa đầu lên trời cười hềnh hệch. Quả thực dưới ngòi bút của Kim Lân, Tràng bị đẩy đến tận cùng của bất hạnh, hoàn cảnh sống bấp bênh, ngoại hình xấu xí, tính cách dở hơi. Tất cả những yếu tố đó cũng ngầm báo với bạn đọc về việc Tràng có lẽ sẽ phải độc thân đến suốt đời.

    Nhưng đằng sau con người ngờ nghệch đó, lại là một chàng trai vị tha, nhân hậu, có tình yêu thương con người sâu sắc. Tràng và vợ nhặt gặp nhau rất tình cờ, lần đầu tiên là một câu hò vu vợ, thị híp mắt cười tình đến bên Tràng đẩy xe bò. Và lần gặp gỡ thứ hai, càng bất ngờ hơn khi Tràng không thể nhận ra người phụ nữ béo tốt lần trước lại “gầy sọp hẳn đi”, quần áo thì rách rưới như tổ đỉa. Thì ra cái đói có thể hủy hoại con người ta nhanh đến như vậy. Trước tình cảnh đó, ai chẳng động lòng thương cảm, đặc biệt là Tràng, một con người hết sức hiền lành, chân chất, nhân hậu. Thương tình Tràng còn đã thị mấy bát bánh đúc, con buông lời đùa cợt: “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, nhưng nào ngờ thị tin thật, vào theo Tràng về nhà làm vợ. Ban đầu, Tràng cũng thoáng sợ hãi, bởi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng khi hạnh phúc đến, khi long thương người lấn át tất cả, Tràng đã “chậc kệ”. Tràng không nỡ chối bỏ một con người tội nghiệp đến vậy. Tràng mang đôi vai, dương cánh tay giúp đỡ mặc dù hoàn cảnh của gia đình mình cũng chẳng khá khấm hơn là bao nhiêu.

    Không chỉ vậy, Tràng còn là người hết sức ý nhị, tinh tế. Tự bản thân Tràng cũng hiểu, cách mình lấy vợ là một điều đặc biệt, cũng hiểu những e dề ngại ngùng mà người vợ nhặt sẽ có. Bởi vậy, trên đường về nhà, khi những đứa trẻ bông đùa, Tràng như một người khác, không còn vui đùa với chúng mà nghiêm mặt. Chẳng phải đó cũng là cách để bảo vệ người vợ, làm người vợ bớt thẹn thùng đó sao. Đặc biệt, sự tinh tế của Tràng được thể hiện rõ nhất trong màn giới thiệu cô dâu mới với mẹ mình. Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đây u ạ” “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau … chẳng qua nó cũng là cái số cả ….”. Ta không còn thấy sự quê mùa cục mịch ở người đàn ông, mà thay vào đó là một người hiểu chuyện, hiểu long người. Lời giới thiệu đó đã khiến người con gái bớt ngượng ngùng, xóa tan cái bi của cuộc hôn nhân vội vàng, chóng vánh.

    Ngoài ra, Tràng còn là người biết vun bén, có trách nhiệm với gia đình, có niềm tin và mơ ước vào tương lai. Sau đêm tân hôn, Tràng dậy muộn, và cảm thấy bản thân mình đã có sự biển chuyển lớn, tràng thấy “trong người êm ái lửng lơ như từ trong giấc mơ đi ra”. Thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, hai người phụ nữ đang dọn dẹp, lòng Tràng bỗng cảm thấy có ý thức và trách nhiệm hơn bao giờ hết. Giờ Tràng đã có gia đình, đã có người để qan tâm, lo lắng, Tràng bỗng thấy yêu thương và gắn bó với gia đinh biết bao : “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Một cuộc sống mới, đầy tình yêu thương và trách nhiệm đã đến đối với Tràng giữa hoàn cảnh đầy éo le, giữa gianh giới của sự sống và cái chết.

    Với nhân vật Tràng, Kim Lân đã một lần nữa xây dựng thành công chân dung của những con người lao động nghèo khổ, nhưng có tấm lòng nhân hậu và tình yêu thương con người bao la. Ngoài ra cũng cần kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống đặc sắc, đặc nhân vật vào hoàn cảnh éo le, để từ đó giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất đẹp đẽ của bản thân. Tràng là hình tiêu biểu của những người lao động nghèo khổ nhưng có tấm lòng đẹp đẽ, soi sáng, sưới ấm những đêm đen của đất nước.

Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong Vợ nhặt

Bài làm

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.

Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

II. Thân bài

1. Lai lịch

– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

2. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe ràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

3. Phẩm chất

– Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, …

– Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.

Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài làm

    Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rung là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.

    Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn sói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có. Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đáng mất cả long tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu vúi, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.

    Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng. Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mâm mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thi vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

    Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức gỉn dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

    Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, ttong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể huy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn thị sẽ theo cách mạng.

    Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc khọa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

    Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Bài làm

   Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.

   Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiểm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức sống “trũng hoáy” lại. Trong không khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết như ngả rạ” “người sống xanh xám như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa thần chết cũng đang dần mở ra với thị.

   Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, hip mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp laij, thị “sung xỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng. Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ắn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao?

   Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham sông của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.

   Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi. Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.

   Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hi vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

   Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch giữa cách sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.

Đề bài: Phân tích nhân vật “thị” mà anh cu Tràng đã “nhặt” được trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài làm

    Nhân vật “thị” là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945.

    Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

    Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, thị bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơí như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là thị theo về ngay, “thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.

    Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:

    “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

    Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”

           (Ca dao)

    Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.

    Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

    Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.

    Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màn nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.

    Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa dấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

    Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!

    Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đẩu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

    Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sông ấm no hạnh phúc. Những nguời nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Đề bài: Phân tích vai trò của nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân.

Bài làm

    Viết về người nông dân và trận đói năm Ất Dậu 1945, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc, độc đáo. Kim Lân viết truyện này ngay sau Cách mạng tháng Tám; đầu những năm 60, tác giả viết lại, đổi thành “Vợ nhặt”.

    “Vợ nhặt” kể chuyện anh cu Tràng nhà nghèo, ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê, giữa trận đói nuôi thân còn khó, thế mà dám đco bòng, dám cả gan nhặt vợ! Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống “nhặt vợ” rất hấp dẫn, đồng thời vận dụng tinh tế ngôn ngữ người nhà quê, phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, từ bà cụ Tứ đến anh cu Tràng, vợ Tràng, nhân vật nào cũng chân thực, cảm động.

    Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

    Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của lất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, thị bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sơng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích hô cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đồng các cô gái khác, thị nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là thị theo về ngay, “thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo…rúm ró” của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.

    Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. Thị cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. Thị có khác gì người ăn mày nọ:

    “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

    Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”

            (Ca dao)

    Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.

    Chỉ qua một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia”, Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái đi lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!

    Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng đã có sự đổi đời. Niểm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn mằn nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.

    Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đcp. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình “hiền hậu đúng mực” rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: ‘Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đây. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

    Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật — Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phấm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!

    Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phái mặc áo quần rách như tổ đỉa bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

    Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ở đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.

– Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

II. Thân bài

1. Lai lịch

– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

2. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe ràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

3. Phẩm chất

– Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, …

– Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.

   Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rung là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.

    Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn sói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có. Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đáng mất cả long tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu vúi, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.

    Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng. Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mâm mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thi vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

    Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức gỉn dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

    Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, ttong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể huy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn thị sẽ theo cách mạng.

    Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc khọa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

    Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

    Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.

    Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiểm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức sống “trũng hoáy” lại. Trong không khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết như ngả rạ” “người sống xanh xám như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa thần chết cũng đang dần mở ra với thị.

    Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, hip mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp laij, thị “sung xỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng. Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ắn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao?

    Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham sông của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.

    Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi. Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.

    Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hi vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

    Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch giữa cách sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.

   Nhân vật “thị” là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945.

    Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

    Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, thị bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơí như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là thị theo về ngay, “thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.

    Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:

    “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

    Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”

    (Ca dao)

    Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.

    Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

    Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.

    Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màn nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.

    Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa dấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

    Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!

    Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đẩu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

    Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sông ấm no hạnh phúc. Những nguời nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Đề bài: Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt

Bài làm

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.

II. Thân bài

1. Giá trị hiên thực

– Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám: nạn đói khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:

    + Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống mặt hốc hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, …

    + Không gian chỉ tòa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.

    + Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm.

– Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống thảm hại của con người.

– Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình: Tràng ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, …

– Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa

2. Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945

– Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:

    + Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến thể danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.

    + Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.

3. Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta

– “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.

– Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc siêu thuế, bà cụ tứ cũng tuyệt vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”

4. Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người

– Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.

– Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như bao người bình thường khác.

– Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người: vì thình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.

– Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:

    + Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các

5. Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn

– Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị gần gũi.

– Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người.

Đề bài: Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt

Bài làm

    Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

    Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là gianh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lét của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.

    Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự ê lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

    Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu.

    Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.

    Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con Tràng giành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.

    Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.

    Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.

    Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cườing và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.

    Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.

    Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện Vợ nhặt

Bài làm

   Văn học giai đoạn 1954 – 1975 là văn học đi theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm vì thế thường mang trong mình một xu hướng chung là cổ vũ chiến đấu, đôi khi không tránh khỏi sự đơn điệu. Vợ chồng A Phủ có thể coi là tác phẩm hiếm hoi, trên nền chung của văn học giai đoạn này nhưng vẫn có những bứt phá riêng, tạo dấu ấn cho tác phẩm thông qua hai giá trị xuyên suốt là giá trị hiện thực và nhân đạo.

   Trước hết tác phẩm giàu giá trị hiện thực. Giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học có thể hiểu là sự phản ánh hiện thực cuộc sống, con người trong một tác phẩm nào đó, qua đó nhằm phát hiện, tố cáo, vạch trần hoặc phản ánh thực trạng cuộc sống đương thời.

   Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện rõ qua hai nhân vật là Mị và A Phủ, mà số phận của Mị thể hiện nhiều hơn cả. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nhưng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, từ khi chưa sin ra Mị đã mang trong mình mối nợ truyền kiếp từ cha mẹ để lại. Cha mẹ Mị vì nghèo nên khi lấy nhau phải vay tiền của Thống lí Pa Tra, món nợ ấy đã trả biết bao năm vẫn chưa hết, sau trở thành gánh nặng đè lên cuộc đời cô, đẩy Mị vào cuộc sống đầy tăm tối.

   Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ, mặc dù Mị đã cầu xin cha để mình làm nương trả dần. Nhưng ý quan trên đâu thể kháng lại, đặc biệt khi Mị vừa có nợ, vừa là một thảo dân nhỏ bé. Dựa vào tục lệ cổ hủ bắt vợ, thống lí Pá Tra đã thực hiện được mưu đồ của mình, Mị chính thức trở thành con dâu gạt nợ. lấy về không tình yêu thương, thực tế Mị chỉ là một nô lệ trong gia đình thống lí. Ngòi bút của Tô Hoài đã vạch trần những hủ tục đẩy con người vào bước đường cùng, tước đoạt quyền tự do, hạnh phúc của một cn người.

   Mị sống ở nhà chồng mà tựa như sống ở địa ngục. Mị làm việc quanh năm, không có lúc nào ngơi chân, ngơi tay. Mị không còn là cô gái xinh đẹp, hoạt bát, yêu đời, với tiếng sáo véo von làm say lòng biết bao người mà trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Thế giới của Mị chỉ có đồng, nương, ruộng hoặc một cân phong nhỏ, mà thực chất là nhà tù nhỏ bé, chật hẹp, chỉ có ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. thật khó có thể tưởng tượng ra một cô gái yêu đời, đã có lúc sẵn sang dung cái chết để cự tuyệt sự hành hạ về thể xác lại có thể chai lì về cảm xúc đến như vậy. Ngòi bút của Tô Hoài càng trở nên sắc sảo hơn, khi cho bạn đọc thấy bàn tay độc ác của kẻ cầm quyền đã hãm hại, cầm tù tâm trí, thể xác của con người đến mức độ nào.

   Và để giá trị hiện thực càng nổi bật hơn nữa, cuối tác phẩm khi Mị cứu A Phủ, điều cô nghĩ duy nhất đó là cứu người này, bởi bản thân mình “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Thân đã cúng trình mà nhà thống lí thì mãi mãi phải sống ở đây cho đến lúc chết, tâm lí nơm nớp lo sợ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người, khiến họ không thể vung thoát. Sự ngu muội của người dân, cách thống trị thần quyền và cường quyền độc ác đã khiến con người ta hoảng loạn, sợ hãi, không thể tự cứu lấy chính mình.

   Để bức tranh hiện thực thêm đậm nét, A Phủ được Tô Hoài miêu tả bổ sung. A Phủ cũng là nô lệ, là kẻ gạt nợ của thống lí vì đánh A Sử. Cường quyền nằm trong tay kẻ bất nhân, nên những người vô danh tiểu tốt như A Phủ luôn bị hàm oan. Giữa trốn ngu muội đó làm gì có công lí, làm gì có công bằng. Bởi vậy người con trai khỏe mạnh là A Phủ đã trở thành nô lệ của nhà thống lí, thậm chí vì làm mất bò còn bị trói đứng cho đến chết nếu không có Mị kịp thời cứu.

   Không chỉ giàu giá trị hiện thực mà Vợ chồng A Phủ còn giàu giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện chủ yếu ở con đường các nhân vật thoát khỏi bóng tối, sự u mê để đến với ánh sáng. Mị có hai lần nổi loạn, trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ, cứu chính mình. Trong lần nổi loạn đầu tiên, Mị tác giả đã vô cùng công phu bài trí các yếu tố logic, hợp lí để thúc đẩy tâm trạng nhân vật phát triển. Khung cảnh mùa xuân ấm áp, tràn ngập tình xuân, những bông hoa đua nở, nhưng chiếc váy mèo sặc sỡ trên triền núi và tiếng trẻ con vui đùa phần nào đã tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng chỉ có vậy thôi không đủ mà còn phải có tác động của rượu và tiếng sáo. Rượu là chất xúc tác khiến con người ta nửa say, nửa tỉnh, để dũng cảm nhớ về quá khứ, Còn tiếng sáo là tác nhân chính, lay thức niềm tâm can sâu thẳm của Mị, để Mị nhớ về những ngày trước: yêu đời, hồn nhiên, ham sống. Tiếng sáo dập dờn, bừng lên trong Mị khao khát được đi chơi, và Mị đã hiện thực hóa nó bằng hành động. Mị vào nhà thay đồ chuẩn bị đi thì bị A Sử trói đứng lại. Dù bị trói buộc về thể xác những tâm hồn cô đã phiêu diêu sống cùng những ngày trước.

   Lần nổi loạn thứ hai là trong đêm đông cứu A Phủ. A Phủ bị trói đứng, biết bao lần Mị đi sưởi chân tay mà không quan tâm. Chỉ khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy ra từ hốc mắt đen ngòm, lúc đó cô đã động long thương cảm. Đó là tình yêu thương từ những con người cùng khổ, sự đồng cảm, chia sẻ và yêu thương đã khiến Mị có một quyết định vô cùng bất ngờ đó là lấy dao giải cứu A Phủ. Sợi dây hữu hình đã được cắt đứt, A Phủ đã được cứu. Nhưng sợi dây vô hình là thần quyền vẫn trói dữ, nhưng trong một thoáng suy nghĩ cô đã một lần nữa cắt đứt sợi dây đó, giải cứu chính mình, đi theo A Phủ.

   Con đường giải cứu bản thân, tìm lại niềm hi vọng sống của Mị không hề đơn giản. Nó được Tồ Hoài đặt trong vô vàn thử thách khắc nghiệt khác nhau để bản thân nhân vật phải tự vượt qua, cứu lấy chính mình. Mị và A Phủ dắt nhau bỏ trốn đi trong đêm tối, họ hai con người sau những tháng ngày giam cầm đã được tự do, rạch tan bóng tối, mở ra ánh sáng, tương laic ho chính mình.

   Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước đi của hai nhân vật. Ông sung sướng tự hào biết bao khi họ đã vượt qua tăm tối tìm thấy lí tưởng, ánh sáng – tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời ông cũng vạch trần thối nát của chính quyền phong kiến miền núi – thể hiện giá trị hiện thực sắc nét.

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” của Kim Lân.

Bài làm

    “Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường.

    Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện “Vợ nhặt” là giá trị nhân đạo.

    Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

    Truyện “Vợ nhặt” đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên nhừng ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen” trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

    Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọc nhẵn chúi về đằng trước” với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó “ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa”. Thị “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên”. Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

    Cái xóm ngụ cư càng về chiều “càng xơ xác, heo hút” nhà cửa “úp súp, tối om”, những khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có “quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”, “cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn, “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

    Truyện “Vợ nhặt” đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”, Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: “Chặc, kệ!”. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng “phởn phơ khác thường”. Hắn “tủm tỉm cười nụ”. Hai mắt “sáng lên lấp lánh”. Có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình”.

    Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió”. Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

    Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”. Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

    Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện “Vợ nhặt”. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là ” xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm nhiểu thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ khồng bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,… mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

    Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: “Chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”. Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy “êm ái lửng lơ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.

    Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thây hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!

    Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”. Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

    Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! cổ kim đống tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện “Vợ nhặt” mà ta trân trọng.

Đề bài: Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt

I. Mở bài

– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

– Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.

II. Thân bài

1. Giá trị hiên thực

– Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám: nạn đói khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:

    + Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống mặt hốc hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, …

    + Không gian chỉ tòa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.

    + Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm.

– Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống thảm hại của con người.

– Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình: Tràng ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, …

– Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa

2. Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945

– Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:

    + Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến thể danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.

    + Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.

3. Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta

– “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.

– Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc siêu thuế, bà cụ tứ cũng tuyệt vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”

4. Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người

– Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.

– Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như bao người bình thường khác.

– Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người: vì thình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.

– Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:

    + Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các

5. Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn

– Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị gần gũi.

– Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người.

   Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

    Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là gianh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lét của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.

    Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự ê lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

    Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu.

    Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.

    Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con Tràng giành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.

    Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.

    Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.

    Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cườing và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.

    Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.

    Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

   Văn học giai đoạn 1954 – 1975 là văn học đi theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm vì thế thường mang trong mình một xu hướng chung là cổ vũ chiến đấu, đôi khi không tránh khỏi sự đơn điệu. Vợ chồng A Phủ có thể coi là tác phẩm hiếm hoi, trên nền chung của văn học giai đoạn này nhưng vẫn có những bứt phá riêng, tạo dấu ấn cho tác phẩm thông qua hai giá trị xuyên suốt là giá trị hiện thực và nhân đạo.

    Trước hết tác phẩm giàu giá trị hiện thực. Giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học có thể hiểu là sự phản ánh hiện thực cuộc sống, con người trong một tác phẩm nào đó, qua đó nhằm phát hiện, tố cáo, vạch trần hoặc phản ánh thực trạng cuộc sống đương thời.

    Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện rõ qua hai nhân vật là Mị và A Phủ, mà số phận của Mị thể hiện nhiều hơn cả. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nhưng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, từ khi chưa sin ra Mị đã mang trong mình mối nợ truyền kiếp từ cha mẹ để lại. Cha mẹ Mị vì nghèo nên khi lấy nhau phải vay tiền của Thống lí Pa Tra, món nợ ấy đã trả biết bao năm vẫn chưa hết, sau trở thành gánh nặng đè lên cuộc đời cô, đẩy Mị vào cuộc sống đầy tăm tối.

    Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ, mặc dù Mị đã cầu xin cha để mình làm nương trả dần. Nhưng ý quan trên đâu thể kháng lại, đặc biệt khi Mị vừa có nợ, vừa là một thảo dân nhỏ bé. Dựa vào tục lệ cổ hủ bắt vợ, thống lí Pá Tra đã thực hiện được mưu đồ của mình, Mị chính thức trở thành con dâu gạt nợ. lấy về không tình yêu thương, thực tế Mị chỉ là một nô lệ trong gia đình thống lí. Ngòi bút của Tô Hoài đã vạch trần những hủ tục đẩy con người vào bước đường cùng, tước đoạt quyền tự do, hạnh phúc của một cn người.

    Mị sống ở nhà chồng mà tựa như sống ở địa ngục. Mị làm việc quanh năm, không có lúc nào ngơi chân, ngơi tay. Mị không còn là cô gái xinh đẹp, hoạt bát, yêu đời, với tiếng sáo véo von làm say lòng biết bao người mà trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Thế giới của Mị chỉ có đồng, nương, ruộng hoặc một cân phong nhỏ, mà thực chất là nhà tù nhỏ bé, chật hẹp, chỉ có ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. thật khó có thể tưởng tượng ra một cô gái yêu đời, đã có lúc sẵn sang dung cái chết để cự tuyệt sự hành hạ về thể xác lại có thể chai lì về cảm xúc đến như vậy. Ngòi bút của Tô Hoài càng trở nên sắc sảo hơn, khi cho bạn đọc thấy bàn tay độc ác của kẻ cầm quyền đã hãm hại, cầm tù tâm trí, thể xác của con người đến mức độ nào.

    Và để giá trị hiện thực càng nổi bật hơn nữa, cuối tác phẩm khi Mị cứu A Phủ, điều cô nghĩ duy nhất đó là cứu người này, bởi bản thân mình “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Thân đã cúng trình mà nhà thống lí thì mãi mãi phải sống ở đây cho đến lúc chết, tâm lí nơm nớp lo sợ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người, khiến họ không thể vung thoát. Sự ngu muội của người dân, cách thống trị thần quyền và cường quyền độc ác đã khiến con người ta hoảng loạn, sợ hãi, không thể tự cứu lấy chính mình.

    Để bức tranh hiện thực thêm đậm nét, A Phủ được Tô Hoài miêu tả bổ sung. A Phủ cũng là nô lệ, là kẻ gạt nợ của thống lí vì đánh A Sử. Cường quyền nằm trong tay kẻ bất nhân, nên những người vô danh tiểu tốt như A Phủ luôn bị hàm oan. Giữa trốn ngu muội đó làm gì có công lí, làm gì có công bằng. Bởi vậy người con trai khỏe mạnh là A Phủ đã trở thành nô lệ của nhà thống lí, thậm chí vì làm mất bò còn bị trói đứng cho đến chết nếu không có Mị kịp thời cứu.

    Không chỉ giàu giá trị hiện thực mà Vợ chồng A Phủ còn giàu giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện chủ yếu ở con đường các nhân vật thoát khỏi bóng tối, sự u mê để đến với ánh sáng. Mị có hai lần nổi loạn, trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ, cứu chính mình. Trong lần nổi loạn đầu tiên, Mị tác giả đã vô cùng công phu bài trí các yếu tố logic, hợp lí để thúc đẩy tâm trạng nhân vật phát triển. Khung cảnh mùa xuân ấm áp, tràn ngập tình xuân, những bông hoa đua nở, nhưng chiếc váy mèo sặc sỡ trên triền núi và tiếng trẻ con vui đùa phần nào đã tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng chỉ có vậy thôi không đủ mà còn phải có tác động của rượu và tiếng sáo. Rượu là chất xúc tác khiến con người ta nửa say, nửa tỉnh, để dũng cảm nhớ về quá khứ, Còn tiếng sáo là tác nhân chính, lay thức niềm tâm can sâu thẳm của Mị, để Mị nhớ về những ngày trước: yêu đời, hồn nhiên, ham sống. Tiếng sáo dập dờn, bừng lên trong Mị khao khát được đi chơi, và Mị đã hiện thực hóa nó bằng hành động. Mị vào nhà thay đồ chuẩn bị đi thì bị A Sử trói đứng lại. Dù bị trói buộc về thể xác những tâm hồn cô đã phiêu diêu sống cùng những ngày trước.

    Lần nổi loạn thứ hai là trong đêm đông cứu A Phủ. A Phủ bị trói đứng, biết bao lần Mị đi sưởi chân tay mà không quan tâm. Chỉ khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy ra từ hốc mắt đen ngòm, lúc đó cô đã động long thương cảm. Đó là tình yêu thương từ những con người cùng khổ, sự đồng cảm, chia sẻ và yêu thương đã khiến Mị có một quyết định vô cùng bất ngờ đó là lấy dao giải cứu A Phủ. Sợi dây hữu hình đã được cắt đứt, A Phủ đã được cứu. Nhưng sợi dây vô hình là thần quyền vẫn trói dữ, nhưng trong một thoáng suy nghĩ cô đã một lần nữa cắt đứt sợi dây đó, giải cứu chính mình, đi theo A Phủ.

    Con đường giải cứu bản thân, tìm lại niềm hi vọng sống của Mị không hề đơn giản. Nó được Tồ Hoài đặt trong vô vàn thử thách khắc nghiệt khác nhau để bản thân nhân vật phải tự vượt qua, cứu lấy chính mình. Mị và A Phủ dắt nhau bỏ trốn đi trong đêm tối, họ hai con người sau những tháng ngày giam cầm đã được tự do, rạch tan bóng tối, mở ra ánh sáng, tương laic ho chính mình.

    Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước đi của hai nhân vật. Ông sung sướng tự hào biết bao khi họ đã vượt qua tăm tối tìm thấy lí tưởng, ánh sáng – tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời ông cũng vạch trần thối nát của chính quyền phong kiến miền núi – thể hiện giá trị hiện thực sắc nét.

Đề bài: Phân tích hình tượng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt

Bài làm

I. Mở bài

– Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.

– Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.

– Bà cụ tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.

II. Thân bài

1. Giới thiệu nhân vật

    + Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.

    + Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

– Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.

– Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”

– Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”:

    + Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”.

    + Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.

    + Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”

– Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.

– Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:

    + Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”,

    + Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”

    + Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.

III. Kết bài

– Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ tứ.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Đề bài: Phân tích hình tượng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt

Bài làm

    Vợ nhặt một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tảo tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhất vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

    Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt nghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ , vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

    Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

    Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên râm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

    Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

    Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy dòng dòng.

    Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

    Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ , khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

    Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

    Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt

Bài làm

   Bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân dù không phải là nhân vật chính, nhưng với sự xuất hiện của bà đã làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn. Không chỉ vậy còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm.

   Chân dung bà cụ Tứ được tác giả miêu tả hết sức chân thật, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm là dáng hình già nua, lọm khọm: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Quả là một dáng hình điển hình của những bà mẹ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, chịu khó, suốt một đời lam lũ vất vả. Dường như bà không có một phút ngơi nghỉ, trên đường về nhà cũng phải tính toán. Đồng thời trong dáng đi của bà còn có chút phấp phỏng, lo ấu bởi sự đón tiếp khác ngày thường của người con trai.

   Khi nhìn thấy “người vợ nhặt” đứng ở đầu giường bà trải qua hàng loạt diễn biến tâm lí khác nhau. Ban đầy là ngạc nhiên, tiếp đến là băn khoăn, trong đầu bà đặt ra hàng loạt câu hỏi: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng U”. Bà nào có thể ngờ rằng khi cái đói, cái chết đang mấp mé ngoài cửa người con trai lại dám dẫn một nàng dâu về nhà. Lòng bà ngập đầy băn khoăn, lo lắng.

   Đến khi anh cu Tràng giới thiệu bà mới vỡ lẽ, mới hiểu ra, bà lặng lẽ cuối đầu , ai oán thương xót cho số phận mình và con trai: “Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc ăn nên làm nổi, con mình thì….”. Câu nói của bà có chút mặn chát đắng cay, con bà đến lúc cái đói rình rập thì mới có được vợ. Bà đau long bởi không thể lo chu toàn cho con. Đọc câu văn lên ta không khỏi bất giác run rẩy, đau đớn, xót xa, bởi việc trong đại lẽ ra nên làm mân cơm mới phải, nhưng ngặt nỗi nhà mình lại nghèo quá. Bà không chỉ thương con mình mà con thương con dâu: “Người ra có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được….”. Rồi lại càng lo lắng hơn, liệu trong cơn hoạn nạn này liệu chúng có nuôi nổi nhau hay không.

   Nhưng sau những lo lắng đó, ngay lập tức bà lấy lại tinh thần, vẽ ra tương lai tốt đẹp cho hai đứa con. Lòng bà vẫn một mực hướng về tương lại “vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi nay ra ông trời cho khá … Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Những lời nói rất từng trải, vừa thương, vừa lo của bà như một nguồn động lực tiếp thêm sức mạnh cho hai đứa con. Bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sướng về những dự định trong tương laic ho các con.

   Kim Lân đã dụng công tất cả tài năng của mình để miêu tả thật tinh tế và cảm động những cung bậc tình cảm, cảm xúc của bà cụ Tứ đối với con. Từ sự ngỡ ngàng, đến lo lắng “liệu chúng có nuôi nhau sống nổi qua thì đói không” đến niềm tin, hi vọng vào tương lai. Ông cũng thật tinh tế khi diễn tả lối nói, suy nghĩ đầy thuần hậu, chất phác của những bà mẹ nông dân Việt Nam trước tình cảnh lấy vợ của hai đứa con. Những câu văn như lời nói nghẹn ngào, đầy tủi cực, xót xa của bà mẹ nghèo dành cho những đứa con.

   Sáng hôm sau, sau bao ngày không còn động chân động tay vào việc nhà, bà cùng người con dâu dậy sớm dọn dẹp, tu vé nhà cửa, tíu tít với những dự định: ngăn đôi căn buồng cho đôi vợ chồng trẻ mua đôi gà… Nồi cháo cám mặn chat, nghẹn đắng ở cổ nhưng bà cụ vẫn có tỏ ra vui vẻ, xăm xắn giúp không khí gia đình thêm vui tưới. Bà cố giấu giọt nước mắt tủi cực của mình vào sâu đấy long “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Bà cụ Tứ là người gần đất xa trời nhưng lại là nhân vật nói đến tương lai nhiều nhất trong tác phẩm, nó cho thấy tinh thần lạc quan, khỏe khoắn của người lao động. Dù nghèo khổ, dù vất vả nhưng trong họ luôn tràn đầy niềm tin và sự lạc quan vào cuộc sống.

   Dù chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện gần cuối tác phẩm nhưng nhân vật bà cụ Tứ có vai trò quan trọng trong tác phẩm, thể hiện tấm long nhân đạo của Kim Lân. Bà cụ Tứ là hiện thân tiêu biểu cho bà mẹ nông dân Việt Nam tảo tần, chịu khó, hết long hi sinh vì con. Đồng thời quan nhân vật này cũng thể hiện nghệ thuật phân tích tâm lí xuất sắc của Kim Lân.

Đề bài: Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân

Bài làm

    Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú “phong lưu đồng ruộng”. “Nên vợ nên chồng”và “Con chó xấu xí” là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. “Vợ nhặt”- một truyện ngắn độc đáo rút trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng vẻ hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể vể chuyện anh cu Tràng “nhặt” được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ – mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

    Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng… Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh “đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Sau tấm phên rách nát là những “niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất”. Người mẹ già nghèo khổ “húng hắng ho”chẳng khác nào một chiếc bóng “lọng khọng” đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão “đứng sững lại”, càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: “Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình “nhoèn ra”, … rồi “lập cập” bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão “băn khoăn” ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng “giới thiệu” người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: “Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy… vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: “Chao ôi!Ngườìita dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”.

    Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch “mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra” lại có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được”. Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới. cử chi bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con” rồi xưng “u” một cách thân tình, ruột thịt: “Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

    Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: “…Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”.

    Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.

    Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người me già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: “Rồi may ra ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau”…

    Bữa cơm đón nàng dâu mới sau “tối tân hôn” của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám “đắng chát”là “chè khoán” rối rít khen “ngon đáo để”, ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: “Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!”. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị “đắng chát”của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.

    Mượn ngoại cảnh, sự việc để phó diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm đcm ra phơi… Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ… Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà “không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới… để khẳng định niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”.

    Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

    Trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, Tố Hữu viết:

    “Đời ta gương vỡ lại lành,

    Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”.

    Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ “đâm cành nở hoa”. Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn “Vợ nhặt”của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.

Đề bài: Phân tích hình tượng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt

I. Mở bài

– Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.

– Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.

– Bà cụ tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.

II. Thân bài

1. Giới thiệu nhân vật

    + Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.

    + Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. 2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

– Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.

– Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”

– Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”:

    + Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”.

    + Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.

    + Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”

– Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.

– Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:

    + Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”,

    + Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”

    + Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.

III. Kết bài

– Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ tứ.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

   Vợ nhặt một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tảo tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhất vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

    Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt nghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ , vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

    Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

    Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên râm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

    Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

    Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy dòng dòng.

    Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

    Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ , khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

    Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

    Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

   Bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân dù không phải là nhân vật chính, nhưng với sự xuất hiện của bà đã làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn. Không chỉ vậy còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm.

    Chân dung bà cụ Tứ được tác giả miêu tả hết sức chân thật, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm là dáng hình già nua, lọm khọm: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Quả là một dáng hình điển hình của những bà mẹ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, chịu khó, suốt một đời lam lũ vất vả. Dường như bà không có một phút ngơi nghỉ, trên đường về nhà cũng phải tính toán. Đồng thời trong dáng đi của bà còn có chút phấp phỏng, lo ấu bởi sự đón tiếp khác ngày thường của người con trai.

    Khi nhìn thấy “người vợ nhặt” đứng ở đầu giường bà trải qua hàng loạt diễn biến tâm lí khác nhau. Ban đầy là ngạc nhiên, tiếp đến là băn khoăn, trong đầu bà đặt ra hàng loạt câu hỏi: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng U”. Bà nào có thể ngờ rằng khi cái đói, cái chết đang mấp mé ngoài cửa người con trai lại dám dẫn một nàng dâu về nhà. Lòng bà ngập đầy băn khoăn, lo lắng.

    Đến khi anh cu Tràng giới thiệu bà mới vỡ lẽ, mới hiểu ra, bà lặng lẽ cuối đầu , ai oán thương xót cho số phận mình và con trai: “Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc ăn nên làm nổi, con mình thì….”. Câu nói của bà có chút mặn chát đắng cay, con bà đến lúc cái đói rình rập thì mới có được vợ. Bà đau long bởi không thể lo chu toàn cho con. Đọc câu văn lên ta không khỏi bất giác run rẩy, đau đớn, xót xa, bởi việc trong đại lẽ ra nên làm mân cơm mới phải, nhưng ngặt nỗi nhà mình lại nghèo quá. Bà không chỉ thương con mình mà con thương con dâu: “Người ra có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được….”. Rồi lại càng lo lắng hơn, liệu trong cơn hoạn nạn này liệu chúng có nuôi nổi nhau hay không.

    Nhưng sau những lo lắng đó, ngay lập tức bà lấy lại tinh thần, vẽ ra tương lai tốt đẹp cho hai đứa con. Lòng bà vẫn một mực hướng về tương lại “vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi nay ra ông trời cho khá … Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Những lời nói rất từng trải, vừa thương, vừa lo của bà như một nguồn động lực tiếp thêm sức mạnh cho hai đứa con. Bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sướng về những dự định trong tương laic ho các con.

    Kim Lân đã dụng công tất cả tài năng của mình để miêu tả thật tinh tế và cảm động những cung bậc tình cảm, cảm xúc của bà cụ Tứ đối với con. Từ sự ngỡ ngàng, đến lo lắng “liệu chúng có nuôi nhau sống nổi qua thì đói không” đến niềm tin, hi vọng vào tương lai. Ông cũng thật tinh tế khi diễn tả lối nói, suy nghĩ đầy thuần hậu, chất phác của những bà mẹ nông dân Việt Nam trước tình cảnh lấy vợ của hai đứa con. Những câu văn như lời nói nghẹn ngào, đầy tủi cực, xót xa của bà mẹ nghèo dành cho những đứa con.

    Sáng hôm sau, sau bao ngày không còn động chân động tay vào việc nhà, bà cùng người con dâu dậy sớm dọn dẹp, tu vé nhà cửa, tíu tít với những dự định: ngăn đôi căn buồng cho đôi vợ chồng trẻ mua đôi gà… Nồi cháo cám mặn chat, nghẹn đắng ở cổ nhưng bà cụ vẫn có tỏ ra vui vẻ, xăm xắn giúp không khí gia đình thêm vui tưới. Bà cố giấu giọt nước mắt tủi cực của mình vào sâu đấy long “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Bà cụ Tứ là người gần đất xa trời nhưng lại là nhân vật nói đến tương lai nhiều nhất trong tác phẩm, nó cho thấy tinh thần lạc quan, khỏe khoắn của người lao động. Dù nghèo khổ, dù vất vả nhưng trong họ luôn tràn đầy niềm tin và sự lạc quan vào cuộc sống.

    Dù chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện gần cuối tác phẩm nhưng nhân vật bà cụ Tứ có vai trò quan trọng trong tác phẩm, thể hiện tấm long nhân đạo của Kim Lân. Bà cụ Tứ là hiện thân tiêu biểu cho bà mẹ nông dân Việt Nam tảo tần, chịu khó, hết long hi sinh vì con. Đồng thời quan nhân vật này cũng thể hiện nghệ thuật phân tích tâm lí xuất sắc của Kim Lân.

Đề bài: Kể lại truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Bài làm

    Anh cu Tràng ở xóm ngụ cư. Nhà nghèo, bố đã mất, mẹ đã già. Thân hình to lớn, vập vạp, bộ mặt thô kệch, hai con mắt nhỏ tí… Chưa có vợ, anh ta làm nghề kéo xe bò thuê.

    Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư này từ lúc nào. Người chết như ngả rạ. Những đoàn người bồng bế dắt díu nhau chạy đói xanh xám như những bóng ma. Thây người nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi gây của xác người. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

    Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm ngụ cư thấy Tràng dẫn vế một người đàn bà. Người trong xóm thấy lạ, nhìn theo, bàn tán. Có người thở dài, có người thì thầm hỏi nhau: “Ai đấy nhỉ? Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên? Hay là vợ anh cu Tràng?”… Có người lo xa, cất tiếng: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về…”. Tràng đi trước, phớn phở, tủm tỉm cười, cặp mắt sáng lên lấp lánh. Thị cắp cái thúng đi sau, có vẻ rón rén, e thẹn. Bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”. Tràng bật cười, còn thị thì có vẻ khó chịu lắm!

    Hai người đi về cuối xóm, lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ, sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày… Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Thị bỗng hỏi: “Sắp đến chửa. Nhà có ai không?..”. Tràng chợt giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe: “Dầu tối thắp đây này”. Thị nói: “Sang nhỉ. Hoang nó vừa vừa chứ”. Tràng nói đùa một câu “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ; chẳng nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay…”, liền bị thị mắng yêu là “khỉ gió”, và phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại. Tràng thích chí ngửa cổ cười khanh khách.

    Thị lẳng lặng theo Tràng bước vào cái nhà vắng teo, rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại. Tràng xăm xăm thu dọn niêu bát, xống áo vứt bừa bãi trên giường, mặt đất. Thị cười nhạt nhẽo. Tràng đon đả mời ngồi. Cả hai cùng ngượng nghịu. Thị ngồi mớm ở mép giường, mặt bần thần, hai tay ôm khư khư cái thúng.

    Tràng tủm tỉm cười, nhìn thị, nghĩ bụng, chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng.

    Tràng nhớ lại, hôm ấy vừa kéo xe thóc vào dốc tỉnh, anh hò một câu cho đỡ mệt: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”, thì có mấy cô gái cười như nắc nẻ, đẩy vai một cô ả ra với hắn. Thị cong cớn: “Này, nhà tôi ơi, nói thật hay khoác đấy?”. Thị ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Thị liếc mắt cười tít. Tràng thích lắm. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh, thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa nói: “Điêu! Người điêu! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Thị rách rưới quá, áo quần như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi… Một lúc sau, Tràng nhớ ra rồi. Toét miệng cười, Tràng đon đả mời: “Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã”. Nghe thị nói có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu, Tràng vỗ vỗ vào túi khoe: “Ríc h bố cu”. Cặp mắt sáng lên, thị đon đả: “Ăn thật nhá!”. Thị ngồi sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền… Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: “Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Nghe Tràng nói: “Làm đếch gì có vợ”… thế là thị theo Tràng ngay. Tràng hơi chợn, nhưng rồi hắn tặc lưỡi một cái “Chậc, kệ! “. Tràng dẫn thị vào chợ tỉnh, bỏ tiền ra mua cho thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt; hai người ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…

    Tràng đang bâng khuâng nhớ lại, thì bà cụ Tứ đã về. Bà húng hắng ho. Bà loạng choạng đi vào. Tràng lật đật chạy ra đón. Nghe Tràng nói đợi u nóng cả ruột, bà nhìn vào trong nhà, ngạc nhiên thấy một người đàn bà đang đứng ngay đầu giường thằng con mình. Thị cất tiếng chào. Bà lập cập bước vào nhà khi nghe được thị cất tiếng chào lần nữa: “U đã về ạ!”.Bà băn khoăn ngồi xuống. Thị ngỡ bà đã già lão, điếc lác… Nghe Tràng nói, bà cúi đầu nín lặng. Người mẹ già nghèo khổ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương… Bà nhìn thị và nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Nghe mẹ nói, Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Sau đó, bà cụ Tứ nói với con dâu về gia cảnh mình, khuyên hai con sống hòa thuận. Tràng đánh diêm đốt đèn lên. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Tràng giục thị đi ngủ, liền bị thị giơ tay củng vào trán hắn: “Chỉ được cái thế là nhanh.Dơ! ” Tràng cười khi khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn.

    Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu dậy sớm, quét dọn thu xếp nhà cửa, từ trong nhà ra ngoài sân, ngoài ngõ trông thật quang quẻ, sạch sẽ. Tràng dậy muộn, anh cảm thấy yêu hơn ngôi nhà mình, anh nghĩ về bổn phận phải lo lắng cho vợ con. Tràng thấy thị khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực. Bà cụ Tứ rạng rở hẳn lên.

    Bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có muối ăn với cháo. Cháo cám đắng chát nhưng người mẹ già bảo là chè khoán ngon đáo để. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sau này.

    Bỗng tiếng trống đốc sưu dội lên dồn dập. Đàn quạ bay vù lên thành những đám mây đen. Bà cụ Tứ khóc. Thị nói về chuyện ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Tràng hỏi vội: “Việt Minh phải không? rồi anh bần thần nhớ lại cảnh những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Đề bài: Anh chị hãy nêu tình huống “nhặt” vợ trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân, từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn đối với co người và thực trạng xã hội đương thời được bộc lộ qua tình huống truyện độc đáo này.

Bài làm

    Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

    Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyên anh trai cày thô kệch “nhặt” được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết – cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống “nhặt” vợ của anh cu Tràng.

    Tóm tắt tình huống “nhặt” vợ:

    Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghé kéo xe bò thuê. Con mắt “nhỏ tí”, bộ mặt “thô kệch”, cái đầu “trọc nhẵn” lại có tật “vừa đi vừa nói lảm nhảm…”. Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ… chỉ “tầm phơ tầm phào đâu có hai bận”, một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã “nhặt” được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã “liếc mắt cười tít” làm cho Tràng “thích lắm”.

    Tràng “nhặt” được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói “xanh xám như những bóng ma”. Mùi gây của xác người… Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Xóm ngụ cư “xác xơ heo hút”. Tràng “nhặt” vợ mà cảm thấy “chợn” vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà “lại còn đèo bòng”. Trên đường dẫn “vợ mới vợ miếc” về nhà, hắn “phớn phơ” khác thường, “tủm tỉm cười nụ”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”,… Còn thị thì “thèn thẹn hay đáo để”.

    Tràng “nhặt” được vợ đã làm cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Lũ trẻ con cong cổ gào lên: “Chông vợ hài”. Có người “thở dài”, có người “thì thầm” hỏi. Lại có người “cười lên rung rúc”. Có người lo và thương cho Tràng: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về”. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ “đứng ngay đầu giường” thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không”. Tối “tân hôn” của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng “tiếng khóc hờ tỉ tê” của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.

    Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn dội lên “dồn dập vội vã”.Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!

    Thái độ của nhà văn…

    Tình huống “nhặt” vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. a. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm hoạ năm Ất Dậu “người chết như ngả rạ”. Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người “gầy sọp”, áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, “cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc”. Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thảm, là chết đói, thị phải “theo trai”, phải lấy Tràng…

    Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải “nhặt” mới có vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tãm, nghèo khổ, cô độc, để mừng “vợ mới vợ miếc”, để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.

    Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là “chè khoán ngon đáo để”, những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói vói con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả

    Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng “nhặt” vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật – Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào t bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể “nhặt” được vợ.

    Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật – chia cho người đói,… Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện “Vợ nhặt” đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1148

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống