Văn mẫu lớp 11 Học kì 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc

   Trong sáng tạo văn học của Nguyễn Ái Quốc nghệ thuật trào phúng chiếm một vị trí đặc biệt. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy. Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ. Vấn đề đặt ra cho tác giả là phải sáng tạo một hình thức nghệ thuật mới để không lập lại chính mình. Sự thành công của tác phẩm Vi hành đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật dồi dào, sắc bén của nhà văn Nguyễn Ái Quốc.

   Thật vậy, nếu trong hai tác phẩm Lời than vãn của bà Trưng Trắc và Con rồng tre, Khải Định trực tiếp xuất hiện, thì ở đây, trong tác phẩm Vi hành, vua Khải Định vắng mặt. Vậy làm thế nào để cho Khải Định xuất hiện, đặng nhận lấy lời đàm tiếu nhục nhã và lời tố cáo sắc bén? Nguyễn Ái Quốc đã dùng biện pháp hóa không thành có- biện pháp hiểu lầm, nhận lầm một người An Nam là nhà vua đi “vi hành”, để tố cáo, chế giễu một cách cay độc. Ai là người có thể nhận lầm như vậy? Đó không thể là người An Nam, thần dân của ngài. Đó chỉ có thể là người dân Pháp hiếu kì và từ lâu đã không xem vua chúa như một đấng bề trên. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo nên một đôi nam nữ người Pháp nhận lầm vua An Nam trên xe điện, và truyện ngắn mở đầu bằng cuộc tranh luận của họ. Chàng trai quả quyết đó chính là nhà vua, còn cô gái, người đã thấy nhà vua ở trường đua thì quả quyết là không phải, vì thấy thiếu mũ măng, nhẫn vàng, hạt cườm. Từ hai cách hiểu ấy mở ra hai hướng đàm tiếu: đàm tiếu về trang phục nhà vua và đàm tiếu về việc “vi hành” của ông.

   Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường bệ. Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người “đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm”, y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, hoặc “trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”. Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sự thật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!

   Việc đàm tiếu về truyện “vi hành” do kẻ bị nhận lầm – tác giả bức thư gửi cho cô em họ – thực hiện qua lời tâm sự trong thư. Đây là lời của một người An Nam, am hiểu nội tình nước Nam. Ở đây Nguyễn Ái Quốc dùng biện pháp “quá mù ra mưa” – nhân có người nói nhà vua “vi hành”, thế là người anh họ trong thư liền liên hệ với các cuộc “vi hành” của các vị vua vĩ đại như vua Thuấn, vua Pie, và bình luận nhạo báng về cuộc “vi hành” tưởng tượng của vua Nam. Đây là một đoạn văn nữa mỉa mai sắc bén, từ nào cũng nhằm phơi trần thân phận và nhân cách hèn hạ của tên vua.

Đề bài: Cảm nhận về truyện ngắn Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc

   Nguyễn Ái Quốc viết “Vi hành” vào đầu năm 1923 cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than văn của bà Trưng Trắc, bài báo châm biếm Sở thích đặc biệt (tất cả được viết năm 1922) để lật tẩy âm mưu nổi trên. Nghĩa là vạch trần bản chất bù nhìn tay sai dơ dáy nhất của Khải Định, nhân tiện tố cáo luôn tính chất điêu trá, bịp bợm của những danh từ “văn minh, khai hoá” nơi cửa miệng của bọn thực dân ở thuộc địa.

   Viết “Vi hành”, Nguyễn Ái Quốc nhằm chủ yếu vào độc giả người Pháp, trước hết là dân Pa-ri. Vì thế phải viết bằng tiếng Pháp theo phong cách Âu châu hiện đại. Và phải viết sao cho hấp dẫn đối tượng này, nghĩa là có những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật, đồng thời phải cài vào được những chuyện thời sự nóng hổi đang được chú ý trong sinh hoạt giải trí của người Pa-ri.

   Để có sức thuyết phục cao nhất đối với người Pháp, người viết phải giữ thái độ khách quan, tránh lối thoá mạ trực tiếp và lời lẽ mạt sát đao to búa lớn.

   Lấy việc tố cáo, đả kích làm mục đích, truyện phải mài sắc vũ khí châm biếm. Bút pháp châm biếm độc đáo, linh hoạt, phong phú, đó là nét chủ đạo và là sức mạnh chủ yếu của nghệ thuật “Vi hành”.

   Một trong những khâu then chốt của nghệ thuật truyện ngắn là xây dựng tình huống truyện sao cho độc đáo, hấp dẫn, đồng thời làm bật nổi chủ đề tác phẩm và tính cách nhân vật truyện. Đây là một trong những sáng tạo đặc sắc của tác giả “Vi hành”.

   Tình huống truyện của “Vi hành” là gì ? Ấy là một tình huống oái ăm, vừa vui, vừa tạo được hiệu quả châm biếm sâu cay : tình huống nhầm lẩn. Đôi trai gái Pháp trên tàu điện ngầm đã nhầm lẫn nhân vật người dẫn truyện với Khải Định. Sự nhầm lẫn tuy là do tác giá tạo ra với dụng ý hẳn hoi, nhưng không tỏ ra khiên cưỡng, vô lí. Vì đối với người Tây, thật khó phân biệt được những bộ mặt khác nhau của người da vàng. Đối với họ “vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy” có gì khác nhau đâu (cũng như người Việt Nam ta rất khó phân biệt được những nét khác nhau của người Tây: cũng da trắng, mũi lõ, mắt xanh như nhau cả).

   Sự nhầm lẫn ấy khiến nhân vật “tôi” có thể nghe lỏm được cuộc trò chuyện thầm lén và tinh quái của đôi trai gái Pháp về Khải Định. Vậy là Khải Định không hề xuất hiện trong tác phẩm mà chân dung hắn lại được vẽ ra hết sức cụ thể và ngộ nghĩnh. Cách lố bịch hoá tên vua bù nhìn như thế vừa giữ được tính khách quan : không phải Nguyễn Ái Quốc – một người cộng sản – cố tình mạt sát Khải Định như một kẻ thù giai cấp. Đây là người Pháp họ nghĩ và nói về hắn như thế đấy chứ !

   Mà chí có trong con mắt người Pháp thì Khải Định mới trở thành hài hước đến thế. Vì là người dân một nước dân chủ, họ mới nhìn ông vua – nhất lại là ông vua một nước phương Đông – như một thứ đồ cổ, một vật lạ đến từ một đất nước xa xãm còn mông muội. Và vì là người Tây nên họ mới nhìn cái nón ra cái chụp đèn, nhìn y phục và dồ trang sức của vị hoàng đế thành những lụa là đeo trên người với những bộ hạt cườm,…

   Vậy là qua cuộc trò chuyện của đôi tình nhân Pháp, liên hệ người khách An Nam ngồi bên với tên vua bù nhìn họ đã thấy ở trường đua, Khải Định hiện ra như một anh mũi tẹt, mặt bủng, đội chụp đèn lên cái đầu quấn khăn, đeo lên người rất nhiều lụa là và hạt cườm, vẻ nhút nhứt, lúng ta lúng túng,… Nhưng hắn đến đây để làm gì trên xe điện ngầm, mà sao không có tuỳ tùng hộ giá ? Họ đặt cho nhau những câu hỏi như thế và tự giải đáp cho nhau : “Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đổ rồi ?” ; “Có khi đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga để đi chơi vi hành đấy”.

   Cuộc trò chuyện cứ thế tiếp diễn, và vị “quốc vương An Nam” không còn ra thể thống gì nữa, chỉ là một kẻ tiêu xài bừa bãi, chơi bời lén lút trên đất Pa-ri.

   Cái giá của Khải Định còn bị hạ thấp hơn nữa, khi đôi trai gái coi y không hơn gì một tiết mục giải trí rẻ tiền, thậm chí không mất tiền – khác với những trò giải trí khác ít nhiều đều phải mất tiền như xem hề Sác-lô hay xem vợ lẽ nàng hầu của vua Cao Miên,…

   Như vậy là sáng tạo ra tình huống nhầm lẫn, tác giả đã đem đến cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật vể nhiều mặt :

   – Làm cho câu chuyện trở nên vui và thú vị.

   – Giúp thái độ trần thuật có vẻ khách quan mà đòn đả kích lại mạnh mẽ hơn.

   – Nhân vật chính không có mặt mà lại được khắc hoạ đầy đủ và cụ thể hơn : phối hợp chân dung Khải Định trong y phục hoàng đế và chân dung của y trong bộ dạng “vi hành”.

   “Vi hành” được thuật kể dưới hình thức một bức thư gửi cô em họ ở quê nhà (dịch ra tiếng Pháp).

   Viết truyện dưới hình thức thư từ thực ra không có gì mới mẻ, độc đáo cả. Vấn đề là tác giả sử dụng hình thức này có thích hợp hay không và đạt được hiệu quả nghệ thuật như thế nào.

   Thư là thể văn hết sức tự do phóng túng, nghĩa là tha hồ bắt chuyển nọ sang chuyện kia, chuyển cảnh này sang cảnh khác, đổi giọng này sang giọng nọ. Trong thư, người ta có thể thông báo sự việc, thông tin, nhắn tin, có thể bộc lộ tâm tình hoặc trao đổi suy nghĩ thầm kín của mình. Thư riêng viết cho người thân thì có thể thực hiện đủ mọi chức năng như vậy. Bức thư “Vi hành” thuộc loại này.

   Chuyển giọng, chuyển cảnh linh hoạt

   Nhờ hình thức viết thư, tác giả đang từ giọng tự sự khách quan (tường thuật cuộc trò chuyện của đôi trai gái Pháp trên tàu điện ngầm ở Pa-ri) chuyển ngay sang giọng trữ tình thân mật khi tâm sự với cô em họ ở quê nhà. Có thể tìm thấy trong “Vi hành” nhiều giọng điệu khác nhau, khi nghiêm trang, khi lạnh lùng sắc sảo, khi thân mật tâm tình,… Tuy nhiên, giọng điệu chi phối tất cả vẫn là giọng mỉa mai, châm biếm, bề ngoài nhiều khi có vẻ nhẹ nhàng và vui nữa, nhưng thực ra đều là những đòn đả kích sâu cay, mãnh liệt :

“- Đổi xe ở đây chứ, anh yêu ơi ?

– Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta.

– Em thì thích Sác-lô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm !

– Đâu có ! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ ? Phải trả những nghìn rưỡi phơ-răng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công-gô ; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh ? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy,…”.

   Nhờ hình thức viết thư, tác phẩm cũng có thể chuyển cảnh một cách thoải mái : từ cảnh đi xe điện ngầm ở Pa-ri chuyển thẳng tới cảnh quê nhà thời thơ ấu của tác giả khi còn ngồi vắt vẻo trên đầu gối của ông bác để nghe kể chuyên cổ tích ; từ chuyện cải trang của vua Thuấn bên Tàu, vua Pi-e bên Nga, đến chuyện “vi hành” của những ông hoàng bà chúa vì những lí do “không cao thượng bằng”,…

   Liên hệ tạt ngang, so sánh thoải mái nhằm châm hiếm nhiều đối tượng một lúc.

   Thứ nhất là thư riêng, là một thể văn rất chủ quan, người viết có thể đưa ra đủ mọi cảm nghĩ tự do của mình, đồng thời liên tưởng tạt ngang từ đối tượng này đến đối tượng khác, nhiều khi chẳng có quan hệ dính dáng gì với nhau. Tác giả “Vi hành” đã làm như thế. Chẳng hạn từ câu chuyện “vi hành” của Khải Định, người viết đưa ra đủ thứ phán đoán giả định về hành vi bất chính và tư cách dơ dáy của y, với những “phải chăng ngài muốn”, “hay là… ngài muốn”. Ai cấm được người viết thư riêng cho người thân có thể suy luận thoải mái như thế. Đặc biệt, từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp, tác giả liên hệ một cách mỉa mai và bất ngờ đến bọn mật thám ở Pa-ri luôn luôn bám theo gót những người cách mạng Việt Nam theo lệnh của chính quyền phản động : “Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt ! […] Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút !”.

   “Vi hành” là một bằng chứng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, tuy không bao giờ tự nhận là một nghệ sĩ, nhưng thật sự là một tài năng nghệ thuật. Tác phẩm đầy tính chiến đấu, nghệ thuật châm biếm độc đáo, linh hoạt và đa dạng, dường như mỗi chi tiết, mỗi câu, mỗi chữ đều mài sắc như những lưỡi dao phóng vào kẻ địch.

Đề bài: Cảm nghĩ về truyện Vi hành của Nguyễn Ái Quốc

   Truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc được viết trong dịp vua Khải Định “Vi hành” sang Pháp để tham dự triển lãm ở Maxay. Tuy nhiên những hành động mờ ám của vua Khải Định lại khiến nhiều người bất bình, không đồng lòng. Nguyễn Ái Quốc đã lấy bối cảnh đó để mỉa mai, châm biếm hành vi lén lút của một ông vua triều đại phong kiến.

   Ngay từ nhan đề, người đọc đã nhận ra giọng mỉa mai, châm biếm rất sâu cay. “Vi hành” được hiểu là hành vi đi du ngoạn để quan sát tình hình dân chúng một cách bí mật, không công khai nhưng vua Khải Định lại làm trò lố, lợi dụng việc chung để làm việc cá nhân của mình. Giọng văn nhẹ nhàng nhưng đầy hàm ý đã khiến cho người đọc hình dung được sự thối nát của một ông vua.

   Điều đặc biệt chính là Nguyễn Ái Quốc đã chuyển thể nội dung bằng cách viết thư cho cô em gái. “Bức thư đặc biệt” đó đã vạch trần ra được sự lố lăng, kệch cỡm, ngây ngô của vua Khải Định trên đất bạn xa xôi. Câu chuyện được xâu chuỗi bằng những sự việc, hiện tượng diễn ra hằng ngày trong suốt chuyến đi của Khải Định. Cuộc trò chuyện của cặp trai gái trẻ người Pháp về vua Khải ĐỊnh khiến tác giả vỡ ra rất nhiều điều.

   Dân chúng Pháp đều cho rằng ai da vàng, mũi tẹt, mắt xếch thì đó chính là vua An Nam. Và bọn thực dân đã nhầm lân vua Khải ĐỊnh với Nguyễn Ái Quốc nên đối đãi rất tốt với ông.

   Nguyễn Ái Quốc đã khéo lẹo bịa ra những tình huống hay ho, nhưng là bịa như thật, khiến cho người nghe bị cuốn hút vào mạch kể đó. Qua lời của đôi trai gái thì chúng ta có thể nhận ra được Khải ĐỊnh là ông vua “mặt mũi ngây ngô, điệu bộ lúng ta lúng túng, mũ mãng lố lăng”. Thực ra trong mắt của người dân Pháp thì vua Khải Định thật đáng khinh và bị xem thường ở khắp mọi nơi.

   Lối dẫn dắt câu chuyện tự nhiên khi kể mọi việc cho cô em gái nghe, Nguyễn Ái Quốc đã làm tăng tính chân thực và hấp dẫn của sự thật. Tác giả đã tố cáo tội ác của Khải Đinh đối với nhân dân ta, đất nước ta. Đớ chính là việc đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện và rượu độc đầy nham hiểm, hăn chỉ quan tâm đến lợi ích của hắn còn lợi ích của quốc gia thì bỏ mặc.

   Giọng điệu đầy mỉa mai, sâu cay khiến cho người dân vô cùng căm phẫn trước tội ác, sự lố lăng của một ông vua đáng khinh bỉ.

   Với cách viết giản dị, chân thực và những tình huống hay ho Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra bộ mặt thật của một ông vua đáng trách, đẩy nhân dân vào bước đường cùng.

Đề bài: Phân tích nội dung nghệ thuật châm biếm, đả kích trong truyện ngắn Vi (Nguyễn Ái Quốc)

   “Vi hành” là một truyện ngắn trào phúng phản phong, phản đế thuộc loại sớm nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn được sáng tác vì mục đích tố cáo chân tướng tên vua bù nhìn Khải Định khi y sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác xây năm 1922 đồng thời nhằm phơi bày bộ mặt xấu xa của thực dân Pháp. “Vi hành” là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật châm biếm, đả kích của Nguyễn Ái Quốc.

   “Vi hành” được sáng tác vì mục đích Cách mạng, vì tinh thần chiến đấu. Nó nằm trong hệ thống những bài văn, bài báo mà Nguyễn Ái Quốc viết để tố cáo chân tướng của tên vua bù nhìn Khải Định. Tên vua ấy không khác gì một tên hề lố lăng, vi hành lén lút mà mờ ám. Qua truyện, Nguyễn Ái Quốc cũng muốn tố cáo bọn thực dân Pháp đê hèn, lừa bịp, đồng thời bộc lộ một cách kín đáo nỗi tủi nhục của người dân bản xứ. Tên vua bù nhìn Khải Định và bọn thực dân Pháp hiện lên dưới ngòi bút châm biếm, đả kích của Nguyễn Ái Quốc vừa nực cười, vừa xấu xa.

   Nghệ thuật châm biếm cũng đã có trong văn học Việt Nam, như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… thế nhưng, tiếng cười mỉa mai ở Nguyễn Ái Quốc lại có sắc điệu riêng với niềm tin, niềm lạc quan của một người chiến sĩ cộng sản. “Vi hành” là biểu hiện của một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn và hóm hỉnh.

   Nếu Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng “tình huống truyện như một tứ thơ. Nó giống như một thứ nước rửa sạch sẽ làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm nổi bật vấn đề, tư tưởng tác giả” thì ở Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra những tình huống oái oăm, vui nhưng lại tạo được nhưng hiệu quả châm biếm sâu cay. Đó là tình huống nhầm lẫn đơn giản mà vô cùng hợp lý, lung linh nhiều ánh sáng bất ngờ, tác động mạnh vào ấn tượng người đọc. Từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp đến sự nhầm lẫn của cả quần chúng nhân dân, chính phủ Pháp tưởng người da vàng nào cùng là Khải Định. Tên vua bù nhìn Khải Định tuy không xuất hiện trực tiếp trong truyện nhưng chân tướng vẫn hiện lên rất rõ ràng thông qua câu chuyện và cái nhìn của đôi trai gái người Pháp. Trong con mắt người Pháp, Khải Định có một trang phục nực cười như một thằng hề, “cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn” với những thứ trang sức màu mè vô cùng lố bịch “Đeo lên người đủ bộ hạt cườm” và có giá trị rẻ tiền hơn cả những trò giải trí rẻ tiền nhất. Khải Định bị coi như một hiện tượng lạ. Một “anh vua” mũi tẹt, mắt xếch, nước da vàng bưng như vỏ chanh, đeo lên người những bộ lụa là, hạt cườm, các ngón tay đeo đầy những nhẫn lúng ta lúng túng đi giữa Pa-ri hoa lệ. Vậy mà hắn đã đi đến những đâu? Nào trường đua, các tụ điểm ăn chơi phóng túng nhất Pa-ri. Cái dáng vẽ nhút nhát, lúng túng của Khải Định trông thật thảm hại. Phải chăng ” ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alếchxang đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện bằng dân nước Nam, dưới quyền ngự trị của ngày hay không?… Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?”. Ngài vi hành lén lút hay để thực hiện một hành vi ám muội? Khải Định đã tự lột mặt nạ của mình, hoá ra hắn chỉ là một kẻ chơi bời vô độ, hắn không có phong thái đàng hoàng, sang trọng của một bậc quân vương. Phụ hoạ thêm những lời lẽ mỉa mai khinh miệt ấy là thái độ đà phả trực tiếp của tác giả trong những lời nghi vấn giả thiết, so sánh, liên hệ Khải Định khi hiện lên trong sự đối lập, tương phản với vua Thuấn, vua Pie càng trở nên đáng khinh, càng tầm thường và hèn mạt. Tác phẩm liên tục xuất hiện những câu hỏi đặt ra những giả thiết về mục đích vi hành “không cao thượng” của Khải Định. Các từ ngữ “phải chăng”, “hay là”, “hay không”… luyến láy, nối tiếp nhau như thể Nguyễn Ái Quốc đang đảo trộn, soi xét, lật đủ mặt này mặt kia để phơi bày trần trụi mọi cái xấu của Khải Định.

   Không chỉ có vậy, trong mắt người Pháp, hắn không chi là một kẻ ăn chơi lố bịch, không chỉ giống một mụ đàn bà “đeo lên người đủ thứ lụa là, hạt cườm” mà còn như một trò vui không mất tiên, một thằng hề. Qua câu chuyện của đôi trai gái trên chuyến xe: “Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả nhũng nghìn rưỡi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò nhào lộn của sứ thánh Công-gô. Hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có định kí giao kèo thuê đấy”. Thật không còn lời lẽ nào hơn dành cho tên vua bù nhìn ấy. Thế mà tác giả, người đang bị tưởng lầm là Hoàng đế đã phải chịu đựng tất cả sự mỉa mai, khinh bỉ qua cái nhìn cua đôi trai gái Pháp. Nhưng đâu chi đôi trai gái ấy lầm tưởng “tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành Hoàng Đế ở Pháp” mà đến chính phủ Pháp, quần chúng Pháp đều lầm. Để rồi mỉa mai thay, “quần chúng cứ là tự phát biểu nhiệt tình khi vừa thoáng thấy đồng bào ta” với những lời chào mừng kín đáo “Hắn đấy! Xem hắn kìa”. Ông vua nước Nam được gọi là “hắn”, được nhìn với những cái nhìn ngấu nghiến, tò mò như vật lạ, một trò hề. Ý nghĩa phê phán của tác phẩm càng lúc càng mạnh mẽ. Qua câu chuyện được tác giả kể lại trong bức thư viết cho cô em họ chân dung độc đáo, đầy ấn tượng mang sức tố cáo mạnh mẽ được thể hiện qua hình thức tâm tình riêng tư – một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã liên hệ, so sánh tạt ngang, chuyển giọng, chuyển cảnh một cách linh hoạt. Sự mỉa mai nhưng thực ra lại thật chua chát, Khải Định ăn chơi xa xỉ trên mồ hôi nước mắt của nhân dân. Bằng sự tài tình của mình, Nguyễn Ái Quốc đã khắc hoạ chân dung tên vua bù nhìn thật sự sinh động, ấn tượng với vẻ ngoài lố bịch và những hành động lúng túng. Bên ngoài câu chuyện có vẻ bông đùa nhưng bên trong tác giả lại ngầm thể hiện thái độ khinh bỉ, đau xót – đau xót cho đất nước khi có một ông vua như Khải Định.

   Sự sắc sảo của nghệ thuật châm biếm không chỉ được thể hiện ở cách miêu tả chân dung và hành động của tên vua bù nhìn – Khải Định mà còn được bộc lộ ở cách miêu tả bọn thực dân Pháp, đặc biệt là bọn mật thám và chính phủ Pháp. Ngay đến chính phủ Pháp còn không thể nhận ra được khách thật của mình thế nên “bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt”. Cái cười của Nguyễn Ái Quốc ở đây chính là cái cười mỉa mai, bóng gió, là lối nói cứ thấp thoáng ý xa, ý gần, nghĩa đen nghĩa bóng với hệ thống ngôn ngữ vô cùng phong phú: “Đón tiếp tốt đẹp”, “dành cho”, “nhiệt tình”, “tận tuỵ”, “âu yếm”,:”tự hào”… bên cạnh những câu văn đậm vẻ mỉa mai và cả lối ví von so sánh sắc nét: “Các vị chẳng nề hà chút công sức nào bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác nào bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được vì nỗi âu yếm của các vị đối với tôi”. Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo sự xảo trá, bịp bợm của bọn thực dân Pháp đối với Đông Dương đồng thời đả kích chế độ mật thám Pháp xâm hại quyền tự do cá nhân của người dân thuộc địa. Bên cạnh đó, Người còn sử dụng biện pháp song hành “tất cả những ai có màu da vàng đều là Hoàng đế – tất cả những ai ở Đông Dương đều là bậc khai hoá” và biện pháp liên hệ nhằm phê phán chính sách ngu dân, đầu độc dân thuộc địa của bọn thực dân Pháp. Tiếng cười của Bác là một tiếng cười trí tuệ, đó không phải là một tiếng cười giòn giả ngay trên bề mặt, mà là tiếng cười thâm trầm ở bề sâu. Cái cười chỉ hiện ra chua chát, mỉa mai như kết quả cuối cùng của một quá trình suy nghĩ để nhận ra cái trái tự nhiên của bản thân sự vật, sự việc. Ông vua – một danh nghĩa sang trọng nhưng thực ra lại đáng khinh, chính sách bảo hộ – cái tên thì nhân nghĩa nhưng thực ra lại là sự bóc lột vô cùng tàn ác, ngòi bút châm biếm sâu sắc của tác giả đã chú ý khai thác những điều trái ngược trong một sự thống nhất bên cạnh việc phát hiện sự thống nhất trong những hiện tượng trái ngược nhau. Tiếng cười với nhiều sắc điệu, có cả sự khinh bỉ của một người cách mạng lẫn nỗi đau của một người dân mất nước, có cả chất thâm thuý của người thông thuộc lịch sử lẫn vẻ tinh nghịch, trẻ trung của tuổi thanh niên.

   Đi vào thế giới nghệ thuật của “Vi hành” ta bắt gặp sự phong phú của nhiều yếu tố giọng điệu, hình ảnh… Tác phẩm còn lôi cuốn người đọc bởi lối dẫn chuyện vô cùng độc đáo lạ thường. “Vi hành” là sự luân chuyển, đan xen của nhiều giọng nói, nhiều giọng kể. Mở đầu câu chuyện là giọng bông đùa bỡn cợt, của người ngoài cuộc, tiếp theo là giọng tâm tình thân mật giữa tác giả và cô em họ, tiếp theo nữa là giọng hồi tưởng của các vị vua vĩ đại để mỉa mai Khải Định vi hành với những lí do không cao thượng. Và đặc biệt, khi tác giả cất tiếng hỏi “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp dưới quyền ngự trị của bạn ngài liệu có được sung sướng?”… thì giọng điệu lại càng châm chọc trực diện tên vua bán nước.

   Truyện ngắn “Vi hành” không chỉ là tiếng cười châm biếm mà còn là tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Tâm trạng ấy không chỉ xuôi chiều trong sự đùa vui, mỉa mai, giễu cợt mà còn có cả lòng căm ghét kẻ thù và nỗi đau mất nước. Lòng yêu nước đôi khi còn được bộc lộ một cách chua chát trong giọng văn như là một nghịch lý” Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không hiểu sao che dấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế”.

   Sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Ái Quốc đã được kết tinh trong một nghệ thuật châm biếm bậc thầy – nghệ thuật quen thuộc để đả kích những đối tượng đáng phê phán. Nhưng với “Vi hành” Nguyễn Ái Quốc đã mang đến một tiếng cười mới mẻ mang chiều sâu trí tuệ. Tiếng cười thâm thuý được bật ra từ cách sử dụng câu chữ, xây dựng tình huống, xây dựng chân dung nhân vật. Tiếng cười đó là tiếng cười trí tuệ – càng nghĩ càng thấm, càng thấm càng đau.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1146

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống