Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Cực Ngắn)
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 10
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao
Sách giải văn 10 bài luyện tập viết đoạn văn tự sự (Ngắn Gọn), giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 10, sách giải ngữ văn lớp 10 bài luyện tập viết đoạn văn tự sự sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 10 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, giải bài tập sgk văn 10 đạt được điểm tốt:
Câu 1 (trang 97 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
a. Các đoạn văn trên thể hiện đúng như dự kiến của tác giả. Nội dung và giọng điệu của đoạn văn mở đầu và kết thúc có những điểm giống nhau sau:
– Giống nhau: Cả đoạn mở đầu và kết thúc đều miêu tả cảnh rừng xà nu. Nó tạo thành một kết cấu vòng tròn. Kết cấu này vừa đảm bảo sự chặt chẽ về bố cục, vừa tập trung làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Bên cách đó, cấu kiểu vòng tròn giúp nội dung truyện xoáy sâu vào tâm trí người đọc và vì không có một cái kết cố định, kiểu kết cấu này giúp người đọc liên tưởng phần kết theo suy nghĩ của mình.
– Khác nhau: Hai đoạn mở đầu miêu tả cánh rừng xà nu cụ thể sinh động bằng những chi tiết nghệ thuật giữa sức tạo hình nhằm để tạo không khí cho câu chuyện và để dẫn dắt, lôi cuốn người đọc. Đoạn đầu mở ra khung cảnh về một cánh rừng xà nu tràn đầy nhựa sống, bảo vệ cho dân làng. Đoạn sau, cánh rừng bị tàn phá nhưng gợi ra một sự khởi đầu mới với hình ảnh những cây xà nu con đang mọc.
b. Qua việc tìm hiểu các giai đoạn sáng tác tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyên Ngọc, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm: trước khi viết hoặc kể chuyện cần suy nghĩ, dự kiến trước phần mở đầu và kết thúc của bài văn. Có như vậy bài văn sẽ có một mạch thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và lôi cuốn người đọc, người nghe hơn.
Câu 2 (trang 98 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
a. Đoạn văn này thuộc phần thân bài (phần phát triển) trong “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết. Đoạn văn này đã kể lại một sự việc quan trọng, đó là chuyện “Chị Dậu về làng lãnh đạo cuộc nổi dậy khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra”. Sự việc ấy phù hợp với chủ đề và cốt truyện mà bạn học sinh đã nêu ra và lập dàn ý. Có thể xem đây là đoạn văn trong văn bản tự sự.
b. Có thể nói, đoạn văn trên mới chỉ thành công trong việc “kể” lại câu chuyện. Nhược điểm của đoạn văn là việc sắp xếp những đoạn tả cảnh, tả tâm trạng còn chưa nhuyễn, chưa hay. Văn phong còn lúng túng, gượng gạo.
– Có thể sửa chữa lại hai chỗ “lúng túng” trong đoạn văn của bạn học sinh như sau:
+ “… Đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang nếp nhà lụp xụp của gia đình chị đúng lúc ở phía trời đông ông mặt trời bắt đầu thắp sáng bình minh bằng những ánh hồng rực rỡ, chị Dậu bỗng chợt nhìn thấy một đoàn người…”.
+ “Người đàn bà nhà quê khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy vui mừng đến rơi nước mắt. Nhưng cố nén xúc động…”.
Câu 3 (trang 99 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Từ kinh nghiệm học được ở nhà văn Nguyên Ngọc và đoạn viết về hậu thân của chị Dậu, có thể rút ra một vài ghi nhớ về cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự:
– Khi viết đoạn mở bài và đoạn kết thúc, cần dựa vào đề tài và cốt truyện để xác định nội dung. Hai đoạn văn này cần phải được đảm bảo sao cho ý tứ phải thống nhất và hô ứng với nhau.
– Sau đoạn mở đầu, vẫn phải dựa vào cốt truyện, dựa vào chủ đề, tư tưởng của bài văn để viết các đoạn thân bài: đoạn miêu tả, đoạn giới thiệu nhân vật, đoạn kể việc, đoạn đối thoại,…
– Khi viết đoạn văn trong bài văn tự sự cần huy động năng lực quan sát, tưởng tượng, liên tưởng, những kiến thức về cuộc sống,… đồng thời cũng phải thành thạo các thao tác trong việc viết đoạn văn.
Câu 1 (trang 99 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
a. Đoạn văn này kể lại sự việc cô Phương Định – một nữ thanh niên xung phong đang phá bom để mở đường ra mặt trận. Đây là đoạn văn nằm ở phần thân bài (phần phát triển) của văn bản tự sự Những ngôi sao xa xôi (truyện ngắn của Lê Minh Khuê).
b. Đoạn văn được chép lại có một số sai sót về ngôi kể.
Trong truyện ngắn, người kể chuyện (nhân vật Phương Định xưng tôi, kể chuyện về bản thân mình và tổ thanh niên xung phong). Một số câu trong đoạn này, đại từ “tôi” đã bị thay bằng “cô gái” (câu 5); “Cô” (câu 6, 16), danh từ riêng “Phương Định” (câu 14, 20). Cần sửa lại để văn bản được thống nhất về ngôi kể (ngôi thứ nhất – xưng tôi).
c. Từ những phát hiện và chỉnh sửa trên có thể rút ra bài học:
Trong văn bản tự sự, người viết cần nhất quán về ngôi kể. Nếu không có sự thay đổi về người kể thì ngôi kể ấy sẽ phải thống nhất từ đoạn đầu đến các đoạn tiếp theo. Có như vậy, văn bản tự sự mới chặt chẽ, lôgic, hấp dẫn và thuyết phục người đọc.
Câu 2 (trang 99 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Đọc lại văn bản để nhớ lại kiến thức.
Hướng dẫn viết bài: Hành động và cảnh vật làm nổi lên tâm trạng của nhân vật nữ.
– Hành động của cô gái: vừa đi vừa ngoảnh lại, đôi chân cứ bước đi nhưng lòng nặng trĩu nỗi niềm, nàng phải theo người mà mình không hề yêu thương và bỏ lại sau lưng một mối tình đẹp đẽ.
– Cảnh vật: Đường cô gái đi rất dài, nơi cô đến: rừng ớt, rừng cà, rừng lá ngón, hành động: ngắt lá ớt, lá cà, chờ, đợi, ngóng trông. Lá ớt, lá cà, lá ngón đều là lá độc –> cô gái như muốn kết thúc số phận của mình, để khỏi đi theo người chồng xa lạ, người chồng mà cô không hề yêu thương, muốn được sống bên chàng trai –> ước muốn được tự do yêu đương của con người.