Văn mẫu lớp 7 Tập 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 7: tại đây

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình cảm gia đình

Bài làm

   Những câu hát về chủ đề tình cảm gia đình chiếm khối lượng khá lớn trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, thể hiện đời sống tinh thần đẹp đẽ, phong phú của người lao động. Dưới đây là một số câu tiêu biểu nhất:

   Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
   Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
   Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

   Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.

   Anh em nào phải người xa, 
Cùng chung bác me, một nhà cùng thân.
   Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.

   Nội dung những câu hát này thường là lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ với con cháu hoặc là sự bày tỏ lòng hiếu kính của các thế hệ sau đối với ông bà, cha mẹ. Nghệ thuật chung là dùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ quen thuộc trong ca dao.

   Câu thứ nhất khẳng định công lao sinh thành, dưỡng dục to lớn của cha mẹ đối với con cái và nhắc nhở bổn phận, trách nhiệm của con cái là báo đền chữ hiếu:

   Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
   Núi cao biển rộng mênh mông.
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!

   Đây là lời hát ru của bà, của mẹ trên cánh võng đong đưagiữa trưa hè nóng bức hay trong những đêm đông giá rét. Am điệu của lời ca giống như lời tâm tình thủ thỉ, thiết tha, sâu lắng. Lời ru thường gắn liền với những quan hệ tình cảm gia đình và xã hội. Trên đời này, không có bài hát ru nào mà mối quan hệ giữa người nghe và người hát lại gần gũi, ấm áp, thiêng liêng như ở bài này.

   Để khẳng định công cha, nghĩa mẹ, ca dao thường lấy những hình ảnh lớn lao, vĩnh hằng của thiên nhiên để so sánh. Trong văn chương phương Đông, vai trò của người cha thường được ví với trời, với núi; vai trò của người mẹ ví với đất hoặc ví với biển trong các cặp biểu tượng truyền thống (cha – trời, mẹ – đất, cha – núi, mẹ – biển). Những hình ảnh ước lệ đẹp đẽ ấy lại được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời – núi cao, biển rộng mênh mông). Bởi vì chỉ có những hình ảnh lớn lao, kì vĩ ấy mới diễn tả nổi công ơn của cha mẹ. Núi ngất trời, biển rộng mênh mông không thể nào đo được, cũng như công cha nghĩa mẹ đối với các con kể sao cho xiết! Công cha sánh đôi với nghĩa mẹ cũng là cách nói đối xứng truyền thống trong ca dao – dân ca. Nhờ nghệ thuật so sánh tài tình mà lời giáo huấn khô khan về chữ hiếu đã biến thành lời ru ngọt ngào, êm ái. Vì thế mà khái niệm trừu tượng về công cha, nghĩa mẹ cũng trở nên cụ thể, sinh động và thấm thía hơn.

   Công cha, nghĩa mẹ được đúc kết lại ở Cù lao chín chữ. (Cách nói đảo ngược của Chín chữ cù lao – thành ngữ thường được dùng để nhắc đến công ơn cha mẹ). Lời nhắn nhủ chan chứa ân tình về công cha, nghĩa mẹ, về đạo làm con dần dần thấm qua dòng sữa ngọt ngào, qua lời ru êm ái, cứ từng ngày, từng ngay nuôi dưỡng tâm hồn và nhan cách của mỗi chúng ta.

   Câu hát thứ hai là tâm sự của người con gái lấy chồng xa quê. Trong ca dao, dân ca, không gian ngõ sau và bến sông thường gắn liền với tâm trạng của những người phụ nữ có cảnh ngộ như vậy:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau.
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

   Đó là tâm trạng buồn nhớ da diết, xót xa, thường xuất hiện vào lúc chiều buông. Cảnh chiều hay gợi buồn, gợi nhớ, bởi nó là thời điểm của sự đoàn tụ (chim bay về tổ, con người trở về sau một ngày làm việc mệt nhọc). Vậy mà người con gái lấy chồng xa xứ phải thui thủi một mình nơi đất khách quê người.

   Ngõ sau là nơi vắng lặng, và thời điểm ngày tàn đêm đến lại càng vắng lặng. Không gian ấy gợi người đọc nghĩ đến cnahr ngộ cô đơn và thân phận đau khổ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến gia trưởng. Bao nhiêu tủi hờn dồn nén, chất chứa trong lòng mà họ không biết chia sẻ cùng ai.

   Người con gái xa nhà nhớ mẹ, nhớ quê … và băn khoăn day dứt vì chẳng thể trọn đạo làm con là đỡ đần cha mẹ già yếu lúc ốm đau, cơ nhỡ. Bên cạnh đó có cả nỗi nhớ về một thời con gái đã qua cùng nỗi ngậm ngùi thân gái dặm trường, phải chia tay cha mẹ, anh em, khăn gói theo chồng.

   Câu hát thứ ba thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, ông bà của các con, các cháu.

   Sự yêu kính và lòng biết ơn được thể hiện bằng nghệ thuật so sánh khá phổ biến trong ca dao, dân ca: Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu! Qua cầu ngả nón trông cầu, Câu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu … Những sự vật bình thường, quen thuộc đều có thể gợi thi hứng và trở thành thi liệu cho người sáng tác.

   Cái hay trong câu hát này là ở cách diễn tả tình cảm. Động từ Ngó lên bộc lộ thái độ trân trọng, tôn kính. Hình ảnh nuộc lạt mái nhà gợi nên mức độ không thể đo đếm cụ thể của lòng biết ơn cùng sự gắn kết bền chặt của tình cảm huyết thống. Bên cạnh đó, nó còn khẳng định công lao to lớn của tổ tiên, ông bà trong việc gây dựng nên gia đình, họ tộc. Các quan hệ tứ chỉ mức độ tăng tiến (bao nhiêu … bấy nhiêu) nhấn mạnh thêm ý đó.

   Câu hát thứ tư có thể là lời của cha mẹ khuyên nhủ các con hoặc là lời của anh em ruột thịt tâm sự với nhau:

   Anh em nào phải người xa, 
Cùng chung bác me, một nhà cùng thân.
   Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.

   Quan hệ anh em khác hẳn với quan hệ của người xa (người dưng) bởi vì nó có nhiều cái chung, cái cùng rất thiêng liêng: Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Anh em là bát máu sẻ đôi, vui buồn, sướng khổ có nhau dưới một mái nhà.

   Quan hệ anh em được ví như thể tay chân biểu hiện sự gắn bó máu thịt, khăng khít không rời.

   Câu hát là lời khuyên nhủ anh em phải trên thuận dưới hòa, trên kính dưới nhường, phải biết nương tựa, giúp đỡ nhau để cha mẹ vui lòng. Đó cũng là cách bao đền chữ hiếu thiết thực nhất, cụ thể nhất đới với cha mẹ: Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.

   Cả bốn câu hát trên đều sử dụng thể thơ lục bát với âm điệu tâm tình, nhắn nhủ và các hình ảnh so sánh quen thuộc (tất nhiên mỗi bài có những hình ảnh độc đáo riêng).

   Ca dao, dân ca là tiếng hát cất lên từ trái tim chất chứa bao nỗi buồn vui, sướng khổ của con người. Thơ ca dân gian nảy sinh và phát triển là để đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm ấy. Do đó, nó sẽ còn sống mãi, ngân vang mãi trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao:

   Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
   Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Bài làm

   Người Việt Nam ta rất coi trọng đời sống tình cảm, nhất là tình cảm gia đình. Có lẽ không ai không biết đến bài ca dao đã trở thành lời ru quen thuộc tự bao đời:

   Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
   Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

   Nói về công lao của cha mẹ đối với con cái, câu ca dao trên đã đưa ra những hình ảnh giàu sức biểu cảm để so sánh và chỉ ra những hình ảnh vĩ đại như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn mới diễn tả hết công lao so sành ấy. Thái Sơn là một ngọn núi cao nổi tiếng ở Trung Quốc, tượng trưng cho những gì lớn lao, vĩ đại. Khi so sánh Công cha như núi Thái Sơn, nhân dân ta muốn nhấn mạnh công lao của người cha trong việc nuôi dạy con cái trưởng thành. Còn hình ảnh nước trong nguồn thể hiện tình yêu thương vô hạn của người mẹ đối với các con.

   Người xưa đã ví công cha với ngọn núi cao nhất, còn nghĩa mẹ lại so sánh với nước trong nguồn bất tận. Đọc kĩ bài ca dao, ta sẽ ngạc nhiên trước sự tinh tế này. Người xua đã phản ánh rất đúng đặc điểm tâm lí và cách biểu hiện tình cảm của cha mẹ đối với con cái để từ đó chọn chữ và dùng hình ảnh so sánh cho hợp lí. Vì thế chữ công để nói về cha, chữ nghĩa để nói về mẹ. Hai hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn tuy khác xa nhau nhưng đều phù hợp với vai trò và vị trí của mỗi người.

   Công sinh thành của cha mẹ rất lớn. Không có cha mẹ thì không có các con. Bất cứ một anh hùng hay vĩ nhân nào cũng đều được sinh ra từ cha mẹ của mình. Cha mẹ đã dứt ruột sinh ra các con, đã chia sẻ một phần xương thịt để các con có mặt trên đời. Chính vì vậy, công ơn sinh thành của cha mẹ sánh ngang với núi cao, biển rộng.

   Cha mẹ cũng là người nuôi dưỡng các con từ khi mới chào đời cho đến lúc trưởng thành. Mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt lành. Cha mẹ thay nhau chăm sóc đàn con mỗi khi trái gió trở trời. Cha mẹ ra sức làm lụng để nuôi các con khôn lớn.Từ một hình hài nhỏ xíu cho đến khi biết đi, rồi biết đọc, biết viết, biết nấu cơm, quét nhà, biết làm lụng để tự nuôi thân đâu phải là chuyện ngày một, ngày hai. Các con lớn dần lên cũng là lúc cha mẹ già yếu đi. Cha mẹ đã dành cho đàn con tất cả tâm huyết và sức lực của mình.

   Không chỉ nuôi con lớn, cha mẹ còn dạy dỗ cho các con nên người. Cha mẹ dạy con bằng chính những việc làm, những hiểu biết về đời sống, về đạo làm người của mình. Sau này, dù được thầy cô dạy dỗ, được người đời khuyên răn, nhưng cha mẹ vẫn là người thầy đầu tiên, người thầy gần gũi nhất của các con.

   Hạnh phúc thay cho những đứa con được ấm ủ, yêu thương trong vòng tay cha mẹ! Vậy làm con phải đối xử với cha mẹ như thế nào để đền đáp chữ hiếu? Câu cuối của bài ca dao nhắc nhở chúng ta bổn phận làm con:

   Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

   Đạo con là đạo đức, trách nhiệm làm con. Bổn phận của con cái là phải bày tỏ lòng biết ơn và thái độ kính mến, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Tình cảm đối với cha mẹ phải chân thành và được thể hiện qua những thái độ, hành động xứng với đạo làm con.

   Trong dân gian xưa nay đã lưu truyền những câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ qua Nhị thập tứ hiếu (Gương sáng của hai mươi bốn người con hiếu thảo). Nàng Cúc Hoa dắt mẹ đi ăn mày, gặp cảnh ngặt nghèo đã cắt thịt ở cánh tay mình để dâng mẹ ăn cho đỡ đói. Có lẽ đó cũng là một cách nói cường điệu để ca ngợi đức hiếu thảo. Còn trong đời thường, lòng biết ơn cha mẹ được thể hiện qua những lời nói và việc làm cụ thể hằng ngày như cốc nước mát ân cần trao tận tay cha mẹ khi đi làm về nắng nôi, mệt nhọc; là bát cháo nóng bưng cho cha mẹ khi ốm mệt; là sự cảm thông với hoàn cảnh khó khăn của cha mẹ mà không đua đòi ăn diện quần nọ, áo kia… Điều quan trong nhất đối với lứa tuổi học sinh là chúng ta phải phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành người con ngoan, trò giỏi, thành niềm vui, niềm tự hào của cha mẹ.

   Năm tháng qua đi, em ngày một trưởng thành. Em tự nhủ phải học tập thật giỏi để sau này trở thành người hữu ích cho gia đình, xã hội và thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của cha mẹ lúc tuổi già.

   Bài ca dao Công cha như núi Thái Sơn … luôn nhắc nhở em giữ trọn đạo làm con.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao “Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần“.

Bài làm

   Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất trong đời sống con người. Vì thế trong kho tàng văn học dân gian đã có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện… khuyên nhủ mọi người hãy nâng niu tình cảm gia đình đầm ấm , thuận hòa. Một trong những lời khuyên được lưu truyền rộng rãi là:

   Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

   Câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh cụ thể, gần gũi để lời khuyên dễ đi vào lòng người. Ai cũng biết tay, chân là những bộ phận trên cùng một cơ thể con người. Tuy mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng giữa chúng luôn có mỗi quan hệ khăng khít, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Anh em trong gia đình cũng vậy. Tuy mỗi người là một cá nhân riêng biệt nhưng đều cùng cha mẹ sinh ra, cùng chơi, cùng học, cùng lớn lên dưới một mái nhà. Vì thế, quan hệ anh em là quan hệ gắn bó máu thịt với nhau.

   Vậy anh em phải cư xử với nhau thế nào cho đúng? Người xưa khuyên nhủ: Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Anh em ruột thịt phải thương yêu, giúp đỡ nhau trên mỗi bước đường đời.

   Rách, lành là hai hình ảnh tượng trưng cho hai hoàn cảnh sống khác nhau. Rách là cảnh sống khó khăn, khổ sở; còn lành là cảnh sống thuận lợi, sung túc. Hợp nghĩa lại, rách lành chỉ chung mọi cảnh ấm no hay nghèo đói. Khi đói khi no, lúc đủ lúc thiếu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì anh em ruột thịt cũng phải thương yêu, hỗ trợ lẫn nhau, không so đo tính toán thiệt hơn. Hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng tình nghĩa anh em lúc nào cũng phải thắm thiết, bền chặt. Nếu như tình cảm anh em là thứ tình cảm tự nhiên thì sự đùm bọc lẫn nhau cũng là việc làm tự nhiên, tất yếu.

   Đùm bọc có nghĩa là giúp đỡ, che chở, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, mọi điều sướng khổ với tất cả tình cảm thương mến chân thành. Câu ca dao đưa ra một cách cư xử hợp tình hợp lí trong quan hệ anh em. Đây cũng là một chuẩn mực đạo đức để đánh giá phẩm chất con người.

   Đùm bọc, đỡ đần còn là trách nhiệm mỗi người anh, người em trong gia đình. Trong dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện về tình anh em thắm thiết qua Sự tích trầu cau. Hai anh em sinh đôi họ Cao mồ côi cha mẹ, dắt nhau đến học ở nhà thầy đồ họ Lưu. Thấy họ nhường nhau bát cháo duy nhất, cô con gái thầy đồ cảm động và tình nguyện làm vợ người anh. Thế rồi chỉ vì một sự hiểu lầm mà người em xâu hổ phải ra đi. Người anh ân hận bỏ nhà đi tìm em… Tình anh em sâu nặng đã khiến trời đất cảm động, biến anh thành cây cau, em thành hòn đá, mãi mãi bên nhau trong tục ăn trầu của người Việt. Bên cạnh việc ca ngời tình anh em thắm thiết trong truyện Trầu cau, nhân dân ta cũng lên án người anh tham lam độc ác trong truyện Cây khế và dành cho hắn kết cục bi thảm là phải bỏ xác dưới đáy biển sâu.

   Bài học đạo đức từ câu ca dao trên thật sâu xa, thấm thía. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa giáo dục vì trong cuộc sống vẫn còn những cảnh tượng ngang trái, đau lòng, đi ngược lại đạo lí làm người.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao:

   Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều !

Bài làm

   Đây là câu ca dao phản ánh tâm trạng nhớ nhung, buồn khổ của người con gái lấy chồng xa xứ. Ngày ngày, cứ đến lúc chiều buông là cô lại thổn thức gạt thầm nước mắt:

   Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều !

   Câu ca dao chọn thời gian và không gian của buổi chiều tàn để làm nền cho nỗi nhớ, bởi nó thường khơi gợi lòng người nghĩ tới sự trở về và đoàn tụ. Không gian yên ắng, bàng bạc khói sương, mọi vật từ từ chìm vào bóng tối… dễ làm chạnh lòng kẻ xa quê. Ta thử hình dung ra cảnh đời và số phận của người con gái trẻ lần đầu xa mẹ, xa nhà, đi làm vợ, làm dâu nơi đất đồng xứ người.

   Ngày xưa, nông thôn Việt Nam sống khép kín theo kiểu làng xã. Mỗi làng, mỗi xã là một thế giới riêng biệt. Có người suốt đời không bước chân ra khỏi lũy tre làng. Bởi vậy cho nên con gái lấy chồng làng khác có nghĩa là chấp nhận nỗi biệt li dằng dặc, khó biết ngày trở lại. Thêm vào đó là sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến như quan niệm Nữ nhân ngoại tộc hay Tại giá tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử… Tất cả những điều bất công ấy biến cuộc đời người phụ nữ thành một chuỗi dài khổ, buồn thương.

   Đọc câu ca dao trên, ta thấy được một cảnh ngộ, một trnagj thái của tâm hồn: xa cách, nhớ nhung, đau xót. Chiều chiều có nghĩa là ngày nào cũng vậy, cứ đến thời điểm ấy là nỗi nhớ lại cồn cào, xoáy cuộn trong óc, trong tim. Bao nhiêu buổi chiều như thế đã trôi qua mà nỗi nhớ chẳng hề vơi. Nó thôi thúc cô gái ra đứng ngõ sau(cho khuất tầm mắt mọi người), để được một mình sống trong hài niệm. Phía xa quê kia là quê mẹ, là mảnh đất mình sinh ra và lớn lên; là nơi gắn bó với bao kỉ niệm buồn vui của thuở thơ ấu, của thời con gái. Quê mẹ, hai tiêng ấy thiêng liêng biết trừng nào! Quê mẹ là dòng sông, bến nước, là sân đình, gốc đa, là những cánh đồng thẳng cánh cò bay, là những đêm hội làng rộn rã trống chèo, ngân nga tiếng hát tiếng hò dưới ánh trăng vời vợi…

   Cái hay ở câu ca dao là khả năng gợi cảm rất lớn, rất sâu của nó. Không gian của buổi chiều cộng hưởng với tâm hồn đang dâng đầy nỗi nhớ của nhân vật trữ tình khiến cho người đọc thấm thía và cảm động. Cách nói cường điệu (hay còn gọi là ngoa dụ): ruột đâu chín chiều có tác dụng nhấn mạnh và khắc sâu tâm trạng của nhân vật. Nỗi buồn không thể bật thành tiếng khóc (có chăng cũng chỉ là giọt lệ khóc thầm), không thể san sẻ cùng ai, thành ra càng ngấm sâu vào óc, vào tim. Dường như bao nhớ nhung xót tủi đọng lại cả trong hồn.

   Đọc nhiều lần câu ca dao trên và thử đặt mình vào hoàn cảnh của cô gái, ta sẽ thấy nỗi đau chia li làm cho cô như tê dại đi trong cái dáng bất động mỗi chiều, trong ánh mắt đăm đăm dõi về quê mẹ. Bằng những ngôn từ giản dị, tự nhiên, câu ca dao đã diễn tả được cung bậc cao nhất của nỗi nhớ trong tình cảnh xa cách, bơ vơ nơi đất khách quê người. Nỗi nhớ ấy gắn chặt với tình mẫu tử thiêng liêng, với tình quê hương thắm thiết. Vì thế mà cho đến tận bây giờ, nó vẫn làm cho bao trái tim, bao tấm lòng đồng điệu thổn thức, nghẹn ngào.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao:

   Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu!

Bài làm

   Người Việt Nam ta từ ngàn xưa đã có tục thờ cúng đất trời, tổ tiên. Dù giàu hay nghèo, trong mỗi nhà đều có một cái bàn thờ để con cháu quanh năm nhang khói cho ông bà, cha mẹ. Đây là một phong tục đẹp, phản ánh đạo lí : Uống nước nhớ nguồn,Ăn quả nhớ kẻ trồng cây… rất đáng chân trọng và gìn giữ.

   Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Phần lớn nông dân sống cuộc đời nghèo khó, quanh năm bát mồ hôi đổi lấy bát cơm. Hình ảnh những mái rạ bạc phếch, dầu dãi mưa là hình ảnh phổ biến của nông dân thuở trước. Bao số phận cùng khổ của sưu cao thuế nặng, bởi áp bức bất công, bởi nỗi lo cơm áo hằng ngày. Biết lấy gì để báo đáp công lao trời biển của ông bà, cha mẹ? Niềm thương nỗi nhớ chất chứa trong lòng. Băn khoăn, day dứt lắm mà không làm sao được, chỉ biết buông tiếng thở than chua xót:

   Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu!

   Câu ca dao mộc mạc, giản dị như cách suy nghĩ và biểu hiện tình cảm của người nông dân chất phác, thật thà. Nhớ và thương là những khái niệm trừu tượng đã được cụ thể hóa bằng hình ảnh rất quen thuộc: nuộc lạt (nuộc: nút, mối) trên mái nhà. Khi lợp nhà bằng lá cọ, cỏ tranh hay rơm trạ, người ta thường dùng lạt giang hay lạt tre chẻ mỏng, ngâm nước cho mềm để buộc chặt từng lá cọ, từng tấm tranh, tấm rạ vào rui, mè cho chắc chắn, gió không thể thổi bay. Một mái nhà như thế có bao nhiêu nuộc lạt? Chắc là phải tới con số vài ngàn!

   Vào một buổi trưa hè oi ả, hay chiều mưa tầm tã, người con nằm nghỉ trên chiếc phản gỗ hoặc chiếc chõng tre, chợt ngó lên mái nhà rồi vắt tay ngang trán mà ngẫm nghĩ sự đời rồi than thân trách phận sao cứ bị cái nghèo đeo đuổi mãi không tha. Đập vào mắt là cái mái nhà chi chít những nuộc lạt, cách bàn thờ tổ tiên, ông bà chỉ một tầm tay. Nhìn bàn thờ tổ tiên, ông bà mà chạnh lòng thương nhớ, mà áy náy ân hận vì phận làm con, làm cháu chưa trọn. Dòng cảm xúc dâng đầy và nước mắt đã ứa quanh mi, đành chỉ biết tặc lưỡi thở dài, tủi cho người đã khuất và tủi cho người đang sống. Để bày tỏ lòng thành, còn gì hay hơn sự so sánh: Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu! Người con , người cháu không đếm xuể số lượng nuộc lạt cũng như không nói hết được nỗi nhớ ông bà… Cặp từ bao nhiêu… bấy nhiêu bộc bạch nỗi niềm thương nhớ và biết ơn vô hạn.

   Cách so sánh trên thường thấy trong ca dao: Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu; hoặc: Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu… Đây là cách biểu hiện tình cảm tự nhiên và chân thành của người lao động.

   Chỉ hai câu ca dao mà gói ghém biết bao ý nghĩa; nhưng nổi bật nhất và thấm thía nhất vẫn là lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Lòng biết ơn ấy là nền tảng của đạo lí, là cơ sở cho mọi điều tốt đẹp trên đời. Đọc câu ca dao, chúng ta càng thêm quý tâm hồn thuần hậu, trong sáng và hiếu nghĩa của người xưa.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao:

   Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
   Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Bài làm

   Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, một nhà nho, một nhà thơ đầu thế kỉ XX, sau này được nhân dân hóa thành ca dao. Cả bài chỉ vẻn vẹn bốn câu, lời lẽ giản dị tưởng chừng dễ hiểu. Thế nhưng trong thực tế, đã có hai cách hiểu khác nhau rõ rệt và cả hai cách hiểu đó đều có cơ sở và lí do tồn tại. Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi nhớ quê nhà của người xa quê và coi chủ đè chính của bài ca dao là tình cản gắn bó sâu nặng với quê hương. Cách hiểu thứ hai nhấn mạnh vào nỗi nhớ ai của người sắp ra đi và chủ đề chính của bài ca dao là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa.

   Về cách hiểu thứ nhấy người đi xa bộc lộ tình cảm của mình là dẫu sống nơi đất khách quê người nhưng lòng luôn hướng về quê nhà. Nhớ quê nhà là nhớ những gì quen thuộc trong cuộc sống nghèo khó nhưng đầy ắp tình nghĩa. Theo quy luật tâm lí thì quê hương càng trở nên đáng yêu đáng nhớ hơn khi người ta sống xa quê.

   Ta có cảm tưởng như bài ca dao là lời tâm tình tha thiết đối với quê hương của người lao động.

   Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
   Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

   Bài ca dao mở đầu bằng đại từ Anh, lấy anh làm chủ thể với mục đích tập trung tất cả ý tình vào đó: Anh đang sống xa nhà và anh nhớ quê nhà. Cụm từ anh đi anh nhớ thể hiện tình cảm da diết, khôn nguôi.

   Quê nhà không đơn giản chỉ là quê và nhà mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn. Trong trái tim của mỗi chúng ta đều mang nặng tình quê. Bởi vậy khi đi xa nỗi nhớ càng thiết tha sâu nặng:

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.

   Đây là biểu hiện cụ thể của nỗi nhớ quê nhà. Cà dầm tương ăn với canh rau muống nấu cua đồng là món ăn quen thuộc của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ, xa quê, nhớ tới mùi vị của những món ăn dân dã ấy, lòng người xao xuyến biết bao và mong muốn được trở về sum họp với gia đình lại càng thêm da diết. Quê nhà với muôn ngàn cái tưởng như tầm thường: cây đa, bến nước, con đò, giậu mùng tơi xanh, luống cải vàng rung rinh trong gió xuân dìu dịu; tiếng sáo diều vi vu ngân nga lúc chiều về, hương lúa chín nồng nàn khi mùa tới… nhưng vẫn khiến người ta thương nhớ đến quặn lòng.

   Hai câu thơ trên gợi ra mội nỗi nhớ quê nhà thật mộc mạc và đằm thắm khó phai. Hai câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ con người gắn bó với khung cảnh quê hương:

   Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

   Người nông dân ngàn đời nay vẫn gắn liền với cuộc sống dãi nắng dầm sương, vất vả cực nhọc trăm bề. Nắng, sương thật sự thấm đượm cuộc sống nghèo khó. Ông bà, cha mẹ ta tắm sương gội nắng để kiếm cho ta miếng cơm manh áo, để tạo cho ta thể xác, tâm hồn. Quê hương ấy con người ấy hỏi làm sao khi xa cách, ta không thương, không nhớ?!

   Đại từ phiếm chỉ ai trong câu thơ thứ ba có thể là kẻ này người nọ nhưng tất nhiên phải có quan hệ thân thiết với người đi xa. Còn ai trong câu thơ thứ tư thì chỉ có thể là người yêu. Chàng trai xa quê nhớ người yêu trong khung cảnh lao động quen thuộc: tát nước bên đường vào một sớm, một chiều hay một đêm trăng thanh nào đó… Tất cả các kỉ niệm về quê nhà sống dậy, kết thành một nỗi nhớ mênh mông.

   Bài Anh đi anh nhớ quê nhà là bài ca về tình quê hương, xứ sở. Yêu quê hương là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người: Quê hương nếu ai không nhớ, Sẽ không lớn nổi thành người( Đỗ Trung Quân). Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nhưng trong thời đại mới ý nghĩa của hai tiếng quê hương được mở rộng hơn nhiều: trên khắp mọi miền đất nước, ở đâu cũng có cuộc sống tình nghĩa, ở đó là quê hương. Dù vậy, bài ca dao trên muôn đời vẫn là cung đàn dịu ngọt cho mọi tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, xứ sở.

   Về cách hiểu thứ hai, nếu ta coi đại từ phiếm chỉ ai trong hai câu cuối của bài ca dao là người bạn tình của chàng trai thì nỗi nhớ quê nhà gắn liền với nỗi nhớ người yêu. Cả hai nỗi nhớ đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung mà bài ca dao muốn bày tỏ và nếu coi bài thơ là lời tâm sự trước lúc đi xa của chàng trai với cô gái thì có một điểm đặc biệt đáng chú ý là chàng trai chưa xa mà đã nhớ. Dường như cô gái cũng thiết tha muốn biết khi xa quê chàng trai sẽ nhớ những gì và nhớ những ai. Bốn câu ca dao với năm từ nhớ liên tiếp cho thấy chàng trai vừa giãi bày được lòng mình vừa đáp ứng được nhu cầu của lòng bạn: Anh đi anh nhớ quê nhà.

   Ở câu thứ nhất, tuy nỗi nhớ còn chung chung, chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng đã yên tâm và chứa chan hi vọng vì chàng trai xưng anh với cô rất ngọt ngào, thân thiết. Vả lại, khi đi xa, chắc chắn chàng trai sẽ rất nhớ quê nhà, vì ở đó có cô gái mà mình thầm yêu mến.

   Đến câu thứ hai: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương thì chàng trai đã cụ thể hóa nỗi nhớ quê nhà ở câu thứ nhất một cách rất tự nhiên. Canh rau muống, cà dầm tương là những món ăn quen thuộc của người nghèo, mấy ai xã quê mà không thèm, không nhớ? Nhưng nhớ quê nhà không lẽ chỉ nhớ thế thôi ư? Cô gái dõi theo lời chàng trai rồi hồi hộp lắng nghe và chờ đợi.

   Sang câu thứ ba: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng chưa thể khẳng định chắc chắn, vì ở quê nhà có bao người dãi nắng dầm sương, chứ đâu phải riêng cô?

   Cách nói của chàng trai như vậy là cách nói lấp lửng, vừa nói vừa thăm dò phản ứng của đối tượng, vừa kìm nén cảm xúc chất chứa trong lòng mình. Chỉ đến khi cảm thấy cô gái đã thuận tình, thuận ý, chàng trai mới dám thổ lộ một cách ý nhị và tình tứ: Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

   Qua đó, chàng trai bày tỏ tình yêu với người bạn gái. Đôi trai gái đã để ý đến nhau từ lâu nhưng chưa một lần thổ lộ. Tình yêu của họ mới ở giai đoạn đầu ngượng ngùng khó nói. Giờ đây, khi sắp xa quê, chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Cách diễn đạt nỗi nhớ từ xa tới gần: Anh đi anh nhớ quê nhà; từ chung đến riêng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương; từ phiếm chỉ đến xác định: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Đến đây thì cả ý lẫn tình đều rõ. Ai kia chính là cô gái siêng năng, thuần hậu, dãi nằng dầm sương, góp phần cùng bao người làm nên ý nghĩa cuộc sống của chốn quê nhà. Nếu anh xa quê, thì người mà anh nhớ nhất sẽ là em – bởi em đã hóa thân thành quê hương yêu dấu.

   Tuy cuộc trò chuyện nhằm bày tỏ tình yêu nhưng chàng trai đã tránh không đụng chạm đến một từ yêu, thương nào mà tất cả những cảm xúc yêu thường đều dồn nén vào một từ nhớ. Từ nhớ được nhắc đi nhắc lại đến năm lần, mỗi lần một cung bậc, một nội dung khác nhau và càng về sau càng cụ thể hơn, da diết hơn.

   Trong ca dao, nhất là ca dao tỏ tình, việc mượn cái này để nói cái kia, mượn nhớ nói yêu, mượn giận nói thương đã trở thành thông lệ quen thuộc. Dù hiểu cách nào thì ở bài ca dao trên, tình yêu quê hương, tình yêu trai gái cũng hòa quyện một cách với nhau một cách sâu nặng.

   Bài ca dao chỉ có 4 câu với những hình ảnh tưởng chừng bình thường nhưng tieu biểu, chọn lọc đã nói lên được tình cảm thắm thiết tác động sâu xa đến tâm hồn người nghe. Phải thực sự yêu quê, phải là người lao động gắn bó sâu sắc với cuộc sống ở làng quê mới sáng tạo ra được một bài ca dao bình dị mà tuyệt vời đến thế!

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1038

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống