Xem toàn bộ tài liệu Lớp 7: tại đây
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 7
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 7
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 7
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 7 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 7 tập 2
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 7 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 7 (Cực Ngắn)
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 7 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 7 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 7 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 7 Tập 2
Đề bài: Phân tích bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương
Bài làm
Cùng nói về chủ đề nhớ quê hương, Lí Bạch trong bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh với giọng văn nhẹ nhàng mà thấm thía cho người đọc thấy tình cảm của người con thấy trăng mà nhớ về quê hương. Còn trong bài Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương lại đem đến cho người đọc những cảm xúc, tình cảm mới mẻ, đặc sắc riêng.
Tác phẩm được ông viết sau hơn năm mươi năm xa cách quê hương, cho đến những ngày cuối đời, ông từ quan trở về quê nhà. Hồi hương ngẫu thư bao gồm hai bài thơ, bài được trích trong sách là bài thơ thứ nhất. Tác phẩm không chỉ thể hiện tình yêu quê hương tha thiết mà còn thể hiện nỗi xót xa, ngậm ngùi khi trở về quê nhà.
Hai câu thơ đầu nêu lên hoàn cảnh về quê: “Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấm mao tồi”. Câu thơ là kể mà thực chất là để bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng: khi đi tuổi trẻ, cống hiến hết sức mình cho đất nước, khi trở về đã là ông lão râu tóc bạc trắng. Nghệ thuật đối lập: thiếu tiểu – lão đại, li gia – hồi càng khiến nỗi xót xa trở nên đậm nét hơn. Nửa đời người ông đã xa quê hương, nay trở về thời gian được sống, được gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn còn lại vô cùng ngắn ngủi. Bởi vậy câu thơ vang lên như một lời thở than đầy ngậm ngùi. Câu thơ thứ hai thể hiện rõ nhất tình yêu quê hương của ông. Câu thơ này ông tiếp tục sử dụng nghệ thuật đối: hương âm – mấm mao, vô cải – tồi. Bao trùm lên toàn bộ câu thơ là sự tương phản, đối lập giữa cái đổi thay và cái không đổi thay. Thời gian có thể làm thay đổi ngoại hình, diện mạo, sức khỏe, tuổi tác của một con người nhưng không thể làm mất đi hồn cốt quê hương trong con người ấy. Hạ Tri Chương cũng như vậy, dù nửa đời người phải xa cách quê hương, mái tóc đã pha sương nhưng có một thứ duy nhất không thay đổi, chính là giọng quê. Tác giả đã lấy cái thay đổi để làm nổi bật lên cái không thay đổi, từ đó khẳng định tình cảm gắn bó máu thịt, bền chặt cuả mình với quê hương.
Hai câu thơ cuối tạo ra tình huống bi hài:
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai
Xa quê đã lâu ngày, trẻ con nhìn thấy không chào cũng là điều dễ hiểu. Nhưng dù thế, rơi vào tình huống đó lòng ông cũng không khỏi ngậm ngùi, chua xót. Câu thơ phảng phất nỗi buồn sau nụ cười đùa vui, hóm hỉnh.
Ta có thể thấy sự chuyển đổi giọng điệu giữa hai câu đầu và hai câu sau khá rõ nét. Nếu như hai câu đầu chủ yếu mang giọng khách quan, cái ngậm ngùi chỉ được thể hiện ngầm ẩn. Dấu ấn thời gian in đậm nét trong các câu thơ, mọi thứ đều thay đổi duy chỉ có giọng quê là vẫn giữa nguyên. Trong hai câu sau hoàn cảnh trở nên ngang trái, trớ trêu: nhà thơ trở thành khách trên chính quê hương của mình. Sự tươi tỉnh, hồn nhiên, cùng câu hỏi của bọn trẻ đã làm rõ hơn sự thay đổi của con người, của quê hương. Như vậy, ẩn sau giọng điệu bi hài, hóm hỉnh là cảm giác buồn bã, ngậm ngùi của một người con luôn tha thiết yêu quê hương.
Bài thơ có kết cấu độc đáo, giữa hai phần tự nhiên, hợp lý, gây được bất ngờ cho người đọc. Tác giả vận dụng nghệ thuật đối tài tình cho thấy sự đổi thay của nhiều yếu tố song chỉ có tình yêu quê hương của tác giả là không đổi. Ngôn ngữ dồn nén, giàu sức biểu cảm.
Với lớp ngôn từ vừa đùa vui, hóm hỉnh vừa ngậm ngùi, buồn bã đã cho thấy tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả. Qua tác phẩm này ta cũng thấy được tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liên và đáng trân trọng.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương.
Bài làm
Hạ Tri Chương (659 – 744), tự Quý Chân, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tình Chiết Giang, Trung Quốc). Ông đậu tiến sĩ năm 695, làm quan trên 50 năm ở thủ đô Trường An. Tài và đức của ông khiến cho vua Đường Huyền Tông vị nể. Đến năm 85 tuổi, Hạ Tri Chương mới về quê sống và chưa đầy một năm sau thì qua đời. Bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê được sáng tác khi ông vừa đặt chân lên mảnh đất cố hương.
Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao. Trẻ con nhìn lạ không chào Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi? (Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Bài thơ phản ánh chân thực tâm trạng xúc động, buồn vui lẫn lộn của một người xa nhà đã lâu trong khoảnh khắc vừa mới trở về quê cũ, qua đó thể hiện tình cảm quê hương tha thiết, sâu nặng của nhà thơ.
Tên chữ Hán của bài thơ là Hồi hương ngẫu thư. Ngẫu thư nghĩa là ngẫu nhiên mà viết ra. Ngẫu nhiên vì tác giả không có chủ định làm thơ. Còn tại sao không chủ định viết mà lại viết thì đọc xong bài thơ ta mới rõ. Tác giả rằng, khi về đến làng, ông không gặp bạn bè hay những người thân trong gia đình ra đón mà gặp đám trẻ con đang chơi đùa. Đó chính là duyên cớ – mà duyên cớ thì bao giờ cũng có tính chất ngẫu nhiên, khiến tác giả cũng ngẫu nhiên nổi lên thi hứng mà viết nên bài thơ này.
Nhưng nếu chỉ vì duyên cớ ngẫu nhiên thì bài thơ không thể hay, không thể rung đọng lòng người mà đằng sau nó là tình cảm quê hương của nhà thơ dồn né bao năm giờ đây cần được thổ lộ. Tình cảm ấy như một sợi dây đàn đã căng hết mức, chỉ cần khẽ chạm vào là rung động, ngân vang, thổn thức.
Phép đối ở hai câu đầu thể hiện tài thơ sắc sảo của tác giả:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi, Hương âm vô cải, mấn mao tồi. (Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.)
Trong câu mở đầu, tác giả kể vắn tắt về cuộc đời sống xa quê đi làm quan của mình và bước đầu hé lộ tình cảm đối với cố hương.
Câu thứ hia là câu tác giả miêu tả chính mình: Hương âm vô cải, mấn mao tồi. Nhà thơ lấy một chi tiết đã thay đổi là mái tóc (mấn mao tồi) để làm nổi bật yếu tố không thay đổi là giọng nói quê hương (hương âm vô cải) để nhấn mạnh ý: Dù hình thức bên ngoài có bị thời gian và cuộc sống lâu dài ở kinh thành làm cho thay đổi nhiều nhưng bản chất bên trong vẫn nguyên vẹn là con người của quê hương.
Hai câu cuối:
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức, Tiếu vẫn: khách tòng hà xứ lai? (Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?)
Sau năm mươi năm xa quê đằng đẵng, nay trở về làng cũ, nhà thơ chỉ thấy lũ trẻ con đang tung tăng nô đùa, chạy nhảy. Điều đó chứng tỏ lớp người cùng tuổi với ông chắc chẳng còn mấy. Thời bấy giờ, ái sống được đến bảy mươi là đã được liệt vào hạng “cổ lai hi” (xưa nay hiếm – từ dùng của Đỗ Phủ). Giá như vài người vẫn còn sốn thì liệu có ai nhận ra nhà thơ không?! Điều trớ trêu là sau bao nhiêu năm xa cách, nay trở về nơi chôn nhau cắt rốn mà nhà thơ lại “bị” xem như khách lạ! Tình huống ấy đã tạo nên cảm xúc bi hài thấp thoáng sau lời kể cố giữ vẻ khách quan, trầm tĩnh của nhà thơ.
Nói về lẽ sống chết, Khuất Nguyên có hai câu thơ nổi tiếng: Hồ tử tất thủ khâu, Quyện điểu quy cựu lâm. (Cáo chết tất quay đầu về phía núi gò, Chim mỏi tất bay về rùng cũ). Muông thú còn thế, huống chi con người! Khuất Nguyên dùng ẩn dụ để khẳng định một quy luật tâm lí muôn đời. Giản dị và dễ hiều hơn, người xưa nói: Lá rụng về cội. Lúc trưởng thành, vì hoàn cảnh khó khăn mà người ta phải xa quê kiêm sống khắp nơi. Khi già yếu, ai cũng mong được sống những ngày còn lại ở quê nhà vì không ở đâu tình người lại ấm áp như ở nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Dẫu làm tới một chức quan rất lớn ở triều đình thì Hạ Tri Chương cũng không nằm ngoài quy luật tâm lí ấy.
Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
Bài làm
Tha hương, xa xứ là nỗi bi kịch lớn trong đời của mỗi người, nhất là đối với các nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, họ càng thấm thía và đau xót hơn về nỗi đau ấy. Hạ Tri Trương là người từng trải qua nỗi sầu xa sứ, ông phải rời quê từ thuở trẻ để lên kinh đô lập nghiệp. Ở nơi đất khách quê người nỗi nhớ cố hương luôn thường trực canh cách trong lòng ông, chính vì thế được trở về quê hương lòng người trào dâng bao cảm xúc khôn tả. Bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê”, Hạ Tri Trương đã thể hiện sâu sắc khoảnh khắc vừa chân thực vừa xúc động nghẹn ngào của một người con xa quê lâu ngày trở về.
Bao năm xa quê sống ở nơi đất khách với cuộc sống mới có vinh hoa phú quý, có công danh sự nghiệp những quê hương vẫn là bến đỗ bình yên mà nhà thơ luôn hướng về:
“Thiếu tiểu lí gia lão đại hồi”
Câu thơ thoáng qua ngỡ chỉ là lời kể đơn thuần chân thực những phải cảm nhận kĩ mới thấy được nó chất chứa bao nghịch cảnh buồn thương, đau xót. Những cặp từ đối lập thiếu – lão, tiểu – đại mở ra vòng xoay của thời gian, đó cũng là thước đo độ dài quãng thời gian xa quê của tác giả. Khoảng cách từ thuở trẻ đến khi đã già thực sự rất dài, nó đằng đẵng, mênh mông triền miên gần một kiếp người. Câu thơ đã cho thấy sự đau xót, tiếc nuối về khoảng thời gian đã qua với những điều còn chưa trọn vẹn. Tuổi trẻ rời quê ra đi, mải miết chạy theo con đường công danh, khi công thành danh toại cũng là lúc tuổi trẻ đã tàn phai, trong phút giây lắng lại của cuộc đời, quê hương vẫn là nơi duy nhất nhà thơ tìm về, điều này cho thấy trái tim ông chưa bao giờ thôi hướng về cội nguồn, gốc rễ của mình.
Chính những tình cảm sâu nặng đối với quê hương đã khiến ông luôn trân quý và giữ gìn những gì thuộc về bản sắc quê nhà, trong đó tiêu biểu nhất là giọng quê.
“Hương âm vô cải mấn mao tồi”
Thời gian lạnh lùng trôi làm tàn phai tuổi trẻ của con người, sóng gió cuộc đời xô bồ làm bạc đi mái tóc của con người nhưng tất cả những điều đó không bao giờ làm phái mờ dấu ấn của quê hương đó là giọng quê. Sắc điệu giọng nói của con người chính là sự biểu hiện cụ thể của chất quê, hồn quê. Câu thơ với thủ pháp đối đã cho thấy cái đổi thay và điều bất biến của con người tác qua đó nhấn mạnh sự bền bỉ, nguyên vẹn của tình cảm quê hương trong tâm hồn tác giả. Hạ Tri Trương ở nơi kinh đô, được nhà vua trọng dụng, cuộc sống nơi phồn hoa hoàn toàn cho phép ông có thế quay lưng với quê hương, thay đổi tất cả để trở thành con người đô thị quyền quý, sang trọng. Thế nhưng ông vẫn giữ được giọng quê, giữ được những cốt cách, gốc gác của quê nhà, điều này thực sự rất đáng trân trọng. Bao năm xa quê nhưng tình quê không đổi, câu thơ đã cho thấy tấm lòng thủy chung, son sắt một lòng hướng về quê hương của nhà thơ.
Yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với cội nguồn của mình, cho nên Hạ Tri Trương luôn mong muốn một ngày được trở về, gặp lại người thân bạn bè, gặp lại những kí ức của một thời đã qua trong niềm hân hoan, chào đón. Vậy mà chính khoảnh khắc trở về quê cũ, ông đã phải trải qua bi kịch trở thành người khách lạ trên chính quê hương của mình.
“Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai”
Vẫn là cảnh cũ, là những hồi ức một thời nhưng người xưa nay đã không còn. Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ bắt gặp đó chính là lũ trẻ con, ngày ông ra đi khỏi chốn quê cũ có khi bố mẹ chúng còn chưa ra đời, nay ông trở về lũ trẻ hồn nhiên xem ông là người xa lạ. Dù biết đó là lẽ thường nhưng nhà thơ vẫn không khỏi chạnh lòng. Không một ai nhận ra ông, không một người đón tiếp ông, ông trở nên bơ vơ lạc lõng ngay trên mảnh đất quê hương mình. Trẻ con vô tư, hiếu khách chào hỏi “khách ở nơi nào đến chơi” càng kiến ông trở nên nhói lòng. Tiếng “khách” được thốt lên một cách thực sự hồn nhiên nhưng khiến Hạ Tri Trương vừa bất ngờ vừa buồn tủi, xót xa. Ông phải đón nhận nghịch lí trở thành khách lạ trên chính quê hương mình. Nỗi bi kịch của Hạ Tri Trương thật đáng cảm động và thương xót
Với những hình ảnh đối lập, từ ngữ trong sáng, giản dị, hàm súc bài thơ đã thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc tình yêu quê hương tha thiết, thủy chung của người con xa sứ. Bài thơ khép lại nhưng nó lại mở ra những ý nghĩa lớn lao trong lòng người. Quê hương là mảnh đất thiêng liêng của mỗi con người, vì thế ta hãy biết trân trọng và hướng về nó.