Văn mẫu lớp 10 Học kì 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây

Đề bài: Dàn ý Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu: Là người cương trực, học vấn uyên thâm được vua và dân nhà Trần tin cậy.

– Khái quát về thể phú: Sử dụng hình thức đối đáp chủ – khách để thể hiện nội dung, có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi.

– Giới thiệu bài thơ Bạch Đằng Giang phú: hoàn cảnh ra đời, nội dung.

I.. Thân bài

1. Cảm xúc của nhân vật khách trước sông Bạch Đằng

– Nhân vật “khách”: Là sự tự xưng của tác giả, tạo nên lối chủ-khách đối đáp thường dùng trong thể phú.

– Tâm thế du ngoạn: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

→Tư thế ung dung, tự do. Tác giả là người có tâm hồn tự do, phóng khoáng.

– Hành trình du ngoạn của tác giả:

    + Các địa danh Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng.

→Những địa danh được biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng. Tác giả là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng.

    + Các danh lam thắng cảnh Đại Việt: Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng – dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

→Tác giả yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ hào hùng của dân tộc.

    + Cách nói cường điệu: Sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày.

→Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách, say sưa, chủ động đến với thiên nhiên.

– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng

    + Hùng vĩ, tráng lệ:

      •”Sóng kình muôn dặm”: Địa thế hiểm trở, dữ dội của con sông Bạch Đằng.

      •”Đuôi trĩ một màu”: Những con thuyền nối đuôi nhau trên dòng sông.

    + Thơ mộng, trữ tình

      •Thời gian “ba thu”: Tháng thứ ba của mùa thu, thu chín nhất.

      •”Nước trời một sắc”: Bầu trời, mặt nước đều hòa chung một màu trong xanh.

    + Hoang vu, hiu hắt

      •Từ láy “san sát, đìu hiu”: Cực tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo đầy lá lách, lau sợi

      •”Giáo gãy, xương khô”: Chiến trường xưa, chốn tử nạn của quân thù.

– Tâm trạng của khách:

    + Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

    + Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy nhà thơ đang đắm chìm vào thế giới nội tâm với sự tiếc nuối ngậm ngùi.

2. Các bô lão kể về những chiến tích trên sông Bạch Đằng

– Hình ảnh bô lão: Có thể là những nhân vật có thật, là các vị cao niên ở hai bên bờ sông, cũng có thể là hư cấu, sự phân thân của tác giả để khách quan kể về những chiến công trên sông Bạch Đằng.

– Thái độ của các bô lão với khách: “vái”, “thưa”- hiếu khách, tôn kính khách.

– Các chiến công tiêu biểu: Ngô quyền đánh quân Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.

– Không khí chiến trường xưa:

    + Sự chuẩn bị của quân nhà Trần: thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, hùng hổ sáu quân, gươm giáo sáng chói

→Chuẩn bị kĩ lưỡng, binh lực hùng hậu, hào khí ngút trời.

    + Diễn biến trận đánh:

      •Cách nói “được thua chửa phân”, “bắc nam chống đối”, hình ảnh phóng đại “nhật – nguyệt phải mờ, bầu trời đất sắp đổi”

→Trận đánh gay go, quyết liệt, giằng co căng thẳng.

      •Quân giặc: “những tưởng gieo roi một lần quét sạch Nam bang bốn cõi”

→Kiêu căng, hống hách, ngạo mạn

      •Kết thúc trận đánh: Hung đồ hết lối, khác nào…chết trụi.

→Thủ pháp so sánh tăng cấp tô đậm, nhấn mạnh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của kẻ thù.

→Khẳng định tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

3. Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công

– Nguyên nhân thắng lợi: đất trời cho nơi hiểm trở, nhân tài giữ được cuộc điện an, đại vương coi thế giặc nhàn.

→Nhấn mạnh ba yếu tố làm nên thắng lợi thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó nhấn mạnh vai trò của con người.

– Gợi lên hình ảnh Trần Quốc Tuấn và so sánh với những người xưa

→Khẳng định sức mạnh, tài năng của con người nhất là người lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.

4. Suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

– Lời của các bô lão.

    + Hình tượng sông Bạch Đằng: mênh mông, rộng lớn, hùng vĩ, hiểm trở

→Tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương, về dòng sông lịch sử.

    + Mượn quy luật của tự nhiên để khái quát quy luật của con người: Mọi dòng sông đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn đời.

– Lời của khách:

    + Ca ngợi sông Bạch Đằng dòng sông lịch sử, dòng sông anh hùng.

    + Ca ngợi đức độ, tài năng hai vị thánh quân Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.

    + Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc.

5. Nghệ thuật

– Bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động

– Xây dựng các hình tượng nhân vật sinh động, đặc sắc mạng ý nghĩa triết lí.

– Ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, hào hùng.

I.I. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

– Mở rộng: Sông Bạch Đằng là đề tài, niềm cảm hứng lớn trong văn chương với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác.

Đề bài: Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

     Trương Hán Siêu là một danh nhân văn hóa đời Trần, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình đồng thời ông còn là một nhà thơ nổi bật của thời đại. Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, tiêu biểu cho văn học yêu nước thời Lí – Trần.

     Tác phầm gồm có bốn phần chính, đoạn mở đầu thể hiện cảm xúc lịch sử của nhân vật khách trước cảnh sắc sông Bạch Đằng. Đoạn tiếp theo là đoạn giải thích: các bô lão kể với nhân vật khách về chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng. Đoạn tiếp thể hiện suy ngẫm và bình luận của các bô lão về chiến công xưa. Đoạn kết là lời ca khẳng định vai trò của con người.

     Dưới con mắt của nhân vật khách, thiên nhiên hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau. Đó là vẻ đẹp thơ mộng, hùng vĩ:

    Bát ngát sóng kình muôn dặm

    Thướt tha đuôi trĩ một màu

     Câu thơ vẽ nên không gian mênh mông, rộng lớn, những con sóng lớn liên tiếp, nối đuôi nhau trải dài đến vô tận vẽ ra cảnh tượng vô cùng hùng vĩ. Câu thơ thứ hai gợi hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông tựa như những cái đuôi trĩ thướt tha. Hai chữ “thướt tha” cho thấy dáng vẻ mềm mại, duyên dáng, uyển chuyển. Không gian sông nước hòa vào làm một, phong cảnh đẹp đẽ này đã trải suốt bao năm: “Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”. Câu thơ đồng thời cũng là bản lề để mở ra vẻ đẹp thứ hai của sông Bạch Đằng:

    Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

    Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô

     Trước mắt nhân vật khách hiện ra bờ lau san sát, hút tầm mắt, kết hợp với hai từ láy “đìu hiu, san sát” bổ trợ nghĩa cho nhau cho thấy sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn cảnh tượng hoang vu ấy, nhân vật khách liên tưởng đến đáy sông với hàng loạt vũ khí bỏ lại, nhìn gò mà nhớ tới những nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng lại trong các trận chiến.

     Hình tượng nhân vật khách hiện lên là người có tráng chí bốn phương, cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt, ham du ngoạn. Du ngoạn với tâm thế tự nguyện và say sưa, “tiêu dao” thảnh thơi đi đây đi đó, không hề có chút vướng bận. Ông du ngoạn bốn phương với mục đích là thưởng thức cảnh đẹp non sông, đồng thời nghiên cứu cảnh trí đất nước để bồi dưỡng kiến thức cho riêng mình. Đứng trước cảnh sắc thiên nhiên ông vừa vui mừng trước cảnh đẹp quê hương đất nước vừa thể hiện niềm tự hào trước dòng sông ghi dấu chiến công lịch sử. Nhưng bên cạnh đó ông còn buồn thương, tiếc nuối vì chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn lại sự hoang vu, hiu quạnh. Khách đứng lặng giờ lâu nuối tiếc khi thời gian chảy trôi đã vô tình nhuốm màu hoang vu lên mảnh đất này.

     Bên cạnh hình tượng nhân vật khách, ta còn thấy hiện lên hình tượng của các bô lão với những gợi nhắc về trận chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng lịch sử. Về nhân vật bô lão có thể hiểu là hình ảnh thực của các bô lão mà tác giả gặp trong chuyến du ngoạn sông Bạch Đằng, nhưng cũng có thể là sự hư hấu từ chính những tâm tư, tình cảm của tác giả. Dù là thực hay hư cấu thì hình ảnh bô lão hiện lên đã gợi lại hình ảnh của hội nghị Diên Hồng với ý chí quyết chiến quyết thắng. Các bô lão theo nguyện vọng của khách đã tái hiện lại một cách hào hùng, oanh liệt trận chiến trên sông Bạch Đằng: Trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Ngô chúa phá Hoằng Thao. Chiến thắng của vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo dẫn quân đánh thắng giặc Nguyên Mông, bắt sống Ô Mã Nhi, Ngô Quyền đánh thắng Hoằng Thao. Đặc biệt nhấn mạnh chiến công trên sông Bạch Đằng. Trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt. Hai bên cân sức cân tài, diễn biến trong thế giằng co, không phân thắng bại, khiến trời đất phải rung chuyển: Ánh nhật nguyện chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi. Đây là trận chiến kinh thiên, động địa, lay chuyển cả trời đất. Và kết quả, chiến thắng đã thuộc về chính nghĩa, những kẻ phi nghĩa đã phải chịu sự bại vong. Để nhấn mạnh sự thất bại nhục nhã của địch, bô lão đã lấy hai điển tích là trận Xích Bích và nhận Hợp Phì. Trương Hán Siêu đưa ra hai trận đánh nổi tiếng trong lịch sử để nâng tầm vóc chiến công vang dội, chiến thắng hào hùng của dân tộc ta. Với giọng điệu nhiệt huyết, tự hào, các bô lão đã tái hiện sinh động trận chiến cũng như thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Sau khi kể lại trận chiến, các bô lão thể hiện suy ngẫm về chiến thắng của ta và thất bại của địch: ta thắng là do yếu tố địa linh nhân kiệt, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người, vai trò người đứng đầu nên giành chiến thắng vang dội.

     Tác phẩm được coi là đỉnh cao của nghệ thuật phú trong văn học trung đại Việt Nam. Kết cấu tác phẩm đơn giản, bố cục chặt chẽ, xây dựng hình tượng nhân vật khách đặc biệt. Những lời văn biền ngẫu và ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng vừa lắng đọng. Hình ảnh thơ mang tính khoa trương, phóng đại diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên cũng như chiến thắng hào hùng của dân tộc.

     Tác phẩm đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng lịch sử. Đồng thời tác phẩm cũng ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc ta. Qua đó còn thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, đề cao giá trị con người.

Đề bài: Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Mỗi chúng ta, ai cũng thường có cho mình một nơi nào đó để gửi gắm kí ức. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ hay chọn cho mình một miền đất hoặc một con sông. Và ở đó bao nhiêu kí thác tâm hồn được vắt ngang qua. Trở lại thế kỉ XIV, văn học trung đại của dân tộc đã có một nhà thơ như thế. Đó chính là Trương Hán Siêu – nhà thơ nặng lòng với con sông Bạch Đằng oai hùng của lịch sử qua văn phẩm nổi tiếng Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ biết bao tâm tư của cả một đời cống hiến được ông dồn nén hết thảy vào dòng chảy bất diệt ấy để làm nên một tác phẩm trở thành đỉnh cao của thơ văn dân tộc.

   Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi của nhà Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài cũng không hề xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở thành thi liệu sáng tác của nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, sau này là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang tới biết bao cảm xúc vừa chân thực, thiết tha vừa hoài niệm, xúc động để khơi dậy nên niềm tự hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao đẹp về giá trị con người. Có nhiều ghi chép cho rằng,Trương Hán Siêu sáng tác bài phú này vào thời điểm đất nước dưới thời hậu Trần (hai vị vua Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông) có dấu hiệu suy thoái. Vốn là một trọng thần, học vấn uyên thâm, tính tình đức độ, trải qua bốn đời vua Trần, từng được các vua tôn kính và gọi là “thầy”, trước thực trạng đất nước như vậy, ông cảm thấy chán nản và tự mình ngao du đây đó. Và điểm đến của ông không đâu khác chính là con sông Bạch Đằng để hoài niệm về một thời vàng son của dân tộc. Có lẽ bởi vậy mà bài phú mới toát lên dư vị pha lẫn của một tâm hồn nghệ sĩ lãng tử, một sử nhân hoài cổ và một nỗi niềm nhân thế thầm kín.

   Với đặc trưng cơ bản của loại phú cổ thể, Phú sông Bạch Đằng có bố cục 4 đoạn (mở, giải thích, bình luận, kết) và có hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật “khách” và nhân vật “các vị bô lão” được tác giả hư cấu. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn bộ bài phú là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật “khách” được bộc lộ xuyên suốt từ lúc đặt chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi lắng nghe được những lời kể đầy hào hùng về những chiến công trên dòng sông ấy của các vị bô lão. Vì vậy mà nhiều đánh giá cho rằng cấu tứ của bài phú giống như một bài thơ hơn là một bài văn tả cảnh, kể việc thông thường.

   Cứ như thế, nhân vật “khách” bước ra mang đầy cảm hứng thơ, cảm hứng của một vị khách hải hồ:

    Khách có kẻ:

    Giương buồm giong gió chơi vơi,

   

    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

   Qua hàng loạt các hình ảnh đậm chất ước lệ, có tính phóng đại giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm gợi lên cả không gian, thời gian đều rộng mở. Lại thêm các từ láy chơi vơi, mải miết diễn tả thật đậm nét tâm hồn của một bậc mặc khách, tao nhân đang vi vu cùng với đất trời, thỏa chí mà phóng khoáng, ngao du. Khách xuất hiện như thể mang theo một giấc mộng hải hồ, đắm mình cùng thiên nhiên. Kẻ lãng du ấy kéo theo cả hàng loạt những địa danh, những phong cảnh đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng… nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều. Có cả một trình độ hiểu biết sâu rộng hay là cách để đấng mặc khách ấy thực hiện khát vọng thỏa cái tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết? Sao cũng phải, bởi trước hết cái tráng trí ấy mang trong mình tâm thức của một bậc thi nhân đầy lãng mạn, ưa thích ngao du. Cho nên việc học Tử Trường đâu có phải học cách của một sử kí gia, mà là học thú tiêu dao, cái thú thưởng ngoạn để giữa dòng chừ buông chèo không nỡ bỏ lỡ cảnh đẹp nên thơ, lại thêm mở mang hiểu biết.

   Nhưng giấc mộng hải hồ ấy chợt thành hiện thực khi chiếc thuyền ngoặt:

    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

   

    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

    Một lần nữa thủ pháp liệt kê lại đưa chúng ta đến những địa danh khác, nhưng lần này là thực, là thủy lưu dẫn đến sông Bạch Đằng. Và hiện ra trước mắt người nghệ sĩ một Bạch Đằng trong khung cảnh đối lập. Đó là khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên. Cổ nhân thường nói: “Thi trung hữu họa” quả không sai. Trên trời, dưới nước mênh mông, một Bạch Đằng không lúc nào tĩnh lặng nhưng vẫn hiền hòa, nên thơ: sóng kình muôn dặm/ đuôi trĩ một màu/ nước trời: một sắc/ phong cảnh: ba thu. Bức tranh mở ra hết tầm trên độ rộng, lắng xuống ở độ sâu. Hai từ láy bát ngát, thướt tha càng làm cho biên độ ấy thêm lớn. Nhưng cảnh thu đi đến hồn thu, cảnh đẹp nhưng đượm buồn. Vì những bờ lau, bến lách đìu hiu, vì những chứng tích năm xưa còn sót lại thật thê thảm. Phải chằng bởi thế mà lòng người có sự thay đổi cảm xúc từ vui, tự hào trở nên u buồn, ảm đạm, ngậm ngùi, thương tiếc cho những giá trị lịch sử oai hùng bị mai một trước sự trôi chảy khắc nghiệt của thời gian. Trước cảnh trí đầy tiêu sơ như vậy, lòng người sao tránh được những cảm khái, ưu tư gợn lòng hoài cổ! Giống như Nguyễn Trãi:

    Việc trước quay đầu ôi đã vắng

    Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

            (Cửa biển Bạch Đằng)

   Nét tâm trạng, cảm xúc ấy là nguyên cớ để nảy sinh cuộc trò chuyện với các vị bô lão ở phần tiếp theo. Cuộc đối thoại này diễn ra vừa như một quy ước văn chương vừa như một nhu cầu chia sẻ, giãi bày để làm thức dậy một quá khứ tưởng đã ngủ yên trong quên lãng. Các vị bô lão – người dân địa phương, cũng có thể là những nhân chứng lịch sử đã trực tiếp tham gia vào chiến trận Bạch Đằng năm xưa, đối đãi “khách” với một thái độ đầy kính trọng, nhiệt thành (hỏi ý ta sở cầu, gậy lê chống trước, thuyền nhẹ bơi sau, vái ta mà thưa). Với tư cách là người trong cuộc, họ đã tái hiện, phục chế lại một bức tranh đã nhuốm màu dâu bể, đã phủ bụi thời gian.

    Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã

    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao

   Đó là hai trận đánh lịch sử ghi dấu chiến công oanh liệt, vang dội nhất trên sông Bạch Đằng. Bằng lời kể đậm sắc thái ước lệ, bút pháp cường điệu, sử thi mang cảm hứng vũ trụ thế trận, quy mô cuộc chiến “thư hùng” diễn ra ngang tài, ngang sức, không phân thắng bại:

    Đương khi ấy:

    Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới

   

    Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.

   Vua, quân tướng của ta được tôn vinh là “Trùng Hưng nhị thánh”, ” Ngô chúa”, còn kẻ thù cứ thẳng tên mà gọi, bọn chúng cứ như bầy thiêu thân lao vào lửa, chỉ còn trần trụi những Tất Liệt, Lưu Cung. “Gieo gió gặt bão”, đó là quy luật tất yếu ắt phải nhận của những kẻ huênh hoang, hiếu chiến. Không tự nhiên mà Trương Hán Siêu lại sử dụng điển tích Trung Quốc trận Xích Bích, trận Hợp Phì để so sánh. Sự tương đồng giữa xưa và nay vừa để khẳng định chiến công vang dội vừa ẩn ngầm niềm tự hào vô hạn của một đất nước nhỏ bé, hay bị coi thường với một đất nước lớn như Trung Hoa. Tan tác tro bay/ hoàn toàn chết trụi đăng đối lại càng nhấn mạnh đến sự thảm bại của kẻ thù ôm theo giấc mộng: gieo roi một lần/ quét sạch Nam bang bốn cõi để muôn đời nước sông chảy hoàinhục quân thù khôn rửa nổi. Giọng văn khí thế, hùng hồn đã khơi dậy một tinh thần yêu nước, niềm tự hào mãnh liệt trước truyền thống oanh liệt, vẻ vang của dân tộc.

   Điểm nhấn rất hay của bài phú chính là ở chỗ chiến công trên sông Bạch Đằng không hề bị huyền thoại hóa, mà nó cắt nghĩa được rõ ràng nguyên nhân. Trong lời bình luận của các vị bô lão, họ đã nhắc tới phép dùng binh trong sách cổ, có ba yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”:

    Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san

   

    Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn

   Trời đất cho nơi hiểm trở là Địa. Bởi đại vương coi thế giặc nhàn, đã sẵn sàng mọi con đường tiến lui là Thiên. Nhân tài giữ cuộc điện an là Nhân, là cái tài lớn của kẻ làm tướng thu phục được lòng dân. Trong đó, vai trò của Nhân là quyết định. Bởi người anh hùng là phải biết tạo thời thế, chứ không trông chờ vào thời thế. Vì vậy, một lần nữa việc sử dụng điển tích Trung Hoa (hội Mạnh Tân, trận Duy Thủy) càng đề cao vai trò của nhân tài là lấy được lòng dân. Nhận thức đầy lý trí ấy lại làm trào dâng lên cảm xúc tiếc thương khi nhớ người xưa. Một xưa đầy hào khí thì dù đến nay có nước mắt chừ lệ chan thì niềm tự hào vẫn còn mãi. Nhưng tiếc thay, nay không bằng xưa nên nước mắt ấy là nỗi xót xa nhân thế bàng bạc hiện ra.

   Dẫu sao nỗi niềm ấy cũng được thay bằng sự nối tiếp nhau qua lời ca của các vị bô lão và khách. Cách kết thúc rất đặc trưng của phú cổ thể, nhưng cái hay là đã được các nhà soạn dịch chuyển thể thành những vần thơ lục bát. Trong lời ca của mình, các vị bô lão đem so sánh cái quy luật tự nhiên bất biến của Bạch Đằng giang sẽ cuồn cuộn chảy ra biển cũng như quy luật muôn đời của nhân thế là những kẻ bất nghĩa sẽ bị tiêu vong, còn người anh hùng sẽ lưu danh thiên cổ. Lời ca một lần nữa phê phán mạnh mẽ quân thù phương Bắc và ngợi ca những anh hùng dân tộc sẽ được lưu danh muôn đời. Còn khách vẫn mang trong mình một hoài vọng, ngợi ca hai vị thánh quân nhà Trần đã anh minh, có đức cao mới thu phục được lòng dân và tận dụng được đất hiểm để quét sạch quân thù, để đất nước thanh bình, yên ổn. Đoạn kết đã thể hiện rất sâu sắc tư tưởng nhân văn cao cả. Hai lời ca đều nhấn mạnh đến vai trò to lớn của con người trong lịch sử. Điều đó càng khiến nhà thơ khao khát có những đấng minh vương cho xã tắc lúc bấy giờ.

   Khẳng định Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam thật xác đáng. Với lối kết cấu đặc trưng, câu văn, giọng điệu linh hoạt, bút pháp ước lệ, tượng trưng kết hợp với lối nói cường điệu, hình tượng nhân vật đặc sắc, bài phú đã thể hiện sâu sắc những hoài niệm về quá khứ của tác giả Trương Hán Siêu. Qua đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng và ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn thế, bài phú đã chuyển tải được tư tưởng nhân văn cao đẹp trong việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử mà điều đó vẫn còn có ý nghĩa đến ngày nay.

Đề bài: Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh Tế Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bặch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

   “Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

   Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:

    … “Tiếng thơm đồn mãi,

    Bia miệng không mòn.

    Đến chơi sông chừ ủ mặt

    Nhớ người xưa chừ lệ chan …”

   Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh

   Hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.

    “Giương buồm giong gió chơi vơi”.

   “Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.

   Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…

   Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:

    “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”.

   Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.

    “Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

   Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.

   Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.

    “Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”

   Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

    “Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

    Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”

    “Bát ngát sóng kình muôn dặm”

   Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài ” Đằng Vương các” ” Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

    ” Bờ lau san sát.

    Bến lách đìu hiu

    Sông chìm giáo gãy

    Gò đầy xương khô”

   Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” ( “Cửa Biển Bạch Đằng”).

   Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

    ” Buồn vì cảnh thảm

    Đứng lặng giờ lâu

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.

   Một tâm trạng: ” buồn, thương tiếc”, một cảm xúc ” đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

    “Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:

    ” Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

    Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”.

   Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” vì nó là mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc.

   Năm 938, Ngô Quyền dùng mưu đại phá quân Nam Hán:

    “Bạch Đằng một trận giao phong

    Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu”

   Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến – chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược Nguyên – Mông:

    ” Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

    Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”.

   Trở lại bài phú: “Đương khi ấy…” đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dòng sông nổi sóng với ” muôn đội thuyền bè”. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt: ” Tinh thần phấp phới – Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói”. Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm ” Sát Thát, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co: ” Trận đánh thư hùng chửa phân – Chiến luỹ Bắc Nam chống đối”. Khói lửa mù trời. Tiếng gươm giáo, tiếng quân reo , tiếng sóng vỗ. Ngựa hý, voi gầm. Thuyền giặc bị đốt cháy, bị va vào cọc gỗ bịt sắt nhọn vỡ đắm tan tành. Máu giặc nhuộm đỏ dòng sông. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:

    “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

    Bầu trời đất chừ sắp đổi”.

   “Đại Việt sử ký” ghi rõ: Các tướng như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhận lịch sử:

    “Đến nay sông nước tuy chảy hoài

    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.

   Trận thủy chiến sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và quy mô hoành tráng, kỳ vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì “quân Tào Tháo tan tác tro bay”… “quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bành trướng xâm lược của Lưu cung, của Tất Liệt: “Trời cũng chiều người – Hung đồ hết lối”. Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.

    Đất hiểm và nhân tài

   Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:

    “Quả là trời đất cho nơi hiểm trở

    Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.

   Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. “Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước.

   Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để lại võ công lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt”

    “Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng

    Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.

   “Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn”.

   Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kỳ vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.

    “Cốt minh đức cao”

   Phần cuối bài phú là bài ca của lão về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chôn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất”

    “Anh minh hai vị thánh quân

    Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”

   “Thánh quân” là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, côt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.

   Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sau lắng. Âm điệu anh hùng ca, không khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu. Đẹp vậy thay tiếng hát dòng sông:

    “Sông Đằng một dải dài ghê,

    Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”…

Đề bài: Dàn ý Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú

– Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.

I.. Thân bài

1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.

– Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ – khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

– Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

– Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc – Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

– Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt – Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

– Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.

– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

– Tâm trạng của khách:

    + Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng

    + Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

    + Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng

→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

– Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

– Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.

4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

– Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình

– Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử

– Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ

– Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc

→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

– Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.

– Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

– Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

– Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

I.I. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Nhân vật khách hội tụ tất cả những phẩm chất trong con người tác giả, giúp người nghệ sĩ thể hiện cái tôi và những tư tưởng mang tính lịch sử.

Đề bài: Phân tích nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

     Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc.

     Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :

    Giương buồm giong gió chơi vơi

    Lướt bể chơi trăng mải miết ….

     Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.

     Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy cộng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gò mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi :

    Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc

    Qua trầm tích chiến ngạn tằng tằng

     Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh vào cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên vĩ đại của dân tộc ta với khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng. Qua đó còn thể hiện niềm cảm thương với những người đã mất ở nơi đây.

     Đứng trước không gian đó, nhân vật “khách” choáng ngợp, hạnh phúc, thỏa mãn khi được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Nhân vật “khách” đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đẹp nhất để miêu tả lại khung cảnh mình đang chìm đắm ngắm nhìn để rồi cảm thấy ngỡ ngàng nhận ra đằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng ấy, sông Bạch Đằng con ghi dấu những chiến tích đã qua. Đoạn thơ đánh dấu sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật khách: Từ một người háo hức, say mê, có tâm hồn phóng khoáng, tự do chuyển sang trầm tư, buồn thương, tiếc nuối: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Đằng sau những trạng thái cảm xúc ấy, người đọc hình dung được trọn vẹn chân dung của nhân vật “khách” – hay chính là tác giả – một con người có tâm hồn phóng khoáng, ham thích tìm hiểu lịch sử dân tộc và tình yêu quê hương đất nước.

     Hình tượng nhân vật “khách” một lần nữa được tái hiện qua phần cuối tác phẩm, với những lời ngợi ca hô ứng với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lí của các bô lão nêu ở trên: Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Không chỉ vậy ông còn ca ngợi dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử đất nước. Mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục” (rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến), thể hiện mong muốn có cuộc sống hòa bình độc lập. Đây cũng chính là mục đích của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt ông đề cao yếu tố con người, nhất là sự nhân đức: Giặc tan muôn thuở thanh bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Chiến thắng ta giành được không chỉ ở lực lượng hùng mạnh mà yếu tố quyết định làm nên chiến thắng là nhân đức của con người. Câu thơ đã cho thấy giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

     Bằng lớp ngôn từ hào sảng, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhân vật khách hiện lên là một người có lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, không chỉ vậy ông còn là người có niềm đam mê tìm tòi, mở rộng hiểu biết của bản thân. Ngoài ra, những vần thơ cuối cùng của bài còn cho thấy tầm nhìn xa trộng rộng, tấm lòng nhân văn sâu sắc của nhân vật trữ tình.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.

   Theo đặc trưng của loại phú cổ thể, khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão). Ở Phú sông Bạch Đằng, khách trở thành hình tượng trung tâm. Tác phẩm xét về mặt cấu trúc văn bản vẫn đáp ứng đầy đủ bốn đoạn thông thường (mở, giải thích, bình luận và kết), tuy nhiên cũng hoàn toàn thể cảm nhận bài phú dựa trên mạch cảm xúc của nhân vật khách. Đó là sự bộc bạch cái tráng trí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng. Có lẽ bởi vậy nhiều người hiểu rằng khách chính là cái tôi của tác giả, là sự hóa thân tài tình của một bậc thi sĩ, một du sĩ và một đấng anh hùng chất chứa nhiều tâm sự về đất nước.

   Và mở đầu bài phú, khách đã xuất hiện trong tâm thế của một đấng mặc khách, tao nhân, một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương.

    Khách có kẻ:

    Giương buồm giong gió chơi vơi

   

    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

   Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trởi bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự.

    Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:

    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

   

    Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu

   Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.

   Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông.

   Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:

    Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

   

    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

   Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:

    Việc trước quay đầu ôi đã vắng

    Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

            (Cửa biển Bạch Đằng)

   Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa. Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện an bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:

    Anh minh hai vị thánh quân

    Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

    Giặc tan muôn thuở thăng bình

    Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

   Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.

   Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.

Đề bài: Dàn ý Phân tích giá trị của nghệ thuật thể phú qua bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về thể phú: Là thể văn cổ của Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ sớm, đến thời Trần trở nên phổ biến

– Khái quát vị trí của tác phẩm: Bạch Đằng Giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam

I.. Thân bài

1. Đặc trưng nghệ thuật của thể phú.

– Là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi

– Dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời.

– Bố cục gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận, đoạn kết.

– Phú cổ thể: Không nhất thiết có đối, cuối bài được kết lại bằng thơ.

2. Sự thể hiện những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm “Bạch Đằng giang phú.

a. Cấu tứ, bố cục

– Về cấu tứ: Đơn giản, chặt chẽ theo lối kể chuyện chủ – khách tiêu biểu của thể loại phú.

    + Ban đầu là lời dẫn chuyện của tác giả để dẫn dắt ta đi theo hành trình ngao du của khách và cuối cùng dừng chân tại sông Bạch Đằng, khách nói về những điều mình quan sát, suy nghĩ về con sông.

    + Tại đây khách gặp các vị bô lão, được họ kể về những chiến công hiển hách trên dòng Bạch Đằng thuở xưa.

    + Hai bền cùng trò chuyện và bình luận về những chiến công.

– Bố cục mang đặc trưng tiêu biểu của bài phú cổ thể gồm 4 phần:

    + Mở đầu: Cảm xúc của nhân vật Khách trước sông Bạch Đằng

    + Giải thích: Những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.

    + Bình luận: Nhận xét, đánh giá của cha ông về những chiến công

    + Kết: Suy ngẫm về sự hưng vong của đất nước.

b. Hình thức câu văn.

– Có sự đan xen đa dạng, linh hoạt giữa lời văn của người dẫn chuyện, lời nói của Khách, lời kể của các bô lão. Khi thì luân phiên lượt lời uyển chuyển, lúc lại đan xen lời của các nhân vật.

– Sử dụng các câu văn xen lẫn văn vần và văn xuôi đa dạng, sinh động.

    + Các câu văn vần:

“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”

“Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều/Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều”….

    + Các câu văn xuôi: “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã/Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo”….

– Sử dụng các câu văn ngắn dài khác nhau

– Sử dụng lối văn biền ngẫu, tạo nên cách nói hình tượng hóa

“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”,…

– Kết thúc bài phú là một bài thơ, tiêu biểu cho đặc trưng thể phú.

c. Ngôn ngữ.

– Ngôn ngữ tự nhiên không khoa trương sáo rỗng mà rất sống động.

    + Khách miêu tả về con sông Bạch Đằng không bằng những ngôn ngữ sáo mòn mà bằng những hình ảnh cụ thể, sống động để nói về những nét vẽ cụ thể của dòng sông: hùng vĩ, thơ mộng nhưng đìu hiu, hoang lạnh

    + Các bô lão kể về những chiên công nhưng không bị gò vào những ngôn ngữ đao to búa lớn mà vẫn thể hiện được những chiến công hào hùng, oanh liệt

– Ngôn ngữ trang trọng, gợi sự trang nghiêm

d. Xây dựng các hình tượng nghệ thuật độc đáo.

– Hình tượng con sông Bạch Đằng vừa mang vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật vừa là chứng nhân của lịch sử.

– Hình tượng “khách”: Khách trong thể phú thường mang tính ước lệ khuôn thức, cứng nhắc, nhưng qua cách xây dựng của Trương Hán Siêu, hình tượng khách hiện lên đa dạng, sinh động vừa phóng khoáng, tự do, yêu vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của non sông, tiếc thương, xót xa cho cảnh hoang tàn, đổ nát, tự hào về những chiến công lịch sử, yêu thiên nhiên, yêu đất nước.

– Hình tượng các bô lão: Trọng tình, hiếu khách, yêu và tự hào sâu sắc về những chiến công của dân tộc, biết đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về lịch sử

I.I. Kết bài

– Khái quát lại những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.

– Khẳng định vị trí của tác phẩm: Sau Phú sông Bạch Đằng cũng còn nhiều tác phẩm viết theo thể phú khác nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được bài phú của Trương Hán Siêu.

Đề bài: Phân tích giá trị của nghệ thuật thể phú qua bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

     Chế Lan Viên đã từng viết: Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng, để nhấn mạnh khẳng định ý nghĩa giá trị của sông Bạch Đằng với lịch sử dân tộc. Sông Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác của biết bao thế hệ thi sĩ như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,… và không thể không nhắc đến Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú – bài phú mẫu mực về nghệ thuật của thể phú.

     Nét nghệ thuật đặc sắc đầu tiên là Bài phú sông Bạch Đằng được làm theo lối cổ thể, kiểu phú này thường có lối kết cấu đối đáp: chủ – khách, khiến cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn, sinh động. Nhân vật khách có thể là sự phân thân của chính tác giả và nhân vật tập thể là các bô lão địa phương sống ở ven sông Bạch Đằng mà nhân vật khách gặp trên đường vãn cảnh, nhưng đây cũng có thể hiểu nhân vật bô lão chỉ mang tính chất hư cấu, là tâm tư tình cảm của tác giả thể hiện thành nhân vật trữ tình. Do vậy, dưới hình thức đối thoại giữa khách và các bô lão địa phương, bài phú đã thể hiện cảm xúc say sưa, những chiêm nghiệm, suy nghĩ về đất nước, về dân tộc.

     Phần một nổi bật là hình tượng nhân vật khách với tư thế ung dung, phóng khoáng, mang trong mình hoài bão lớn lao :

    Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết

    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

    Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết.

     Cái tráng trí bốn phương của tác giả chính là được đi ngao du sơn thủy bốn phương, bởi vậy, hàng loạt địa danh trong nước cũng như nước ngoài đã được tác giả liệt kê: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… Đặc biệt khung cảnh sông Bạch Đằng đã khiến nhân vật khách ngậm ngùi, nuối tiếc, đứng lặng giờ lâu trong sự suy tưởng. Trong bối cảnh đó các vị bô lão xuất hiện bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách kể với nhân vật khách biết bao chiến tích oanh liệt, hào hùng trên sông Bạch Đằng: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã/ Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao, với khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta, trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc về chính nghĩa, hung đồ hết lối, vết nhục còn mãi đến muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Tác phẩm kết thúc là lời khẳng định vai trò to lớn của con người đối với sự nghiệp dựng nước và giữa nước. Đặc biệt hai câu cuối của tác phẩm: Giặc tan muôn thuở thăng bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao, khách và các bị bô lão vừa biện luận, vừa khẳng định chân lí giữa địa linh và nhân kiệt thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Câu ca kết thúc bài thơ đã nêu cao vai trò, vị trí của con người, vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với lối phú cổ thể, đối đáp khách và các vị bô lão, Trương Hán Siêu đã làm cho bài phú của mình thêm sinh động, hấp dẫn, khiến cho cái nhìn về dòng sông Bạch Đằng lịch sử được bao quát và khách quan hơn trong sự phản ánh của hai đối tượng chủ và khách.

     Không chỉ vậy, từ ngữ, hình ảnh trong bài phú thường mang tính chất khoa trương, kì vĩ, diễm lệ. Vẻ đẹp kì vĩ đó trước hết được thể hiện trong vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng hết sức thơ mộng của dòng sông: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu. Không gian vô cùng rộng lớn, những lớp sóng nối tiếp nhau xô vào bờ, nhưng không gian ấy cũng hết sức thơ mộng với nét uyển chuyển mềm mại của đuôi trĩ. Đuôi trĩ ở đây có thể hiểu: hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông như những cái đuôi của con trĩ thướt tha. Không gian rộng lớn, trời – nước – đất như hòa vào cùng một sắc màu, bởi thế mà nó càng trở nên thơ mộng, diễm lệ hơn. Ngoài ra, Trương Hán Siêu còn sử dụng những hình ảnh kì vĩ để gợi tả cuộc đại thủy chiến trên sông Bạch Đằng, tác giả sử dụng bút pháp khoa trương, dựng lên những hình ảnh lớn lao, hùng tráng: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói ; Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi, những hình ảnh thơ kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ. Hơn thế, các hình ảnh này còn được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt/ mờ, trời đất/ đổi, báo hiệu một trận chiến cam go, đầy quyết liệt, thử thách. Nhưng cuối cùng chính nghĩa đã dành dược chiến thắng vẻ vang, kẻ giặc phải chịu nỗi nhục muôn đời không rửa hết.

     Ngoài ra cũng không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, tiết tấu đối với sự thành công tác phẩm. Bài phú sử dụng lối văn biền ngẫu với những câu văn dài ngắn, đan xen nhau vô cùng linh hoạt, điều này khiến cho bài văn trở nên giàu nhịp điệu, tiết tấu trở nên linh hoạt hơn. Trong phần mở đầu tác phẩm, nhịp điệu thơ nhanh, nhưng vẫn hết sức nhịp nhàng vừa diễn tả được cái hùng tâm tráng trí bốn phương của nhân vật khách khi đi ngao du sơn thủy bốn phương nhưng đồng thời cũng lại thấy được vẻ đẹp nên thơ của khung cảnh. Nhưng ngay đoạn sau đó giọng thơ trầm xuống, nhịp điệu chậm để đứng lặng giờ lâu trước khung cảnh: Sông chìm giáo gãy, gòn đầy xương khô/ Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu / Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. Với đoạn thuật lại chiến công của dân tộc lời thơ cô đọng, súc tích nhưng vẫn diễn tả đầy đủ không khí trận chiến sinh động: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi. Ở đây lời văn không còn nhịp nhàng như đoạn thơ trên mà có sự đan xen những câu văn dài ngắn khác nhau, diễn tả được không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện tâm trạng của tác giả. Đoạn văn kết bài giọng văn trở nên thâm trầm, sâu sắc nhận định về ba nguyên nhân làm nên chiến thắng của dân tộc : địa lợi – đất hiểm ; Nhân hòa – nhân tài giữa cuộc điện an ; thiên thời – được trời ủng hộ và nhấn mạnh vào yếu tố con người tạo nên sự thành công cho cuộc chiến.

     Phú sông Bạch Đằng là bài thơ có kết cấu đơn giản mà vô cùng hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lối văn linh hoạt khi hào hùng, sảng khoái khi trầm lắng, tha thiết. Ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, hình ảnh kì vĩ, hào hùng, nhưng cũng vô cùng lắng đọng, gợi cảm. Những yếu tố nghệ thuật kết hợp với nội dung đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Chứng minh nhân vật “khách” cũng chính là cái “tôi” tác giả trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Mở đầu tác phẩm, nhân vật khách xuất hiện với đặc điểm nổi bật của tính cách: phóng khoáng, hào mại. Khách rất ham du ngoạn: gương buồm giong gió. Lướt bể chơi trăng: sớm thả thuyền ở Tiêu Tương, chiều đã đến thăm Vũ Huyệt. Gót giang hồ đã đi khắp:

    Cửu giang, Ngũ hồ, Tam Ngô, Bách Việt.

    Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

    Đầm Vân Mông chứa vài trăm trong dạ cùng nhiều.

    Nhưng, tráng chí vẫn còn chưa thỏa: “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.

   Ở tiểu đoạn này bằng những hình ảnh không gian to rộng: biển lớn (Gương buồn, giọng gió, lướt bể chơi trăng), sông hồ (Ngủ Hồ, Nguyên. Tương), những vùng đất nổi tiếng (Tam. Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng)-, bằng những động từ thể hiện động tác mạnh: thôn (nuốt), quải (treo), thám (thăm)-, bằng số từ số bách, số nhiều, đi liền với cách diễn tả thời gian chuyển tiếp nhanh: sớm, chiều, và cả cách nói khẳng định: Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, tác giả đã khắc họa rõ nét tính cách ưa hoạt động, có tráng chí, sôi nổi, ham hiểu biết của khách. Tất cả những điều đó tạo nên sự khác biệt trong những cuộc chơi của khách – một con người hành động, nhập cuộc khác với các cuộc nhàn du của các bậc ẩn sĩ, lánh đời. Những cuộc đi của khách không chỉ đề tìm thi liệu mà còn để bồi bổ tri thức vì những trang sử nước nhà như một Tử Trường (Tư Mã Thiên).

   Trở lên là nói về tráng chí, hoài bão và sự lịch duyệt, phần tiếp theo tác giả sẽ mô tả một cuộc du ngoạn cụ thể: cuộc chơi sông Bạch Đằng. Khác với cách miêu tả ở đoạn trên chủ yếu là tổng quát, ước lệ, không gian, thời gian đã tượng trưng hóa, ở đoạn này tác gia đi vào tả cảnh thực. Đó là: một không gian cụ thể (cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bài chiến trường xưa)’, một thời gian được chỉ định rõ: tháng chín (ba thu), và một phong cảnh cụ thể: nước trời, một sắc, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, cùng những dấu vết của chiến trường được diễn tả một cách hình tượng, sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Phong cảnh Bạch Đằng cũng rất to rộng, hoành tráng song ảm đạm tiêu sắt và khách từ tâm trạng phơi phới, tràn đầy hào khí đã bị sự tác động mạnh của hoàn cảnh tỏ ra một tâm hồn phong phú và nhạy cảm: đứng sững buồn tiếc ngậm ngùi:

    Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu,

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

   Như vậy,ở phần một này nhân vật khách được giới thiệu một cách trang trọng, là một nhân vật được khẳng định. Thực ra đó cũng là sự tự khẳng định, tự giới thiệu của chính tác giả: một tâm hồn thơ, một khách hải hồ nhưng đồng thời lại là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.

Đề bài: Phân tích cảm hứng yêu nước trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Yêu nước là cảm hứng không bao giờ ngưng trong dòng chảy của văn chương dân tộc suốt bao thế kỉ qua. Có cái âm vang từ thuở Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) cất lên bên bến sông Như Nguyệt. Có cái khí thế của đội quân Sát Thát nhà Trần trong khúc hùng ca Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão). Có cái ngút ngàn của binh tướng Lam Sơn trong Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi). Có cái rung chuyển của trận đánh thần tốc gắn với người anh hùng áo vải Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)… Dẫu dừng ở điểm nào cũng vẫn thấy nguồn cảm hứng ấy cuồn cuộn dâng trào. Và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, một điểm dừng góp vào cho dòng chảy của văn chương yêu nước một khúc hùng ca bất diệt. Bài phú càng khẳng định vị trí đỉnh cao nghệ thuật của mình hơn khi âm hưởng yêu nước hào hùng trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.

   Cảm hứng yêu nước là một biểu hiện đa dạng, phong phú trong văn học. Đó là tình yêu thiên nhiên, phong cảnh quê hương, yêu những nét đẹp văn hóa, phong tục của dân tộc. Hay cảm hứng này thể hiện rõ nhất khi đất nước có giặc ngoại xâm. Chính là lòng căm thù giặc, tinh thần xả thân, hi sinh bảo vệ tổ quốc, âm hưởng hào hùng trong những ngày tháng chiến đấu và cả sự ngợi ca, trân trọng, biết ơn đến những bậc anh hùng. Phú sông Bạch Đằng cũng có những biểu hiện không ngoại lệ. Gọi bài phú là khúc trữ tình ca và anh hùng ca về đất nước rất phù hợp. Bởi qua đó, tác giả Trương Hán Siêu đã thổi nguồn cảm hứng yêu nước qua những cảm xúc với thiên nhiên, lịch sử, những giá trị nhân văn trên sông Bạch Đằng – con sông được coi là người chép sử vô ngôn cho hậu thế.

   Đến với bài phú, ai cũng thích thú bởi khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt sắc trên sông Bạch Đằng. Dưới lăng kính tâm hồn của nhân vật “khách”, Trương Hán Siêu đã mang tới một khung cảnh đẹp mê hồn ít ai nghĩ sẽ thấy ở Bạch Đằng giang. Sau giây phút trải cái tráng trí bốn phương theo gió trăng, trời bể, lướt con thuyền tâm hồn qua các địa danh ở xứ Bắc phương, “khách” như thể bị một lực hút từ trường của sông Bạch Đằng mà rảo bơi chèo thật nhanh đến đó để chiêm ngưỡng cảnh sắc thu toàn bích trên sông:

    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

    Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

    Bát ngát sóng kình muôn dặm

    Thướt tha đuôi trĩ một màu

    Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.

   Tuy chỉ gói ghém trong vài ba câu thơ tả cảnh nhưng cái thần trong ngòi bút của Trương Hán Siêu lại vẽ nên một khung cảnh thực sự hút hồn. Mấy nét chấm phá đầy lãng mạn, tinh tế đã làm nên vẻ đẹp của cảnh mùa thu trên dòng sông lịch sử. Có đường nét dữ dội, cuộn trào, bát ngát trong sóng kình muôn dặm. Có đường nét mềm mại, hiền hòa, thướt tha, nên thơ trong những con thuyền bơi một chiều như đuôi trĩ một màu. Có phông nền hòa hợp, nhất thể giữa sóng nước với mây trời. Phải có một lòng say mê với thiên nhiên lắm mới có một bức họa đỉnh cao trong văn chương như thế này. Cảm hứng yêu nước vì thế mà bộc bạch trong tâm hồn của một thi nhân khoáng đạt, lãng mạn không cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên.

   Thế nhưng vị khách hải hồ lại khộng chỉ tới sông Bạch Đằng để ngắm cảnh đẹp, mà còn tìm kiếm những dấu vết lịch sử lưu lại của những chiến công lẫy lừng, vang dội khi xưa. Mang trong mình những cảm khái, ưu tư, mặc khách ấy không sao tránh được nỗi niềm hoài cổ trước một cảnh trí đầy tiêu sơ. Cảnh đẹp nhưng nó lại khoác lên mình vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thuở. Những bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô đã chạm đến cảm thức thi nhân khiến mọi thứ trở nên u buồn, thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Điều ấy đã gợi lên một thái độ mong mỏi, cần phải tiếp tục giữ gìn, trân trọng những gì đã qua, nhất là những giá trị lịch sử linh thiêng của dân tộc. Tinh thần yêu nước vì thế có phần ngời sáng.

   Có lẽ bởi vậy mà cả phần còn lại của bài phú, danh sĩ đời Trần đã làm sống dậy những kí ức hào hùng, vẻ vang ấy. Trong cuộc đối thoại với nhân vật các vị bô lão, những chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng đã một lần nữa được tái hiện. Không khí chiến trận, những khoảnh khắc cam go, quyết liệt dưới màu sắc cường điệu, ước lệ vốn có của văn chương trung đại đã làm sống dậy cả một truyền thống oai hùng, bất khuất của dân tộc:

    Đương khi ấy:

   

    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi

   Chỉ cần thấy sự thất bại thảm hại của kẻ thù tan tác tro bay/ hoàn toàn chết trụi qua cách dùng điển tích Trung Quốc để so sánh là đủ thấy khí thế hào hùng một thuở ngất trời như thế nào. Trận đánh trên sông Bạch Đằng được ví như những trận đánh huyền thoại của Trung Quốc: Xích Bích, Hợp Phì còn ẩn chứa cả một niềm tự hào dân tộc quá đỗi lớn lao. Bởi trong cái nhìn của nước lớn Trung Hoa, nước Nam Việt luôn nhỏ bé, chỉ được coi là phên giậu, chư hầu. Ấy vậy mà những Tất Liệt, Lưu Cung chỉ còn nước ôm theo giấc mộng quét sạch Nam bang bốn cõi chỉ trong một lần gieo roi theo nỗi nhục ngàn năm không rửa sạch như nước sông cứ chảy hoài không ngơi nghỉ.

   Tái hiện lịch sử để làm gì khi không phải là mang ý nghĩa để tự hào, để ngợi ca những chiến công oanh liệt và những con người làm nên điều ấy. Trương Hán Siêu tự hào lắm khi gọi tên các bậc anh hùng đầy trang trọng như Trùng Hưng nhị thánh, Ngô chúa, khác hẳn với cách gọi coi thường bằng tên trực tiếp bọn tướng giặc. Ông cũng đầy kiêu hãnh khi nhìn ra thắng lợi vẻ vang của dân tộc là nhờ trời cho nơi đất hiểm, đất nước có những nhân tài đã quy tụ được lòng dân. Trong cảm hứng của khúc tráng ca ngút ngàn ấy, con người – những bậc minh quân, khai tướng đã trở thành những biểu tượng cho lòng yêu nước cháy bỏng bằng tài năng, đức độ. Để ngàn năm tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn/ nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Trong Tỏ lòng, nhà thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã thể hiện sắc thái tự hào, ngợi ca con người và thời đại hào khí Đông A như thế, nhưng là ngay thời điểm hiện tại trong khí thế cả vua quân, tướng sĩ nhà Trần đang đánh giặc. Còn ở đây, Trương Hán Siêu chỉ nhìn lại thôi, mà vẫn đong đầy, chan chứa sự mến trọng, nâng niu.

   Bởi vậy mà ông mới tiếc, mới thương, mới buồn vì thời gian sao khắc nghiệt, phũ phàng quá. Bao dấu ấn chỉ còn lại những chứng tích bi thương. Nhưng đó không phải là cái bi mang ý nghĩa đau khổ, mà là cái bi của sự trân trọng ngợi ca. Nhân vật các vị bô lão cũng vậy:

    Đứng bên sông chừ hổ mặt

    Nhớ người xưa chừ lệ chan

   Có nỗi bẽ bàng, có giọt nước mắt nhưng không hẳn là những dấu vết đã luống còn lưu. Bởi ở đó có cảm quan trong cái nhìn hai chiều của lịch sử. Nhìn về xưa thì dù nay có lệ chan vẫn thấy sung sướng, tự hào. Nhưng tiếc là nay lại không bằng xưa, vì thời hậu Trần đang có những điềm báo chẳng lành, nên ưu tư trong cảm xúc của tác giả lại chính là nỗi sầu nhân thế chẳng muốn nói ra. Vì thế mà chỉ còn thấy nặng một nỗi lòng với đất nước, non sông. Điều đó lại càng được thể hiện qua niềm khao khát mãnh liệt, mong mỏi sẽ có một đấng anh minh nào đó, giữ lấy chữ đức để đất nước có xuất hiện kẻ thù nào cũng đánh tan, nhân dân bốn cõi được sống trong muôn thuở thăng bình như xưa.Tinh thần ái quốc bỗng vút cao trở thành tư tưởng nhân văn sâu sắc và ý nghĩa.

   Nhìn lại khát vọng viễn du của đấng mặc khách, tao nhân trong bài phú thì có thể thấy cảm thức trước thiên nhiên chỉ là một phần, mà điều ông hướng tới chính là khẳng định những giá trị lịch sử, giá trị truyền thống của một đất nước. Đó là biểu hiện sáng ngời của tinh thần yêu nước trong văn chương. Phú sông Bạch Đằng đã góp thêm vào dòng chảy của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Việt Nam những giá trị như thế. Tác phẩm đã chạm đến những kí ức không thể quên, khơi dậy về truyền thống lích sử vẻ vang, oai hùng, thức tỉnh những giá trị truyền thống đạo lý của dân tộc và hơn hết để khẳng định tầm quan trọng lớn lao của con người đối với lịch sử mà thời đại nào cũng cần.

Đề bài: Trận Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Bài văn mẫu

   Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư có ý nghĩa như một cách đặt vấn đề, nêu câu hỏi và dẫn dắt đến sự xuất hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi cho người đọc hình dung được những đặc điểm quan trọng về nhóm nhân vật này. Đó là một số đông đa dạng về tuổi tác. Có người đã rất già phải chống gậy, có người trẻ hơn, còn khỏe bơi được thuyền nhỏ, nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Thấy khách “đứng lặng giờ lâu”, họ hiểu khách có điều đang băn khoăn liền thăm hỏi.

    Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu

   Trương Hán Siêu không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nói chuyện của khách và các bô lão, người đọc có thể hình dung ra rất rõ chủ đề câu chuyện: các bô lão với tư cách người địa phương và rất có thể nhiều người đã là chứng nhân của trận Bạch Đằng oanh liệt đã dẫn khách thăm nơi chiến địa và thuyết minh cho ông về mảnh đất lịch sử, kể cho ông nghe về chiến công Bạch Đằng buổi Trùng Hưng:

    Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.

    Vái ta mà thưa rằng:

    Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

   Với niềm tự hào về quê hương, về lịch sử, các bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh “đương khi ấy”. Đó là một trận đánh lớn, tầm cỡ, trực diện “mặt đốì mặt” giữa hai đội quân hùng mạnh.

    Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

    Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

    Trận đánh được thua chửa phân,

    Chiến lũy bắc nam chống đối.

   Đó cũng là một trận đánh ác liệt, “kinh thiên động địa”:

    Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

    Bầu trời đất chừ sắp đổi.

   Tính chất ác liệt của trận đánh là do quy mô, lực lượng so sánh, do ý nghĩa trận đánh nhưng mặt khác cũng rất quan trọng là do sử đối đầu về ý chí của hai bên đối phương. Và chính ở trận Bạch Đằng này, quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó đã phải đối đầu với một đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ như vậy:

    Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

    Những tưởng gieo roi một lần,

    Quét sạch Nam bang bốn cõi.

   Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tốn thất, đến nỗi “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, đến nỗi bao nhiêu năm sau các nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ:

    Ánh nước chiều hôm màu đỏ khê,

    Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô,

    (Trần Minh Tông – Bạch Đằng Giang)

    Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

    Xương bay trổng đất máu màng đỏ sông.

    (Đại Nam quốc sử diễn ca)

    Đồng trụ đến nay rêu phủ biếc;

    Đằng giang tự cổ máu còn hồng.

            (Khuyết danh)

    Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó, mà hơn ai hết các bô lão hiểu rằng trận chiến thắng của dân tộc mình, của các bậc anh hùng dương thời là một trận thắng thuộc tầm cỡ những trận đánh lừng danh trong lịch sử, không chỉ đối với một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa đối với một thời:

   Khác nào như khi xưa:

    Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.

    Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi,

    Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

    Tái tạo công lao nghìn xưa ca ngợi.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 986

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống