Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 11 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11 (Cực Ngắn)
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” của V. Huy-gô
Vích-to-Huy-gô nhà thơ, nhà văn nở rộ và soi rọi cho nền văn học Pháp từ đầu thế kỉ XIX cho đến nay. Ông có thể được coi là chủ soái của thể loại tiểu thuyết với tác phẩm nổi tiếng là “Những người khốn khổ” thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả. Tiêu biểu hơn hết là đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc chạm trán căng thẳng giữa tên tội phạm Giăng Van-giăng và thanh tra mật thám Gia-ve. Đoạn trích đày kịch tính khi Huy-gô đặt hai nhân vật ở tư thế đối đầu nhau, qua đó tác giả muốn gửi gắm thông điệp về sức mạnh của tình thương trong cuộc sống.
“Những người khốn khổ” là tác phẩm để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về những mảnh đời vất vả, cơ cực. Nhân vật chính là Giăng Van-giăng vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho bảy đứa nhỏ mà bị tù đày, khổ sai. Ra tù anh bị mọi người xua đuổi, trừ giám mục Mi-ri-en, ông đã cảm hóa được Giăng Van-giăng bằng tình thương. Về sau Giăng Van-Giăng đổi tên họ là Ma-đơ-len trở thành thị trưởng, chủ nhà máy và đã cứu vớt được Phăng-tin_người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên tên thanh tra Gia-ve truy ra gốc tích ngày xưa, cuộc đời ông lại rơi vào cảnh tù tội, không lâu sau ông lại vượt ngục và thay tên đổi họ nhiều lần. Khi chính quyền tư sản Pháp quá hung ác, tàn bạo nhân dân phải nổi dậy đấu tranh, Giăng Van-giăng cũng tham gia, bấy giờ ông gặp lại Gia-ve khi hắn bị quân cách mạng kết án tử hình, ông đã nhận đem đi xử bắn nhưng lại tha chết cho hắn, khi trở lại bắt Giăng Van-giăng ông chỉ xin đưa Ma-ri-uýt trở về nhà rồi nộp mạng khiến cho Gia-ve bị mất phương hướng trước tấm lòng, nghĩa khí của Giăng Van-giăng mà nhảy sông Xen tự tử. Giăng Van-giăng thực hiện lời hứa với Phăng-tin tìm lại đứa con gái và lẳng lặng vun đắp hạnh phúc cho Cô-dét còn mình thì sống và chết trong cô độc với tình thương bao la dành cho mọi người.
Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc chạm chán căng thẳng giữa Giăng Van-giăng và Gia-ve khi tên thanh tra mật thám này truy ra gốc tích của ông thị trưởng nên đến bắt ông để thị uy dân chúng. Hai con người đại diện cho cái thiện và cái ác được Huy-gô đặt trên cùng một mặt phẳng để cùng làm nổi bật cho bản chất của nhau. Ta tưởng chừng như người cầm quyền ở đây là Gia-ve nhưng ngược lại đó là Giăng Van-giăng khi anh bị dồn đến đường cùng, khi Phăng-tin bị sốc mà chết anh buộc phải chống đối lại mệnh lệnh của tên thanh tra mà khô phục lại uy quyền của mình khiến hắn phải run sợ. Đoạn trích thành công bởi nghệ thuật tương phản, đối lập được sử dụng rất đặc sắc.
Nhân vật Gia-ve được Huy-gô khắc họa bởi nghệ thuật so sánh phóng đại bằng cách dùng một loạt các chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ đó là hình tượng của con mãnh thú độc ác. Gương mặt hắn với cái trán gồ cao, cặp mắt diều hâu sâu hoắm, cằm bạnh mũi hếch… Hình dáng hán hiện lên như một con quái vật chứ không phải là con người. Hành động của hắn được tả lại bằng những câu văn dành cho thú dữ như lời hắn thét “Mau lên” với lời nình của tác giả “Trong cái điệu hắn nói lên hai tiếng ấy có cái gì đó man rợ và điên cuồng. Không còn lá tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. “Hắn phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt” sau đó hắn mới lao tới con mồi “tiến vào giữa phòng” và cắn ngoạm cổ địch thủ “nắm lấy cổ áo ông thị trưởng”. Khi hắn cười phá lên với cái cười ghê tởm phô ra tất cá hai hàm răng. Gia-ve hiện lên đúng là một con mãnh thú hung tợn, ghê sợ con người hắn chỉ có quát nạt, thị uy và ức hiếp người khác. Hắn chính là kẻ đại diện cho chính quyề, pháp luật nước Pháp lúc bấy giờ. Những người làm quan chức đáng lẽ phải gần gũi, yêu thương nhân dân thì ngược lại là ức hiếp dân lành, hắn không cho Giăng Van-giăng có cơ hội được giải thích, hắn cũng nhẫn tâm chà đạp lên niềm tin, hy vọng cuối cùng của Phăng-tin và cuối cùng hắn cũng chẳng chút thương tiếc hay hối lỗi khi đã gây ra cái chết cho người đàn bà bất hạnh ấy. Con người ấy mất hết lòng nhân đạo và yêu thương con người.
Trái lại với hình tượng nhân vật Gia-ve, ở nhân vật Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một chi tiết nào quy chiếu về ẩn dụ mà ngược lại đó là những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động được Huy-gô sử dụng để khắc họa chân dung và bản chất lương thiện, thương yêu con người của Giăng Văn-giăng. Trước tiên Giăng Van-giăng được hiện lên qua lời nói của Phăng-tin, đối với cô ông như một đấng cứu thế cứu vớt cô qua những ngày khó khăn, giúp đỡ cô lúc hoạn nạn và cũng là niềm tin, niềm hy vọng của cô về việc tìm và chuộc lại cô con gái cho cô. Giăng Van-giăng luôn nhẹ nhàng và dịu giọng với cô ngay cả với Gia-ve khi hắn đang rất hống hách mục đích cuối cùng cũng là chấn an và muốn cứu vớt chị ra khỏi cơn nguy kịch khi bệnh tình ập đến. Sẽ xảy ra chuyện gì ngay sau đó nếu thay câu nói “Tôi biết là anh muốn gì rồi” bằng câu “Tôi biết anh đến bắt tôi” có lẽ rằng ngay lúc ấy Phăng-tin sẽ đột tử mất không nói được một lời và không một tia hi vọng. Giăng Van-giăng vẫn cố gắng nhún nhường, hạ giọng với Gia-ve, thậm chí là cầu xin hắn “Tôi cầu xin ông một điều…” để tìm lại đứa con cho Phăng-tin rồi bản thân mình chấp nhận bị trừng phạt và phải trả giá như thế nào cũng chấp nhận. Giăng Van-giăng là một con người rất trọng chữ tín và sẵn sàng hy sinh thân mình vì người khác. Gia-ve cũng không coi thường ông mà “Hắn coi Giăng Van-giăng như một địch thủ bí hiểm và không sao bắt được, một đô vật lạ lùng hắn ôm nghì mấy năm mà không thể quật ngã” nên lấn này có cơ hội hắn nhất quyết không để ông chạy thoát khỏi tay mình, nên tìm mọi cách để bắt cho bằng được Giăng Van-giăng. Tưởng chừng như người cầm quyền ở đây là Gia-ve bởi hắn là kẻ đại diện cho chính quyền lúc bấy giờ thi hành pháp luật còn Giăng Van- giăng tên tội phạm bị truy nã nhưng chính ông mới là người cầm quyền và được khôi phục lại uy quyền ở giây phút này. Phăng-tin đã bị Gia-ve khiến cho đột tử, trong lúc ấy hắn lại một mực muốn bắt Giăng Van-giăng đi, sự uất ức kìm nén trước giờ đã trỗi dậy và được minh chứng bằng hành động mạnh mẽ, dứt khoát ngay sau đó “Giăng Van-giăng đi tới, giật gãy trong chớp mắt trong chiếc giường cũ nát…ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng” khiến hắn run sợ, lùi ra về phía cửa. Rõ ràng trong giờ phút này người có uy, có quyền là Giăng Van-giăng chứ không phải là Gia-ve. Tình thế, uy thế, quyền thế bị đảo lộn ngược lại khiến cho ta nhớ đến cảnh cho chữ trng tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân khi đối lập giữa tâm thế, tư thế giữa người tử tù và quan coi ngục. Đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn về cuộc chạm mặt giữa cái ác và cái thiện.Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái các_đó là quy luật của sự tồn tại trong xã hội.
Giăng Van-giăng còn được hiện lên với những phẩm chất đáng quý qua lời miêu tả trực tiếp của nhà văn. Không biết khi Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích ấy ông đã nói gì với chị mà “rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Giăng Van-giăng hiện lên như một vị cứu tinh cao cả khiến cho Phăng-tin cũng an tâm nhắm mắt xuôi tay để gương mặt chị “sáng rỡ lên một cách lạ thường”. Lời bình luận của tác giả xuất hiện dồn dập ở đoạn văn đã làm cho hình tượng Giăng Van-giăng thật lãng mạn mà phi thường biết bao. Đó chính là cái tài của ngòi bút sắc sảo được thể hiện.
Giăng Van-giăng trước sau năm lần bảy lượt hành động của ông cũng chỉ vì tình thương và lòng thương yêu con người mà vướng phải vòng lao lí khổ ải, những kẻ nắm quyền trong tay lại hách dịch với dân thay vì chăm lo và động viên nhân dân. Tuy nhiên cái thiện luôn chiến thắng cái ác dù ở trong bất kì hoàn cảnh nào.
Đoạn trích đã khép lại với bút pháp lãng mạn của Vic-to-Huy-gô nhưng lại mở ra cho người đọc một thông điệp ý nghĩa: “Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai”. Tác phẩm nhắc nhở ta về trách nhiệm, thiên lương của người làm nhiệm vụ cầm cân nảy mực, đem lại công lí công bằng cho xã hội từ trước đến nay ý nghĩa ấy chưa bao giờ bị thời gian bào mòn.
Đề bài: Phân tích Người cầm quyền khôi phục uy quyền
V.Huy-gô là một con người đa tài, ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch,… ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm xuất sắc. Tuy xuất thân từ gia đình hoàng tộc nhưng bản thân ông lại luôn đứng về phía nhân dân, chống lại chính quyền phong kiến. Những người khốn khổ là tác phẩm làm nên tên tuổi của ông, vinh danh ông là người bạn chuyên viết về những người khốn cùng trong xã hội. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là trích đoạn ngắn nhưng cung bộc lộ đầy đủ bút pháp lãng mạn, cũng như tư tưởng nhân văn cao cả của V.Huy-gô.
Đoạn trích thuộc chương IV, quyển 8 phần I, đây là trích đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sau khi ra khỏi tù, nhận được sự giúp đỡ từ giám mục, Giăng Van-giăng đã trở thành một con người lương thiện, ông đổi tên thành Ma-đơ-len giúp đỡ mọi người có công ăn việc làm, bản thân được yêu quý và được bầu làm thị trưởng. Bản tính lương thiện, khiến ông không thể để mặc cho Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan nên ông quyết định ra đầu thú, thú nhận chính mình là Giăng Van-giăng. Đoạn trích là cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa thiện và ác, giữa Giăng Van-giăng và tên ác thú Gia-ve.
Đoạn trích có nhan đề “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” vậy ở đây ai là người cầm quyền và khôi phục uy quyền. Gia-ve vốn là tay sai, là kẻ cầm quyền đi thực thi pháp luật. Còn Giăng Van-giăng lại là người tù khổ sai, phải phục tùng Gia-ve. Nhưng trong cuộc chạm trán giữa cái thiện và cái ác, Gia-ve đã phải sợ hãi, nhún nhường trước cái Thiện – Giăng Van-giăng. Cái thiện khôi phục uy quyền của mình, qua đó tác giả đã khẳng định và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Gia-ve hiện lên mang diện mạo của một con ác thú, bộ mặt gớm giếc, nhìn vào hắn có cảm tưởng như không thể chịu đựng được, người muốn lịm đi. Giọng điệu cộc lốc, thô lỗ, không chỉ vậy còn man rợ khi hắn điên cuồng hét lên, dường như ta không thể phân biệt đó là tiếng người hay tiếng thú. Ánh nhìn của hắn cũng làm người ta sởn gai ốc, nó tựa như một cái móc sắt. Nụ cười ghê tởm, phô ra hai hàm răng gớm giếc. Qua những nét phác họa hết sức điển hình, đã cho người đọc một hình dung chân thật về chân dung “quái thú” Gia-ve. Ở hắn, chỉ duy nhất có một hành động khiến người ta vẫn biết hắn là người chính là hành động hút thuốc. Ở đây V.Huy-gô đã sử dụng bút pháp tả thực để lột tả một cách chân thực đầy đủ nhất diện mạo của Gia-ve.
Không chỉ gớm giếc trong nhân hình mà hắn còn độc ác, man rợ trong nhân tính, trong cách hành xử với người khác. Trước người bị bệnh hắn ta không hề quan tâm đến sức khỏe của họ, mà vẫn ra sức quát tháo, khiến ai nấy đều khiếp sợ, giọng điệu hằn học, ngang ngược: “Giờ lại đến lượt con này”… Không dừng lại ở đó hắn còn nói ngay sự thật về Cô-dét và ông thị trưởng khiến cho chị Phăng-tin bị một cú sốc lớn về mặt tinh thần. Chính những lời nói, hành động không chút nhân tính của Gia-ve đã dẫn đến cái chết đầy thương tâm của Phăng-tin. Dù vậy hắn vẫn không mảy may xót thương, vẫn lạnh lùng thực thi nhiệm vu, không hề động lòng thương cảm, “đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự”. Gia-ve mang trong mình bản tính tàn nhẫn, như một con ác thú. Đối với hắn trong xã hội chỉ có hai loại người có tội và không có tội, hắn là một công chức mẫn cán, thực hiện mọi chỉ thị của bọn tư sản. Và chính từ đó đã sản sinh ra một con quái thú đội lốt người mang tên Gia-ve.
Trái ngược lại với Gia-ve, lại là một Giăng Van-giăng sống trách nhiệm và đầy tình yêu thương đối với mọi người xung quanh. Trước khi chị Phăng-tin qua đời, ông vô cùng nhẹ nhàng, nhún nhường trước những lời lẽ cũng như hành động của Gia-ve đối với mình. Khi Ga-ve nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng, ông chỉ kính cẩn nói với Gia-ve: “Thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này”. Lời lẽ hết sức nhún nhường, miễn sao để không bị ảnh hưởng đến người bị bệnh. Lời lẽ với chị Phăng-tin cũng rất nhẹ nhàng, tinh tế, tránh để cho Phăng-tin biết sự thật: “Tôi biết anh muốn gì rồi”. Mọi lời lẽ, hành động nhún nhường đó tất cả đều là vì Phăng-tin, ông không muốn cô gái đó đang sống trong mong manh hi vọng lại bị dập tắt bởi thực tế phũ phàng. Trong giây phút nguy hiểm đến tính mạng bản thân ông vẫn không màng, vẫn chỉ một mực suy nghĩ cho những người xung quanh mình.
Khi Phăng-tin tắt thở, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ven đã thay đổi hẳn, đó là sự cương quyết, dứt khoát: “anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó” và cảnh cáo Gia-ve: “Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Thái độ đó là bởi tình thương, sự xót xa dành cho Phăng-tin quá lớn. Ông dùng mọi cách, kể cả đối đầu với Gia-ve để được nán lại ít phút bên Phăng-tin tạm biệt người phụ nữ với số mệnh đây đau khổ, bất hành. Ông vuốt mắt cho chị, gương mặt “Phăng –tin như rạng rỡ lên một cách lạ thường”. Tình yêu thương của Giăng Van-giăng khiến cho tất cả mọi người đều phải cảm mến, kính phúc. Và sau giây phút đó, Giăng Van-giăng chủ động, bình tĩnh nói “Giờ thì tôi thuộc về anh”. Thái độ hết sức hiên ngang, chủ động, ung dung.
Đoạn trích đã sử dụng nghệ thuật so sánh, đối lập tài tình, đó là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, cái nhân văn với cái thấp hèn, qua đó làm nổi bật tư tưởng, chủ để của tác phẩm. Bút pháp lãng mạn được vận dụng tài tình, đặc biệt là qua hình ảnh nụ cười rạng rỡ nở trên môi Phăng-tin ngay khi chị đã qua đời. Đan xen trong lời kể là những lời bình luận ngoại đề, bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của người viết, đây cũng là một cách định hướng cho người đọc.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền, đã tái hiện chân thực cuộc đối đầu đầy gay go giữa cái thiện và cái ác. Đồng thời qua đó đã gửi gắm thông điệp đầy ý nghĩa: Lòng nhân ái, tình yêu thương con người có thể giúp ta vượt qua mọi trở ngại, khó khăn , đem đến ánh sáng hi vọng cho tương lai. Tác phẩm cho thấy giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả của tác giả.
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền trong Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô.
Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là nhà thơ, nhà văn lãng mạn lớn của nước Pháp thế kỉ XIX, được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Trong suốt cuộc đời, ông nhiệt tình tham gia những hoạt động chính trị và xã hội vì sự tiến bộ của con người. Những tác phẩm tiêu biểu của V. Huy-gô: Tiểu thuyết: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chin mươi ba (1874)… Thơ : về phương Đông (1829), Lá thu (1831), Ánh sáng và bóng tối (1840), Trừng phạt (1853)… Trong đó, Những người khốn khổ (1862) là tác phẩm nổi tiếng nhất.
Bối cảnh câu chuyện là xã hội tư sản Pháp trong những năm đầu thế kỉ XIX. Nhân vật chính là Giăng Van-giăng – một người thợ làm vườn nghèo khổ vì đập vỡ tủ kính lấy cắp một chiếc bánh mì để nuôi đàn cháu mồ côi nên bị tòa án xử và kết tội mười chín năm tù khổ sai. Sau khi ra tù, nhờ sự cảm hóa của giám mục Mi-ri-en nhân từ nên Giăng Van-giăng đã trở thành người tốt. ông đổi tên là Ma-đơ-len, mở nhà máy và dần dần trở nên giàu có. Ông luôn giúp đỡ mọi người nên được cử làm thị trưởng một thành phố nhỏ. Tên thanh tra mật thám Gia-ve luôn luôn nghi ngờ, rình mò theo dõi ông. Phăng- tin là một phụ nữ xinh đẹp nhưng bất hạnh, làm thợ trong xưởng máy của Ma-đơ-len. Vì có con hoang nên chị bị mụ giám thị sa thải. Cùng đường, Phăng-tin đành phải gửi con cho vợ chồng tên lưu manh Tê-nác-đi-ê, rồi chấp nhận làm gái điếm để lấy tiền nuôi thân và nuôi con. Chị bị Gia-ve bắt bỏ tù, nhờ có ông Ma-đơ-len can thiệp mới thoát nạn, rồi lại được ông đưa vào nằm ở bệnh xá. Đang lúc hết lòng cứu giúp Phăng-tin thì thị trưởng Ma-đơ-lẹn lại quyết định ra tòa tự thú mình là Giăng Van-giăng để cứu Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan. Ông chấp nhận vào tù rồi vượt ngục để thực hiện lời hứa với Phăng- tin lúc chị qua đời. Giăng Van-giăng tìm đến nhà Tê-nác-đi-ê, chuộc bé Cô- dét đang phải sống khổ sở rồi đưa lên Pari, sống lẩn trốn nhiều năm. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại chính quyền tư sản nổ ra ở Pa-ri vào tháng sáu năm 1832 được nhà văn miêu tả rất hào hùng với nhiều hình tượng đẹp như chàng sinh viên Ăng-giôn-rát, cụ già Ma-bớp, chú bé Ga-vơ- rốt… Giăng Van-giăng cũng có mặt trên chiến luỹ. Ông đã cứu sống Ma-ri- uýt, người yêu của Cô-dét và bắt được Gia-ve trong lúc hắn đang do thám. Vốn là người nhân hậu và cao thượng, ông đã tha chết cho hắn. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình yêu của Ma-ri-uýt với Cô- dét, còn mình thì sống và chết trong cảnh cô đơn.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là một đoạn trích nhưng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy-gô và mang dấu ấn đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Nội dung đoạn trích phản ánh sự đối lập giữa cái Ác và cái Thiện, giữa cường quyền và nạn nhân. Qua đó, nhà văn phê phán cường quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo tốt đẹp. Lí tưởng nhân đạo của Huy-gô được tập trung thể hiện qua hình tượng nhân vật lãng mạn Giăng Van-giăng với quan niệm: Tất cả mâu thuẫn và bất công xã hội đều có thể giải quyết bằng tình thương. Tuy giải pháp tình thương ấy nhuốm màu ảo tưởng vì không có tính giai cấp nhưng nó vẫn có tác dụng bồi đắp tình cảm và lẽ sống tốt đẹp cho con người.
Đoạn văn có một vị trí và vai trò đặc biệt trong chuỗi sự kiện về cuộc đời của nhân vật trung tâm. Lần đầu tiên, ông thị trưởng Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng) buộc phải xuất đầu lộ diện đã chọn giải pháp quyết liệt để đối phó với cường quyền và tìm lối thoát. Nếu trong Những người khốn khổ, Huy- gô nhiều lần miêu tả cuộc đối đầu gay gắt giữa Thiện và Ác thì đoạn trích này có thể coi là pha mở đầu đầy kịch tính.
Lâu nay, tên thanh tra mật thám Gia-ve tuy ngoài mặt vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng Ma-đơ-len, nhưng trong thâm tâm hắn vẫn nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng đã thay tên đổi họ. Giờ đây, Giăng Van-giăng đã thú nhận tên thật của mình trước tòa nên Gia-ve lập tức khôi phục uy quyền của hắn vì hắn luôn cho rằng mình là đại diện của luật pháp, của chính quyền. Thực ra, hắn chỉ là một tên tay sai mà thôi. Như vậy, ta có thể nghĩ người cầm quyền là nhân vật Gia-ve. Nhưng xét theo diễn biến câu chuyện thì chi tiết tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van- giăng bỗng phải nem nép nghe theo lệnh ông thì người khôi phục uy quyền lại chính là thị trưởng Ma-đơ-len, tức Giăng Van-giăng.
Bố cục đoạn trích gồm ba phần:
Phần một: Từ đầu đến… Chị rùng mình: Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng) chưa mất hẳn uy quyền của một ông thị trưởng.
Phần hai: Tiếp theo đến… Phăng-tin đã tắt thở: Thị trưởng Ma-đơ-len đã mất hết uy quyền trước tên thanh tra mật thám Gia-ve.
Phần còn lại: Thị trưởng Ma-đơ-len khôi phục uy quyền của mình.
Tính cách các nhân vật được Huy-gô dùng nghệ thuật phóng đại trong ẩn dụ và nghệ thuật tương phản để miêu tả. Gia-ve tiêu biểu cho hạng người độc ác. Đối lập với Gia-ve, Giăng Van-giăng là hình ảnh của một vị cứu tinh nhân đức.
Nhà văn có dụng ý miêu tả tên mật thám Gia-ve như một con ác thú sắp vồ mồi. Ấn tượng đầu tiên của người đọc về Gia-ve là tiếng thét Mau lên! hống hách và đắc thắng của kẻ tiểu nhân thị oai. Tác giả bình luận: Trong cái điệu hắn nói lớn hai tiếng ấy có cái gì man rợ và điên cuồng… Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm. Hắn vừa gầm lên vừa như muốn thôi miên con mồi nên cứ đứng một chỗ, phóng vào con mồi cặp mắt nhìn như cái móc sắt. Sau đó, hắn lao tới túm lấy cổ áo Giăng Van-giăng rồi phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng. Thái độ khinh bi và căm ghét của tác giả bộc lộ rõ qua từng chi tiết, hình ảnh và từ ngữ vô cùng chính xác, đồng thời giúp người đọc tưởng tượng ra chân dung quái dị của tên mật thám Gia-ve.
Tác giả còn làm nổi bật sự tàn độc của con ác thú đội lốt người này qua thái độ và cách xử sự của hắn trước người bệnh. Hắn chẳng thèm quan tâm đến Phăng-tin đang hấp hối mà cứ quát tháo ầm ĩ, láo xược ra lệnh cho Giăng Van-giăng (tức ông thị trưởng Ma-đơ-len): Thế nào! Mày có đi không ?
Lúc này, Phăng-tin vẫn hi vọng rằng nếu ông thị trưởng còn ở đây thì mình sẽ được gặp con; nhưng Gia-ve đã nhẫn tâm dập tắt tia hi vọng ấy bằng lời tuyên bố trắng trợn: Ở đây làm gì còn có ông thị trưởng nữa. Hắn chẳng cần biết đến chuyện Phăng-tin chỉ còn bấu víu vào cuộc sống bằng niềm tin là ông thị trưởng đã chuộc được Cô-dét, đứa con yêu quý về cho chị. Hắn cố tình tỏ thái độ trịnh thượng và nói rất lớn với ông thị trưởng Ma- đơ-len tức Giăng Van-giăng cốt để cho Phăng-tin nghe thấy: Mày nói giỡn I … Chà chà ! Tao không ngờ mày lại ngốc thế! Mày xin tao ba ngày để chuồn hả! Mày bảo là để đi tìm đứa con cho con đĩ kia! Á à Ị Tốt thật ! Tốt thật đấy! Câu nói đáng sợ của hắn khiến cho Phăng-tin tuyệt vọng, run lên bận bật.
Thế giới nội tâm của con ác thú Gia-ve còn bộc lộ qua thái độ và cách ứng xử của hắn trước nỗi đau chia lìa của tình mẫu tử. Trước nỗi đau ấy, ai cũng phải mủi lòng, riêng Gia-ve vẫn lòng lim dạ đá. Hắn tỏ ra giận giữ điên cuồng khi nghe tiếng kêu thảm thiết của Phăng-tin: Con tôi!… Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây ! Bà xơ ơi! Cho tôi biết con Cô-dét đâu. Tồi muốn con tôi! Ông Ma-đơ-len ơi! Ông thị trưởng ơi! Hắn hùng hổ quát nạt: Giờ lại đến lượt con này Ị Đồ khỉ có câm họng đi không ? Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng Ị Nhưng này ! Sẽ thay đổi hết; đã đến lúc rồi đấy !
V. Huy-gô tô đậm tính cách độc ác của Gia-ve bằng thái độ lạnh lùng đến tàn nhẫn của hắn trước cái chết của Phăng-tin. Nếu còn một chút lương tâm một chút tình người thì hắn phải biết giữ im lặng để tỏ ra tôn trọng người vừa chết, chứ không thể tiếp tục quát tháo Giăng Van-giăng: Đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự. Dẹp những cái đó lại. Lính tráng đang ở dưới nhà. Đi ngay, không thì cùm tay lại ! Rõ ràng, tên mật thám Gia-ve đã mất hết tính người.
Đối lập với tên mật thám Gia-ve hung ác là Giăng Van-giăng có tình thương bao la, sâu sắc đối với đồng loại, ông là hình tượng đáng kính của một vị cứu tinh, một nhân vật lãng mạn điển hình. Giăng Van-giăng không quan tâm đến việc Gia-ve đến bắt mình. Điều mà ông quan tâm lúc này là lo lắng, chăm sóc và dồn tất cả tình thương cho người đàn bà khốn khổ Phăng- tin. Tưởng là Gia-ve lại đến bắt mình nên Phăng-tin sợ hãi kêu cứu : Ông Ma- đơ-len, cứu tôi với ! Để cho Phăng-tin yên tâm, Giăng Van-giăng điềm tĩnh, nhẹ nhàng nói với chị: Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu. Rồi ông quay sang nói với Gia-ve: Tôi biết là anh muốn gì rồi. Câu nói ấy chứng tỏ ông biết hắn đến để bắt ông. Tác giả đã thể hiện sự tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và Gia-ve. Tất cả đều nhằm mục đích níu giữ sự sống của Phăng-tin.
Giăng Van-giăng hiểu rằng Cô-dét là tất cả tình yêu, là cuộc sống của Phăng-tin nên ông đành hạ mình năn ni Gia-ve: Xin ông thư cho ba ngày! Ba ngày để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu muốn, ông cứ đi kèm tôi cũng được. Tấm lòng cảm thông sâu sắc của Giăng Van-giăng trước một số phận đáng thương khiến người đọc cũng bùi ngùi cảm động. Hành động của Giăng Van-giăng là nghĩa cử đẹp đẽ đáng trân trọng, là sự tỏa sáng của tinh thần nhân văn cao cả.
Giăng Van-giăng càng nhún mình bao nhiêu thì Gia-ve lại càng kiêu căng, hống hách bấy nhiêu: Hắn nhìn Phăng-tin trừng trừng, lại túm một túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Van-giăng, nói thêm: Tao đã bảo không có ông Ma- đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chĩ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng! Tao bắt được nó đây này! Chỉ có thế thôi! Phăng-tin đã chứng kiến những hành động và lời nói thô lỗ, láo xược của Gia-ve nên chị hiểu rằng ông thị trưởng Ma-đơ-len không còn là chỗ dựa vững chắc của mình được nữa. Chị thực sự chới với trong nỗi đau khổ và tuyệt vọng.
Đoạn văn miêu tả cảnh Phăng-tin tắt thở chân thực và cảm động: Phăng- tin chống hai bàn tay và hai cánh tay cứng đơ vùng nhổm dậy, chị nhìn Giăng Van-giăng, chị nhìn Gia-ve, chị nhìn bà xơ, chị há miệng như muốn nói, từ trong họng thốt ra tiếng rên, răng đánh vào nhau cầm cập, chị hoảng hốt giơ tay lên, hai bàn tay cố sức mở ra tìm chỗ bám như người rơi xuống nước đang chới với, rồi chị bỗng ngã vật xuống gối. Đầu chị đập vào thành giường rồi ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ. Phăng-tin đã tắt thở. Đây cũng chính là thời khắc tính cách của Giăng Van-giăng chuyển biến đột ngột. Lúc Phăng-tin còn sống, ông cố kiềm chế lời nói và hành động của mình trước Gia-ve, nhưng khi Phăng-tin đã chết, ông vụt trở nên mạnh mẽ và dữ dội: Giăng Van-giăng để tay lên bàn tay Gia-ve đang túm lấy ông, cậy bàn tay ấy ra như cậy bàn tay trẻ con và bảo hắn: Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó. Tên mật thám Gia-ve không xứng là đối thủ của ông. Hắn phát khùng và doạ cùm tay ông. Hành động của Giăng Van-giăng thật bất ngờ và quyết liệt: Trong góc phòng có chiếc giường sắt cũ đã ọp ẹp, dùng để các bà xơ ngả lưng những hôm phải trực đêm. Giăng Van-giăng đi tới, giật gẫy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát, việc làm chẳng khó khăn gì đối với những cơ bắp như của ông, ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng, Gia-ve lùi ra phía cửa. Lúc này, người cầm quyền (thị trưởng Ma-đơ-len tức Giăng Van-giăng) đã khôi phục uy quyền và tên mật thám Gia-ve thực sự run sợ.
Tính cách của Giăng Van-giăng còn được tác giả miêu tả gián tiếp qua lời cầu cứu của Phăng-tin luôn hướng về ông: Con tôi! Chị kêu lên. Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây! Bà xơ ơi! Cho tôi biết con Cô-dét đâu. Tôi muốn con tôi! Ông Ma-đơ-len ơi! Ông thị trưởng ơi! Đồng thời được thể hiện qua chi tiết: Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy (cảnh Phăng-tin chết), thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết.
Phăng-tin đã tắt thở, vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà xơ Xem-pli-xơ người không bao giờ biết nói dối đã nhìn thấy tận mắt. Người chết không thể cười được nữa nhưng một người khác khi chứng kiến cảnh Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, lại xúc động và tưởng tượng ra rằng Phăng-tin vừa nở nụ cười, thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra. Một ảo tưởng cảm động trước một sự thực cao cả làm rung động sâu xa tâm hồn người đọc.
Tình thương yêu của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin thật chần thành và sâu sắc. Ông quên bẵng sự có mặt của tên mật thám Gia-ve, quên cả nguy cơ trước mắt: Giăng Van-giăng tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán, ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích, ông ngồi như thế, mải miết, yên lặng, rõ ràng chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa. Trong nét mặt và dáng điệu ông chỉ thấy một nỗi xót thương khôn tả. Mơ màng một lúc lâu, ông mới cúi ghé lại gần và thì thầm bên tai Phăng-tin.
Ông nói gì với chị ? Người đàn ông bị ruồng bỏ ấy có thể nói gì với người đàn bà đã chết? Những lời ấy là lời gì vậy? Chẳng ai trên thế gian này nghe được. Kẻ đã chết có nghe thấy không ?
Một loạt câu hỏi tu từ mà tác giả đặt ra trong đoạn văn này tác động rất mạnh đến tình cảm của người đọc. Phăng-tin đã chết, vậy Giăng Van-giăng nói gì với chị ? Có thể là lời chia sẻ, sự ân hận, đau xót trước cái chết của người đàn bà tội nghiệp mà ông không thể giúp đỡ được gì. Cũng có thể là ông thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu Cô-dét và sau này, ông đã thực hiện bằng được lời hứa đó.
Miêu tả nhân vật Giăng Van-giăng trước cái chết của Phăng-tin, bút pháp lãng mạn đậm tính nhân văn của Huy-gô thực sự bay bổng:
Giăng Van-giăng lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên, đặt ngay ngắn giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con. Ông thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải. Rồi ông vuốt mắt cho chị.
Lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường.
Đọc đoạn văn trên, người đọc cảm thấy một niềm xúc động thánh thiện đang lan toả tràn ngập tâm hồn mình. Phăng-tin đi vào cõi chết nhưng cũng chính là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại. Chị đã được giải thoát khỏi kiếp người khốn khổ để bước sang một thế giới vĩnh hằng tốt đẹp. Đây là sự chiến thắng của tinh thần nhân văn bất diệt và cũng là ý tưởng đẹp đẽ của chủ nghĩa lãng mạn Vích-to Huy-gô trong tác phẩm Những người khốn khổ.
Có thể coi đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một câu chuyện hoàn chỉnh và hấp dẫn. Sự lôi cuốn của nó không chi thể hiện ở bút pháp nghệ thuật tinh tế mà sức hấp dẫn của tác phẩm chủ yếu được tạo nên từ thế giới tình cảm đẹp đẽ cùng với lí tưởng tiến bộ mà nhà văn Huy-gô gửi gắm qua những trang viết đậm đà chất trữ tình? Qua câu chuyện đầy kịch tính với những hình tượng tương phản, Huy-gô muốn gửi tới bạn đọc thông điệp: Trong hoàn cảnh dù bất công và tuyệt vọng đến đâu thì con người chân chính vẫn có thể đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai bằng sức mạnh cảm hóa to lớn của tình thương yêu nhân loại.
Trong xã hội mà chúng ta đang sống hiện nay, những vấn đề về bạo lực và tình thương, những nỗi bất bình và khát vọng thay đổi cuộc sống vẫn được đặt ra. Vì vậy, lí tưởng lãng mạn của V. Huy-gô vẫn có ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng những tình cảm đẹp đẽ, những hành vi dũng cảm và cao thượng cho con người hiện đại. Giải pháp tình thương là rất cần thiết, nhưng chúng ta không thể thay đổi xã hội chỉ bằng tình thương yêu mà còn cần đến bạo lực cách mạng để trấn áp những bạo lực đen tối đày đọa con người. Có như vậy, chân lí Thiện thắng Ác mới có thể trở thành hiện thực.
Đề bài: Nguời cầm quyền khôi phục uy quyền (trích Những người khốn khổ của Vích- to Huy-gô) là đoạn trích thể hiện tập trung cảm hứng phê phán và xót thương, phê phán sự tàn ác, và nhân đạo và xót thương những con người khốn khổ. Anh (chị) hãy phân tích đoạn trích để làm sáng tỏ, điều đó.
Vích-to Huy-gô đã chứng kiến những biến- động lớn lao của nước Pháp gần suốt thế kỉ XIX. Ông đã dần trở thành “nhân vật trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ Pháp”. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, tiêu biểu là Những người khốn khổ. Đoạn trích Người cầm quyển khôi phục uy quyền trong cuốn tiếu thuyết bất hủ này của Huy-gô thể hiện tập trung cảm hứng phê phán và xót thương, phê phán sự tàn ác, vô nhân đạo và xót thương những con người khốn khổ.
Những người khốn khổ (1862) được thai nghén từ năm 1823, trải qua nhiều năm chuẩn bị cống phu, mãi đến ngày 21-5- 1X61 mới viết xong. Những bước thăng trầm của lịch sử đã tác động đến tư tưởng nhà văn trong cả quá trình hư cấu, xây dựng, sửa chữa. Bộ “tiểu thuyết nhân dân”, bản “anh hùng ca của những con người bình thường” này chỉ có thể hoàn thành vào thời kì nhà văn chiến đấu bất khuất vì Công lí, Tự do.
“Khi trên mặt đất, dốt nát và khốn khổ còn tồn tại, thì những quyển-sách như loại này còn có thể không phải là vô ích” (Huy-gô). Tác phẩm đã gợi lên lòng thương vô hạn những kẻ khốn cùng trong xã hội va cố gắng mở ra con đường giải quyết số phận của họ. Huy-gô đã khẳng định một điều là chỉ có những con người khốn khổ mới thật sự yêu thương nhau. Tiếng kêu thảm thương của những cháu bé đang đói lả thôi thúc Giăng Van-giăng phải đập vỡ kính lấy trộm miếng bánh-cho các cháu. Phăng-tin mất việc làm phải bán cả tóc lẫn răng để nuôi đứa con nhỏ. Van-giăng phải di cứu Sin-nia-chi-ơ khói nanh vuốt của tòa án. Họ quên mình vì nghĩa đến người khác. Tình mẹ con Phăng-tin – Cô-dét, tình cha con Van-giăng – Cô-dét, tình yêu của E-pô- nin và tình đồng chí của những con người ở xóm thợ Xanh Ăng-toan, Hơi mà “những nỗi nghèo khổ và cảm hờn ẩn náu”, những mối tình cao thượng ấy không phải ngẫu nhiêu mà chúng ta chỉ thấy ở những người khốn khổ, bất hạnh. Họ cần phải phản không lại trật tự xã hội bất công. Van-giăng phải vượt ngục, Phăng-tin phải kháng cự Gia-ve. Và cao hơn hết là phải cùng nhau đứng vé phía cách mạng, -một sống một chết với kẻ thù. Huy-gô đã khắc họa những gương mặt không phai mờ, những con người đau khổ nhìn về tương lai, sinh động hơn cả những người đang sống. Giá trị hiện thực chính là những con người đang sống thúc đẩy tác giả miêu tả.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một đoạn trích trong tiếu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. “Người cầm quyền” ở đây ứng với nhân vật Giăng Van-giăng hay Gia-ve ? Lâu nay, Gia-ve vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng, tuy có lúc nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng. Bây giờ, Giăng Van-giăng đã trở lại với tên họ thật cũa mình nên gã thanh tra mật thám “khôi phục” quyền hành của hắn. Như vậy có thể nghĩ “người cầm quyền” ứng với nhân vật Gia-ve. Nhưng xét riêng đoạn trích tiểu thuyết chiếm trọn vẹn mục này, tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van-giăng, bỗng phải nem nép nghe theo Giăng Van-giăng… thì ngựời “khôi phục uy quyền” chính là Giăng Van-giăng. Khả năng thứ hai có sức thuyết phục hơn.
Trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt là trong đoạn trích này, nhà văn có dụng ý miêu tả nhân vật Gia-ve như một loài cầm thú: Diện mạo “ác thú”, “chó dữ”, “cọp”,… chỉ “còn chút gần nhân loại” ở chỗ đôi lúc hút thuốc. Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động: thoạt tiên là tiếng thét “Mau lên !” với lời bình của người kế chuyện: “Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Hắn vừa gầm vừa như thôi miên con mồi, “cứ đứng lì một chỗ”, phóng vào con mồi “cặp mắt nhìn như cái móc sát”. Sau đó hắn mới lao tới phía con mồi, ngoạm lấy cổ con mồi (rúm lấy cổ áo), hắn đắc ý phá lên cười, nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.
Người kể chuyện cố ý khắc họa “thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người bệnh. Chẳng quan tâm tới người bệnh nặng là Phăng-tin, hắn cứ quát tháo trong bệnh xá. Chẳng cần biết Phăng-tin gần đất xa trời chỉ còn bấu víu vào cuộc sồng ở chỗ tưởng rằng ống Thị trưởng đã chuộc được Cô-dét về cho chị, hắn đã tàn nhẫn nói toạc ra: “mày nói giỡn ! Chà chà (…) tốt thật đấy. Nhưng còn ông thị trưởng thì chị vẫn hi vọng sẽ gặp được con. Hắn dập tắt nốt tia hi vọng cuối cùng của Phăng-tin bằng cách tuyên bố thảng thừng là ờ đây chẳng còn ai là ông thị trường nữa
“Thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước nồi đau của tình mẫu tử. Đã là người, ai đứng trước nỗi đau ấy chắc cũng phải mủi lòng. Gia-ve ngược lại, vẫn lòng lim dạ đá. Trước tiếng kêu tuyêt vọng của Phăng-tin , Gia-ve đã quát: “Giờ lại đến lượt con này…”
Trước người chết, Gia-ve không những không mảy may xúc động mà hắn vẫn tiếp tục quát: “Đừng có lôi thôi ! Tao không đến đây để nghe lí sự…”
Khắc họa nhân vật Gia-ve với bản tính cùa loài cầm thú,Vích-to Huy-gô muốn kịch liệt phê phán cái ác, sự vô nhân đạo đang có nguy cơ hoành hành trong xã hội.
Trái ngược với tính cách của Gia-ve là nhân vật Giăng Van-giăng. Nhà văn chú ý khắc họa những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và đối với Gia-ve, tất cả đều nhằm mục đích cứu vớt Phăng-tin trong lúc bệnh tình nguy kịch. Khi Gia-ve xuất hiện, ông biết hắn đến để bắt mình, nhưng nói thế nào đây để Phăng-tin yên tâm ? Sự thể sẽ ra sao nếu thay cho câu Tôi biết là anh muốn làm rồi” bằng câu “Tôi biết hắn đến để bắt tôi rồi”.
Phần thứ hai của đoạn trích, khi Phăng-tin đã biết rõ sự thật, Giăng Van-giăng cứ muốn nói nhỏ, nói riêng với Gia-ve. Giăng Van-giăng không phải sợ Gia-ve mà sợ người đàn bà xấu số không còn có thể sống được nữa.
Cho đến phần cuối của đoạn trích, Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin lúc ấy đã chết rồi. Người kế chuyện không rõ nhưng chúng ta đoán biết được ông đã thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu cô-dét cho chị về sau, Giăng Van-giăng đã thực hiện được lời hứa ấy.
Qua hai nhân vật Phăng-tin và Giăng Van-giăng, V. Huy-gô đã thể hiện tình thương của mình đối với những con người đau khổ, bất hạnh.
Hai tính cách trái ngược nhau của Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai đại diện đối lập giữa tình thương. Nếu Gia-ve luôn “hoài nghi” và có thái độ ngang ngưực, hống hách thì Giăng Van-giăng lại là một người đàn ông sống có trách nhiệm và luôn thường trực một tình thương cao cả đối với những người nghèo khổ, ở nhan vật Giăng Van-giăng, hiện hữu trong phẩm chất con người ấy là lẽ sống tình thương. Ông có một khát vọng muốn xua tan nồi đắng cay, oan trái ở những con người khốn khổ bẳng tình thương. Với một tâm hồn cao thượng như vậy, Giăng Van-giăng luôn cận kề bên cạnh bao cảnh sống cơ hàn. Lẽ sống của ông dã che chở và nâng clỡ bao cảnh đời tủi nhục. Đối với Giăng Van-giăng, tình người, tình đời thật lớn lao. Ông chính là đại diện của lẽ sống vì tình thương.
Tính cách ấy trái hẳn với Gia-ve, một kẻ không có tình người Với chức thanh tra, hắn luôn tác oai, tác quái và gây ra bao nhiêu hậu quả khốc liệt. Cái chết của bà Phăng-tin vì tuyệt vọng cũng do sự tàn nhẫn và thiếu lương tâm của Gia-ve mới tạo nên cơn giằng xé đến nỗi bà phải chết.
Trong đoạn trích, nhân vật Phăng-tin hiện lên là một người mẹ nghèo khổ, tình cảnh đến mức bi đát. Phăng-tin có con gái là Cô-đét nhưng số phận đã chia lìa hai mẹ con dẫn đến nỗi đau giằng xé trong cõi lòng người mẹ. Xuất hiện trong đoạn trích nhân vật Phăng-tin tỏ ra là một người ốm yếu và bao trùm lên tâm trạng là sự lo lắng cho sứ mệnh của mình và cuộc đời người con gái duy nhất. Đặc biệt, khi có mặt của Gia-ve, lời nói và hành động hiện lên nỗi nơm nớp lo sợ của một người phụ nữ yếu đuối.
Nhà văn đã miêu tả Phăng-tin trong cơn tuyệt vọng bằng những điệu bộ của một người sắp chết. Phăng-tin cố gắng chống chọi lại với tử thần vì còn chút sức mạnh của tình yêu thương mà người mẹ dành cho người con gái. Hoạt động cuối cùng của người đàn bà khốn khổ ấy gây xúc động mạnh đến trái tim người đọc và để lại ấn tượng thương xót khôn nguôi. Có được ấn tượng ẩy là vì tác giả đã khắc họa nhân vật bằng tài năng nghệ thuật của mình làm cho nhân vật hiện lên những nét cơ cực nhất ngay cà nhũng giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Vai trò của nhân vật Phăng-tin là góp phần làm cho cốt truyện thêm sâu sắc và hấp dẫn. Xuất phát từ số phận nghiệt ngã và oan trái của nhân vật này dã lôi kéo Giăng Van-giăĩỊg vào cuộc để rồi nội dung câu chuyện dần dần biến đổi, Giá như Phăng-tin khủng trở nên ốm yếu và bất lực tnrớc số phận thì chua hẳn đã có một Giăng Van-giăng hào phóng và giàu tình thương như vậy.. Đoạn trích thổ hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Bằng việc khắc họa các hình tượng nhân vật, tác giả muốn gửi tới người đọc thông diệp của lẽ sồng tình thương. Nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho lẽ sống ấy, qua đó thể hiên thái độ phê phán những thế lực đã ngăn chặn và đè nén khát vọng sống cao quý của con người. – Phăng tin đã chết rồi,vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí. Nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà Xem-pli (bà là người không bao giờ biết nói (dối). Kết hợp với chi tiết Giăng Van- giăng thì thầm bên tai Phăng-tin thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra.
Người chết mà khuôn mặt còn rạng rỡ, điều đó cũng vô lí. Nhưng người kể chuyện khi kể đến đây đã rất xúc động trước tình cảm của Giăng van-giăng đối với Phăng-tin, tường chừng thấy khuôn măt người chết rạng rỡ hẳn lên. Đấy cũng là một ảo tưởng có thế có thật. Nhà văn đã xây dựng chi tiết này với ngòi bút hết sức lãng mạn.
Qua câu chuyện đầy éo le, oan trái với những tính cách trái ngược, nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp: Cuộc sống khi phải đối diện với những bất công và tuyệt vọng, con người có thể sưởi ấm và che-chở cho nhau bằng tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể đẩy lùi thế lực hắc ám của cường quyền và thắp lên niềm hi vọng tươi sáng ở tương lai.
Đề bài: Phân tích phần kết của đọan trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V. Huy-gô) từ “Giăng Van-giăng tì khuỷu tay” đến hết). Từ đó, nêu nhận xét về nghệ thuật lãng mạn.
Một không khí thiêng liêng được thể hiện qua sự im lặng gần như tuyệt đối của không gian căn phòng nơi Phăng tin chết. Đồng thời sự thiêng liêng đó cũng được thể hiện qua các hành vi của Giăng Van-giăng trong tư thế ngồi, nét mặt, dáng điệu. Ngay cả Gia-ve cũng không dám làm gì khi đó và bà xơ Xem- pli-xơ cũng chỉ là chứng nhân bất động. Mọi hoạt động lúc đó gắn liền với Giăng Van-giăng, song cũng không ồn ào mà hết sức lặng lẽ, ngay cả khi nói với người đã chết thì âm thanh ở đây cũng chỉ đủ mức cho hai người nghe, cũng chỉ là “thì thầm”.
Đây là một kiểu không gian đặc trưng khác thường mà nghệ thuật lãng mạn thường quan tâm khai thác và xây dựng.
Cái đẹp phi thường được thể hiện qua lời kể của nhà văn:
Các câu hỏi liên tiếp được đưa ra đầy nghi vấn, song không hề có chút gì mỉa mai. Các câu hỏi đó đều được giải đáp bằng chi tiết bà xơ Xem-pli-xơ, “người độc nhất chứng kiến ấy”, là người đã trông thấy “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt”.
Có thể coi đây là một thực tế vô lí. Song, tác giả đã nhấn mạnh là bà xơ Xem- pli- xơ không bao giờ biết nói dối, bà chỉ nói sự thật, sự thật của mắt thấy tai nghe.
Đọc câu văn “Có những ảo tưởng cảm động, có thể là những sự thực cao cả”, ta thấy đưa ra cách lí giải hợp lí ở đây. Cần chú ý là không chỉ có nụ cười trên môi mà còn có cả nụ cười “trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng” của Phăng-tin nữa. Tất nhiên đây là đôi mắt của người đã chết, song trong không gian thiêng liêng ấy, qua cách nhìn của bà xơ, cái ảo tưởng này có thể giải thích được.
Các hành vi mà Giăng Van-giăng thực hiện đối với người đã khuất:
Các động tác sửa soạn lại tư thế cuối cùng cho Phăng-tin của Giăng Van-giăng. So sánh các động tác ấy với động tác của người mẹ chăm con, người đọc hiểu thêm tình người sâu sắc của ông. Các động tác của Giăng Van-giăng chậm rãi, không gấp gáp mà tuần tự để đi tới động tác cuối cùng: “Rồi ông vuốt mắt cho chị”. Điều gì đã xảy ra? “Lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
Đây cũng là biểu hiện độc đáo của nghệ thuật lãng mạn, hướng tới cái khác thường, phi thường trong hoàn cảnh khác thường.
Động tác Giăng Van-giăng quỳ xuống trước bàn tay buông thõng ngoài giường của Phăng-tin cũng rất đặc biệt: Giăng Van-giăng quỳ trước bàn tay người phụ nữ vốn đã phải làm cái nghệ bán thân nuôi miệng ấy ta thấy sự khác biệt giữa hai cách nhìn về con người này: một của Giăng Van-giăng, một của Gia-ve. Và từ đó ta thấy rõ tình cảm nhân đạo, tình người bao la của tác giả. Các động tác ở đây cũng nhẹ nhàng, tình cảm và tuần tự. Động tác cuối cùng của Giăng Van-giăng là đặt vào bàn tay ấy “một nụ hôn”.
Đọc câu văn sau đây, ta hiểu thêm quan niệm của tác giả về cái chết: “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại”. Đây cũng là một cách nhìn lãng mạn, không giống như quan niệm bình thường, thể hiện niềm tin bất diệt vào thế giới cái thiện. Cái thiện bao giờ cũng gắn với ánh sáng, cái ác bao giờ cũng gắn với bóng tối.
Đề bài: Phân tích Người cầm quyền khôi phục uy quyền
Vích-to-Huy-gô nhà thơ, nhà văn nở rộ và soi rọi cho nền văn học Pháp từ đầu thế kỉ XIX cho đến nay. Ông có thể được coi là chủ soái của thể loại tiểu thuyết với tác phẩm nổi tiếng là “Những người khốn khổ” thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả. Tiêu biểu hơn hết là đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc chạm trán căng thẳng giữa tên tội phạm Giăng Van-giăng và thanh tra mật thám Gia-ve. Đoạn trích đày kịch tính khi Huy-gô đặt hai nhân vật ở tư thế đối đầu nhau, qua đó tác giả muốn gửi gắm thông điệp về sức mạnh của tình thương trong cuộc sống. “Những người khốn khổ” là tác phẩm để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về những mảnh đời vất vả, cơ cực. Nhân vật chính là Giăng Van-giăng vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho bảy đứa nhỏ mà bị tù đày, khổ sai. Ra tù anh bị mọi người xua đuổi, trừ giám mục Mi-ri-en, ông đã cảm hóa được Giăng Van-giăng bằng tình thương. Về sau Giăng Van-Giăng đổi tên họ là Ma-đơ-len trở thành thị trưởng, chủ nhà máy và đã cứu vớt được Phăng-tin_người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên tên thanh tra Gia-ve truy ra gốc tích ngày xưa, cuộc đời ông lại rơi vào cảnh tù tội, không lâu sau ông lại vượt ngục và thay tên đổi họ nhiều lần. Khi chính quyền tư sản Pháp quá hung ác, tàn bạo nhân dân phải nổi dậy đấu tranh, Giăng Van-giăng cũng tham gia, bấy giờ ông gặp lại Gia-ve khi hắn bị quân cách mạng kết án tử hình, ông đã nhận đem đi xử bắn nhưng lại tha chết cho hắn, khi trở lại bắt Giăng Van-giăng ông chỉ xin đưa Ma-ri-uýt trở về nhà rồi nộp mạng khiến cho Gia-ve bị mất phương hướng trước tấm lòng, nghĩa khí của Giăng Van-giăng mà nhảy sông Xen tự tử. Giăng Van-giăng thực hiện lời hứa với Phăng-tin tìm lại đứa con gái và lẳng lặng vun đắp hạnh phúc cho Cô-dét còn mình thì sống và chết trong cô độc với tình thương bao la dành cho mọi người. Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc chạm chán căng thẳng giữa Giăng Van-giăng và Gia-ve khi tên thanh tra mật thám này truy ra gốc tích của ông thị trưởng nên đến bắt ông để thị uy dân chúng. Hai con người đại diện cho cái thiện và cái ác được Huy-gô đặt trên cùng một mặt phẳng để cùng làm nổi bật cho bản chất của nhau. Ta tưởng chừng như người cầm quyền ở đây là Gia-ve nhưng ngược lại đó là Giăng Van-giăng khi anh bị dồn đến đường cùng, khi Phăng-tin bị sốc mà chết anh buộc phải chống đối lại mệnh lệnh của tên thanh tra mà khô phục lại uy quyền của mình khiến hắn phải run sợ. Đoạn trích thành công bởi nghệ thuật tương phản, đối lập được sử dụng rất đặc sắc. Nhân vật Gia-ve được Huy-gô khắc họa bởi nghệ thuật so sánh phóng đại bằng cách dùng một loạt các chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ đó là hình tượng của con mãnh thú độc ác. Gương mặt hắn với cái trán gồ cao, cặp mắt diều hâu sâu hoắm, cằm bạnh mũi hếch… Hình dáng hán hiện lên như một con quái vật chứ không phải là con người. Hành động của hắn được tả lại bằng những câu văn dành cho thú dữ như lời hắn thét “Mau lên” với lời nình của tác giả “Trong cái điệu hắn nói lên hai tiếng ấy có cái gì đó man rợ và điên cuồng. Không còn lá tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. “Hắn phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt” sau đó hắn mới lao tới con mồi “tiến vào giữa phòng” và cắn ngoạm cổ địch thủ “nắm lấy cổ áo ông thị trưởng”. Khi hắn cười phá lên với cái cười ghê tởm phô ra tất cá hai hàm răng. Gia-ve hiện lên đúng là một con mãnh thú hung tợn, ghê sợ con người hắn chỉ có quát nạt, thị uy và ức hiếp người khác. Hắn chính là kẻ đại diện cho chính quyề, pháp luật nước Pháp lúc bấy giờ. Những người làm quan chức đáng lẽ phải gần gũi, yêu thương nhân dân thì ngược lại là ức hiếp dân lành, hắn không cho Giăng Van-giăng có cơ hội được giải thích, hắn cũng nhẫn tâm chà đạp lên niềm tin, hy vọng cuối cùng của Phăng-tin và cuối cùng hắn cũng chẳng chút thương tiếc hay hối lỗi khi đã gây ra cái chết cho người đàn bà bất hạnh ấy. Con người ấy mất hết lòng nhân đạo và yêu thương con người. Trái lại với hình tượng nhân vật Gia-ve, ở nhân vật Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một chi tiết nào quy chiếu về ẩn dụ mà ngược lại đó là những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động được Huy-gô sử dụng để khắc họa chân dung và bản chất lương thiện, thương yêu con người của Giăng Văn-giăng. Trước tiên Giăng Van-giăng được hiện lên qua lời nói của Phăng-tin, đối với cô ông như một đấng cứu thế cứu vớt cô qua những ngày khó khăn, giúp đỡ cô lúc hoạn nạn và cũng là niềm tin, niềm hy vọng của cô về việc tìm và chuộc lại cô con gái cho cô. Giăng Van-giăng luôn nhẹ nhàng và dịu giọng với cô ngay cả với Gia-ve khi hắn đang rất hống hách mục đích cuối cùng cũng là chấn an và muốn cứu vớt chị ra khỏi cơn nguy kịch khi bệnh tình ập đến. Sẽ xảy ra chuyện gì ngay sau đó nếu thay câu nói “Tôi biết là anh muốn gì rồi” bằng câu “Tôi biết anh đến bắt tôi” có lẽ rằng ngay lúc ấy Phăng-tin sẽ đột tử mất không nói được một lời và không một tia hi vọng. Giăng Van-giăng vẫn cố gắng nhún nhường, hạ giọng với Gia-ve, thậm chí là cầu xin hắn “Tôi cầu xin ông một điều…” để tìm lại đứa con cho Phăng-tin rồi bản thân mình chấp nhận bị trừng phạt và phải trả giá như thế nào cũng chấp nhận. Giăng Van-giăng là một con người rất trọng chữ tín và sẵn sàng hy sinh thân mình vì người khác. Gia-ve cũng không coi thường ông mà “Hắn coi Giăng Van-giăng như một địch thủ bí hiểm và không sao bắt được, một đô vật lạ lùng hắn ôm nghì mấy năm mà không thể quật ngã” nên lấn này có cơ hội hắn nhất quyết không để ông chạy thoát khỏi tay mình, nên tìm mọi cách để bắt cho bằng được Giăng Van-giăng. Tưởng chừng như người cầm quyền ở đây là Gia-ve bởi hắn là kẻ đại diện cho chính quyền lúc bấy giờ thi hành pháp luật còn Giăng Van- giăng tên tội phạm bị truy nã nhưng chính ông mới là người cầm quyền và được khôi phục lại uy quyền ở giây phút này. Phăng-tin đã bị Gia-ve khiến cho đột tử, trong lúc ấy hắn lại một mực muốn bắt Giăng Van-giăng đi, sự uất ức kìm nén trước giờ đã trỗi dậy và được minh chứng bằng hành động mạnh mẽ, dứt khoát ngay sau đó “Giăng Van-giăng đi tới, giật gãy trong chớp mắt trong chiếc giường cũ nát…ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng” khiến hắn run sợ, lùi ra về phía cửa. Rõ ràng trong giờ phút này người có uy, có quyền là Giăng Van-giăng chứ không phải là Gia-ve. Tình thế, uy thế, quyền thế bị đảo lộn ngược lại khiến cho ta nhớ đến cảnh cho chữ trng tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân khi đối lập giữa tâm thế, tư thế giữa người tử tù và quan coi ngục. Đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn về cuộc chạm mặt giữa cái ác và cái thiện.Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái các_đó là quy luật của sự tồn tại trong xã hội. Giăng Van-giăng còn được hiện lên với những phẩm chất đáng quý qua lời miêu tả trực tiếp của nhà văn. Không biết khi Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích ấy ông đã nói gì với chị mà “rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Giăng Van-giăng hiện lên như một vị cứu tinh cao cả khiến cho Phăng-tin cũng an tâm nhắm mắt xuôi tay để gương mặt chị “sáng rỡ lên một cách lạ thường”. Lời bình luận của tác giả xuất hiện dồn dập ở đoạn văn đã làm cho hình tượng Giăng Van-giăng thật lãng mạn mà phi thường biết bao. Đó chính là cái tài của ngòi bút sắc sảo được thể hiện. Giăng Van-giăng trước sau năm lần bảy lượt hành động của ông cũng chỉ vì tình thương và lòng thương yêu con người mà vướng phải vòng lao lí khổ ải, những kẻ nắm quyền trong tay lại hách dịch với dân thay vì chăm lo và động viên nhân dân. Tuy nhiên cái thiện luôn chiến thắng cái ác dù ở trong bất kì hoàn cảnh nào. Đoạn trích đã khép lại với bút pháp lãng mạn của Vic-to-Huy-gô nhưng lại mở ra cho người đọc một thông điệp ý nghĩa: “Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai”. Tác phẩm nhắc nhở ta về trách nhiệm, thiên lương của người làm nhiệm vụ cầm cân nảy mực, đem lại công lí công bằng cho xã hội từ trước đến nay ý nghĩa ấy chưa bao giờ bị thời gian bào mòn.
V.Huy-gô là một con người đa tài, ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch,… ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm xuất sắc. Tuy xuất thân từ gia đình hoàng tộc nhưng bản thân ông lại luôn đứng về phía nhân dân, chống lại chính quyền phong kiến. Những người khốn khổ là tác phẩm làm nên tên tuổi của ông, vinh danh ông là người bạn chuyên viết về những người khốn cùng trong xã hội. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là trích đoạn ngắn nhưng cung bộc lộ đầy đủ bút pháp lãng mạn, cũng như tư tưởng nhân văn cao cả của V.Huy-gô.
Đoạn trích thuộc chương IV, quyển 8 phần I, đây là trích đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sau khi ra khỏi tù, nhận được sự giúp đỡ từ giám mục, Giăng Van-giăng đã trở thành một con người lương thiện, ông đổi tên thành Ma-đơ-len giúp đỡ mọi người có công ăn việc làm, bản thân được yêu quý và được bầu làm thị trưởng. Bản tính lương thiện, khiến ông không thể để mặc cho Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan nên ông quyết định ra đầu thú, thú nhận chính mình là Giăng Van-giăng. Đoạn trích là cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa thiện và ác, giữa Giăng Van-giăng và tên ác thú Gia-ve.
Đoạn trích có nhan đề “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” vậy ở đây ai là người cầm quyền và khôi phục uy quyền. Gia-ve vốn là tay sai, là kẻ cầm quyền đi thực thi pháp luật. Còn Giăng Van-giăng lại là người tù khổ sai, phải phục tùng Gia-ve. Nhưng trong cuộc chạm trán giữa cái thiện và cái ác, Gia-ve đã phải sợ hãi, nhún nhường trước cái Thiện – Giăng Van-giăng. Cái thiện khôi phục uy quyền của mình, qua đó tác giả đã khẳng định và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Gia-ve hiện lên mang diện mạo của một con ác thú, bộ mặt gớm giếc, nhìn vào hắn có cảm tưởng như không thể chịu đựng được, người muốn lịm đi. Giọng điệu cộc lốc, thô lỗ, không chỉ vậy còn man rợ khi hắn điên cuồng hét lên, dường như ta không thể phân biệt đó là tiếng người hay tiếng thú. Ánh nhìn của hắn cũng làm người ta sởn gai ốc, nó tựa như một cái móc sắt. Nụ cười ghê tởm, phô ra hai hàm răng gớm giếc. Qua những nét phác họa hết sức điển hình, đã cho người đọc một hình dung chân thật về chân dung “quái thú” Gia-ve. Ở hắn, chỉ duy nhất có một hành động khiến người ta vẫn biết hắn là người chính là hành động hút thuốc. Ở đây V.Huy-gô đã sử dụng bút pháp tả thực để lột tả một cách chân thực đầy đủ nhất diện mạo của Gia-ve.
Không chỉ gớm giếc trong nhân hình mà hắn còn độc ác, man rợ trong nhân tính, trong cách hành xử với người khác. Trước người bị bệnh hắn ta không hề quan tâm đến sức khỏe của họ, mà vẫn ra sức quát tháo, khiến ai nấy đều khiếp sợ, giọng điệu hằn học, ngang ngược: “Giờ lại đến lượt con này”… Không dừng lại ở đó hắn còn nói ngay sự thật về Cô-dét và ông thị trưởng khiến cho chị Phăng-tin bị một cú sốc lớn về mặt tinh thần. Chính những lời nói, hành động không chút nhân tính của Gia-ve đã dẫn đến cái chết đầy thương tâm của Phăng-tin. Dù vậy hắn vẫn không mảy may xót thương, vẫn lạnh lùng thực thi nhiệm vu, không hề động lòng thương cảm, “đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự”. Gia-ve mang trong mình bản tính tàn nhẫn, như một con ác thú. Đối với hắn trong xã hội chỉ có hai loại người có tội và không có tội, hắn là một công chức mẫn cán, thực hiện mọi chỉ thị của bọn tư sản. Và chính từ đó đã sản sinh ra một con quái thú đội lốt người mang tên Gia-ve.
Trái ngược lại với Gia-ve, lại là một Giăng Van-giăng sống trách nhiệm và đầy tình yêu thương đối với mọi người xung quanh. Trước khi chị Phăng-tin qua đời, ông vô cùng nhẹ nhàng, nhún nhường trước những lời lẽ cũng như hành động của Gia-ve đối với mình. Khi Ga-ve nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng, ông chỉ kính cẩn nói với Gia-ve: “Thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này”. Lời lẽ hết sức nhún nhường, miễn sao để không bị ảnh hưởng đến người bị bệnh. Lời lẽ với chị Phăng-tin cũng rất nhẹ nhàng, tinh tế, tránh để cho Phăng-tin biết sự thật: “Tôi biết anh muốn gì rồi”. Mọi lời lẽ, hành động nhún nhường đó tất cả đều là vì Phăng-tin, ông không muốn cô gái đó đang sống trong mong manh hi vọng lại bị dập tắt bởi thực tế phũ phàng. Trong giây phút nguy hiểm đến tính mạng bản thân ông vẫn không màng, vẫn chỉ một mực suy nghĩ cho những người xung quanh mình.
Khi Phăng-tin tắt thở, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ven đã thay đổi hẳn, đó là sự cương quyết, dứt khoát: “anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó” và cảnh cáo Gia-ve: “Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Thái độ đó là bởi tình thương, sự xót xa dành cho Phăng-tin quá lớn. Ông dùng mọi cách, kể cả đối đầu với Gia-ve để được nán lại ít phút bên Phăng-tin tạm biệt người phụ nữ với số mệnh đây đau khổ, bất hành. Ông vuốt mắt cho chị, gương mặt “Phăng –tin như rạng rỡ lên một cách lạ thường”. Tình yêu thương của Giăng Van-giăng khiến cho tất cả mọi người đều phải cảm mến, kính phúc. Và sau giây phút đó, Giăng Van-giăng chủ động, bình tĩnh nói “Giờ thì tôi thuộc về anh”. Thái độ hết sức hiên ngang, chủ động, ung dung.
Đoạn trích đã sử dụng nghệ thuật so sánh, đối lập tài tình, đó là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, cái nhân văn với cái thấp hèn, qua đó làm nổi bật tư tưởng, chủ để của tác phẩm. Bút pháp lãng mạn được vận dụng tài tình, đặc biệt là qua hình ảnh nụ cười rạng rỡ nở trên môi Phăng-tin ngay khi chị đã qua đời. Đan xen trong lời kể là những lời bình luận ngoại đề, bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của người viết, đây cũng là một cách định hướng cho người đọc.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền, đã tái hiện chân thực cuộc đối đầu đầy gay go giữa cái thiện và cái ác. Đồng thời qua đó đã gửi gắm thông điệp đầy ý nghĩa: Lòng nhân ái, tình yêu thương con người có thể giúp ta vượt qua mọi trở ngại, khó khăn , đem đến ánh sáng hi vọng cho tương lai. Tác phẩm cho thấy giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả của tác giả.
Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là nhà thơ, nhà văn lãng mạn lớn của nước Pháp thế kỉ XIX, được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Trong suốt cuộc đời, ông nhiệt tình tham gia những hoạt động chính trị và xã hội vì sự tiến bộ của con người. Những tác phẩm tiêu biểu của V. Huy-gô: Tiểu thuyết: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chin mươi ba (1874)… Thơ : về phương Đông (1829), Lá thu (1831), Ánh sáng và bóng tối (1840), Trừng phạt (1853)… Trong đó, Những người khốn khổ (1862) là tác phẩm nổi tiếng nhất.
Bối cảnh câu chuyện là xã hội tư sản Pháp trong những năm đầu thế kỉ XIX. Nhân vật chính là Giăng Van-giăng – một người thợ làm vườn nghèo khổ vì đập vỡ tủ kính lấy cắp một chiếc bánh mì để nuôi đàn cháu mồ côi nên bị tòa án xử và kết tội mười chín năm tù khổ sai. Sau khi ra tù, nhờ sự cảm hóa của giám mục Mi-ri-en nhân từ nên Giăng Van-giăng đã trở thành người tốt. ông đổi tên là Ma-đơ-len, mở nhà máy và dần dần trở nên giàu có. Ông luôn giúp đỡ mọi người nên được cử làm thị trưởng một thành phố nhỏ. Tên thanh tra mật thám Gia-ve luôn luôn nghi ngờ, rình mò theo dõi ông. Phăng- tin là một phụ nữ xinh đẹp nhưng bất hạnh, làm thợ trong xưởng máy của Ma-đơ-len. Vì có con hoang nên chị bị mụ giám thị sa thải. Cùng đường, Phăng-tin đành phải gửi con cho vợ chồng tên lưu manh Tê-nác-đi-ê, rồi chấp nhận làm gái điếm để lấy tiền nuôi thân và nuôi con. Chị bị Gia-ve bắt bỏ tù, nhờ có ông Ma-đơ-len can thiệp mới thoát nạn, rồi lại được ông đưa vào nằm ở bệnh xá. Đang lúc hết lòng cứu giúp Phăng-tin thì thị trưởng Ma-đơ-lẹn lại quyết định ra tòa tự thú mình là Giăng Van-giăng để cứu Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan. Ông chấp nhận vào tù rồi vượt ngục để thực hiện lời hứa với Phăng- tin lúc chị qua đời. Giăng Van-giăng tìm đến nhà Tê-nác-đi-ê, chuộc bé Cô- dét đang phải sống khổ sở rồi đưa lên Pari, sống lẩn trốn nhiều năm. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại chính quyền tư sản nổ ra ở Pa-ri vào tháng sáu năm 1832 được nhà văn miêu tả rất hào hùng với nhiều hình tượng đẹp như chàng sinh viên Ăng-giôn-rát, cụ già Ma-bớp, chú bé Ga-vơ- rốt… Giăng Van-giăng cũng có mặt trên chiến luỹ. Ông đã cứu sống Ma-ri- uýt, người yêu của Cô-dét và bắt được Gia-ve trong lúc hắn đang do thám. Vốn là người nhân hậu và cao thượng, ông đã tha chết cho hắn. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình yêu của Ma-ri-uýt với Cô- dét, còn mình thì sống và chết trong cảnh cô đơn.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là một đoạn trích nhưng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy-gô và mang dấu ấn đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Nội dung đoạn trích phản ánh sự đối lập giữa cái Ác và cái Thiện, giữa cường quyền và nạn nhân. Qua đó, nhà văn phê phán cường quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo tốt đẹp. Lí tưởng nhân đạo của Huy-gô được tập trung thể hiện qua hình tượng nhân vật lãng mạn Giăng Van-giăng với quan niệm: Tất cả mâu thuẫn và bất công xã hội đều có thể giải quyết bằng tình thương. Tuy giải pháp tình thương ấy nhuốm màu ảo tưởng vì không có tính giai cấp nhưng nó vẫn có tác dụng bồi đắp tình cảm và lẽ sống tốt đẹp cho con người.
Đoạn văn có một vị trí và vai trò đặc biệt trong chuỗi sự kiện về cuộc đời của nhân vật trung tâm. Lần đầu tiên, ông thị trưởng Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng) buộc phải xuất đầu lộ diện đã chọn giải pháp quyết liệt để đối phó với cường quyền và tìm lối thoát. Nếu trong Những người khốn khổ, Huy- gô nhiều lần miêu tả cuộc đối đầu gay gắt giữa Thiện và Ác thì đoạn trích này có thể coi là pha mở đầu đầy kịch tính.
Lâu nay, tên thanh tra mật thám Gia-ve tuy ngoài mặt vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng Ma-đơ-len, nhưng trong thâm tâm hắn vẫn nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng đã thay tên đổi họ. Giờ đây, Giăng Van-giăng đã thú nhận tên thật của mình trước tòa nên Gia-ve lập tức khôi phục uy quyền của hắn vì hắn luôn cho rằng mình là đại diện của luật pháp, của chính quyền. Thực ra, hắn chỉ là một tên tay sai mà thôi. Như vậy, ta có thể nghĩ người cầm quyền là nhân vật Gia-ve. Nhưng xét theo diễn biến câu chuyện thì chi tiết tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van- giăng bỗng phải nem nép nghe theo lệnh ông thì người khôi phục uy quyền lại chính là thị trưởng Ma-đơ-len, tức Giăng Van-giăng.
Bố cục đoạn trích gồm ba phần:
Phần một: Từ đầu đến… Chị rùng mình: Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng) chưa mất hẳn uy quyền của một ông thị trưởng.
Phần hai: Tiếp theo đến… Phăng-tin đã tắt thở: Thị trưởng Ma-đơ-len đã mất hết uy quyền trước tên thanh tra mật thám Gia-ve.
Phần còn lại: Thị trưởng Ma-đơ-len khôi phục uy quyền của mình.
Tính cách các nhân vật được Huy-gô dùng nghệ thuật phóng đại trong ẩn dụ và nghệ thuật tương phản để miêu tả. Gia-ve tiêu biểu cho hạng người độc ác. Đối lập với Gia-ve, Giăng Van-giăng là hình ảnh của một vị cứu tinh nhân đức.
Nhà văn có dụng ý miêu tả tên mật thám Gia-ve như một con ác thú sắp vồ mồi. Ấn tượng đầu tiên của người đọc về Gia-ve là tiếng thét Mau lên! hống hách và đắc thắng của kẻ tiểu nhân thị oai. Tác giả bình luận: Trong cái điệu hắn nói lớn hai tiếng ấy có cái gì man rợ và điên cuồng… Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm. Hắn vừa gầm lên vừa như muốn thôi miên con mồi nên cứ đứng một chỗ, phóng vào con mồi cặp mắt nhìn như cái móc sắt. Sau đó, hắn lao tới túm lấy cổ áo Giăng Van-giăng rồi phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng. Thái độ khinh bi và căm ghét của tác giả bộc lộ rõ qua từng chi tiết, hình ảnh và từ ngữ vô cùng chính xác, đồng thời giúp người đọc tưởng tượng ra chân dung quái dị của tên mật thám Gia-ve.
Tác giả còn làm nổi bật sự tàn độc của con ác thú đội lốt người này qua thái độ và cách xử sự của hắn trước người bệnh. Hắn chẳng thèm quan tâm đến Phăng-tin đang hấp hối mà cứ quát tháo ầm ĩ, láo xược ra lệnh cho Giăng Van-giăng (tức ông thị trưởng Ma-đơ-len): Thế nào! Mày có đi không ?
Lúc này, Phăng-tin vẫn hi vọng rằng nếu ông thị trưởng còn ở đây thì mình sẽ được gặp con; nhưng Gia-ve đã nhẫn tâm dập tắt tia hi vọng ấy bằng lời tuyên bố trắng trợn: Ở đây làm gì còn có ông thị trưởng nữa. Hắn chẳng cần biết đến chuyện Phăng-tin chỉ còn bấu víu vào cuộc sống bằng niềm tin là ông thị trưởng đã chuộc được Cô-dét, đứa con yêu quý về cho chị. Hắn cố tình tỏ thái độ trịnh thượng và nói rất lớn với ông thị trưởng Ma- đơ-len tức Giăng Van-giăng cốt để cho Phăng-tin nghe thấy: Mày nói giỡn I … Chà chà ! Tao không ngờ mày lại ngốc thế! Mày xin tao ba ngày để chuồn hả! Mày bảo là để đi tìm đứa con cho con đĩ kia! Á à Ị Tốt thật ! Tốt thật đấy! Câu nói đáng sợ của hắn khiến cho Phăng-tin tuyệt vọng, run lên bận bật.
Thế giới nội tâm của con ác thú Gia-ve còn bộc lộ qua thái độ và cách ứng xử của hắn trước nỗi đau chia lìa của tình mẫu tử. Trước nỗi đau ấy, ai cũng phải mủi lòng, riêng Gia-ve vẫn lòng lim dạ đá. Hắn tỏ ra giận giữ điên cuồng khi nghe tiếng kêu thảm thiết của Phăng-tin: Con tôi!… Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây ! Bà xơ ơi! Cho tôi biết con Cô-dét đâu. Tồi muốn con tôi! Ông Ma-đơ-len ơi! Ông thị trưởng ơi! Hắn hùng hổ quát nạt: Giờ lại đến lượt con này Ị Đồ khỉ có câm họng đi không ? Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng Ị Nhưng này ! Sẽ thay đổi hết; đã đến lúc rồi đấy !
V. Huy-gô tô đậm tính cách độc ác của Gia-ve bằng thái độ lạnh lùng đến tàn nhẫn của hắn trước cái chết của Phăng-tin. Nếu còn một chút lương tâm một chút tình người thì hắn phải biết giữ im lặng để tỏ ra tôn trọng người vừa chết, chứ không thể tiếp tục quát tháo Giăng Van-giăng: Đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự. Dẹp những cái đó lại. Lính tráng đang ở dưới nhà. Đi ngay, không thì cùm tay lại ! Rõ ràng, tên mật thám Gia-ve đã mất hết tính người.
Đối lập với tên mật thám Gia-ve hung ác là Giăng Van-giăng có tình thương bao la, sâu sắc đối với đồng loại, ông là hình tượng đáng kính của một vị cứu tinh, một nhân vật lãng mạn điển hình. Giăng Van-giăng không quan tâm đến việc Gia-ve đến bắt mình. Điều mà ông quan tâm lúc này là lo lắng, chăm sóc và dồn tất cả tình thương cho người đàn bà khốn khổ Phăng- tin. Tưởng là Gia-ve lại đến bắt mình nên Phăng-tin sợ hãi kêu cứu : Ông Ma- đơ-len, cứu tôi với ! Để cho Phăng-tin yên tâm, Giăng Van-giăng điềm tĩnh, nhẹ nhàng nói với chị: Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu. Rồi ông quay sang nói với Gia-ve: Tôi biết là anh muốn gì rồi. Câu nói ấy chứng tỏ ông biết hắn đến để bắt ông. Tác giả đã thể hiện sự tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và Gia-ve. Tất cả đều nhằm mục đích níu giữ sự sống của Phăng-tin.
Giăng Van-giăng hiểu rằng Cô-dét là tất cả tình yêu, là cuộc sống của Phăng-tin nên ông đành hạ mình năn ni Gia-ve: Xin ông thư cho ba ngày! Ba ngày để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu muốn, ông cứ đi kèm tôi cũng được. Tấm lòng cảm thông sâu sắc của Giăng Van-giăng trước một số phận đáng thương khiến người đọc cũng bùi ngùi cảm động. Hành động của Giăng Van-giăng là nghĩa cử đẹp đẽ đáng trân trọng, là sự tỏa sáng của tinh thần nhân văn cao cả.
Giăng Van-giăng càng nhún mình bao nhiêu thì Gia-ve lại càng kiêu căng, hống hách bấy nhiêu: Hắn nhìn Phăng-tin trừng trừng, lại túm một túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Van-giăng, nói thêm: Tao đã bảo không có ông Ma- đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chĩ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng! Tao bắt được nó đây này! Chỉ có thế thôi! Phăng-tin đã chứng kiến những hành động và lời nói thô lỗ, láo xược của Gia-ve nên chị hiểu rằng ông thị trưởng Ma-đơ-len không còn là chỗ dựa vững chắc của mình được nữa. Chị thực sự chới với trong nỗi đau khổ và tuyệt vọng.
Đoạn văn miêu tả cảnh Phăng-tin tắt thở chân thực và cảm động: Phăng- tin chống hai bàn tay và hai cánh tay cứng đơ vùng nhổm dậy, chị nhìn Giăng Van-giăng, chị nhìn Gia-ve, chị nhìn bà xơ, chị há miệng như muốn nói, từ trong họng thốt ra tiếng rên, răng đánh vào nhau cầm cập, chị hoảng hốt giơ tay lên, hai bàn tay cố sức mở ra tìm chỗ bám như người rơi xuống nước đang chới với, rồi chị bỗng ngã vật xuống gối. Đầu chị đập vào thành giường rồi ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ. Phăng-tin đã tắt thở. Đây cũng chính là thời khắc tính cách của Giăng Van-giăng chuyển biến đột ngột. Lúc Phăng-tin còn sống, ông cố kiềm chế lời nói và hành động của mình trước Gia-ve, nhưng khi Phăng-tin đã chết, ông vụt trở nên mạnh mẽ và dữ dội: Giăng Van-giăng để tay lên bàn tay Gia-ve đang túm lấy ông, cậy bàn tay ấy ra như cậy bàn tay trẻ con và bảo hắn: Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó. Tên mật thám Gia-ve không xứng là đối thủ của ông. Hắn phát khùng và doạ cùm tay ông. Hành động của Giăng Van-giăng thật bất ngờ và quyết liệt: Trong góc phòng có chiếc giường sắt cũ đã ọp ẹp, dùng để các bà xơ ngả lưng những hôm phải trực đêm. Giăng Van-giăng đi tới, giật gẫy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát, việc làm chẳng khó khăn gì đối với những cơ bắp như của ông, ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng, Gia-ve lùi ra phía cửa. Lúc này, người cầm quyền (thị trưởng Ma-đơ-len tức Giăng Van-giăng) đã khôi phục uy quyền và tên mật thám Gia-ve thực sự run sợ.
Tính cách của Giăng Van-giăng còn được tác giả miêu tả gián tiếp qua lời cầu cứu của Phăng-tin luôn hướng về ông: Con tôi! Chị kêu lên. Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây! Bà xơ ơi! Cho tôi biết con Cô-dét đâu. Tôi muốn con tôi! Ông Ma-đơ-len ơi! Ông thị trưởng ơi! Đồng thời được thể hiện qua chi tiết: Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy (cảnh Phăng-tin chết), thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết.
Phăng-tin đã tắt thở, vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà xơ Xem-pli-xơ người không bao giờ biết nói dối đã nhìn thấy tận mắt. Người chết không thể cười được nữa nhưng một người khác khi chứng kiến cảnh Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, lại xúc động và tưởng tượng ra rằng Phăng-tin vừa nở nụ cười, thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra. Một ảo tưởng cảm động trước một sự thực cao cả làm rung động sâu xa tâm hồn người đọc.
Tình thương yêu của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin thật chần thành và sâu sắc. Ông quên bẵng sự có mặt của tên mật thám Gia-ve, quên cả nguy cơ trước mắt: Giăng Van-giăng tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán, ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích, ông ngồi như thế, mải miết, yên lặng, rõ ràng chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa. Trong nét mặt và dáng điệu ông chỉ thấy một nỗi xót thương khôn tả. Mơ màng một lúc lâu, ông mới cúi ghé lại gần và thì thầm bên tai Phăng-tin.
Ông nói gì với chị ? Người đàn ông bị ruồng bỏ ấy có thể nói gì với người đàn bà đã chết? Những lời ấy là lời gì vậy? Chẳng ai trên thế gian này nghe được. Kẻ đã chết có nghe thấy không ?
Một loạt câu hỏi tu từ mà tác giả đặt ra trong đoạn văn này tác động rất mạnh đến tình cảm của người đọc. Phăng-tin đã chết, vậy Giăng Van-giăng nói gì với chị ? Có thể là lời chia sẻ, sự ân hận, đau xót trước cái chết của người đàn bà tội nghiệp mà ông không thể giúp đỡ được gì. Cũng có thể là ông thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu Cô-dét và sau này, ông đã thực hiện bằng được lời hứa đó.
Miêu tả nhân vật Giăng Van-giăng trước cái chết của Phăng-tin, bút pháp lãng mạn đậm tính nhân văn của Huy-gô thực sự bay bổng:
Giăng Van-giăng lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên, đặt ngay ngắn giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con. Ông thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải. Rồi ông vuốt mắt cho chị.
Lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường.
Đọc đoạn văn trên, người đọc cảm thấy một niềm xúc động thánh thiện đang lan toả tràn ngập tâm hồn mình. Phăng-tin đi vào cõi chết nhưng cũng chính là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại. Chị đã được giải thoát khỏi kiếp người khốn khổ để bước sang một thế giới vĩnh hằng tốt đẹp. Đây là sự chiến thắng của tinh thần nhân văn bất diệt và cũng là ý tưởng đẹp đẽ của chủ nghĩa lãng mạn Vích-to Huy-gô trong tác phẩm Những người khốn khổ.
Có thể coi đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một câu chuyện hoàn chỉnh và hấp dẫn. Sự lôi cuốn của nó không chi thể hiện ở bút pháp nghệ thuật tinh tế mà sức hấp dẫn của tác phẩm chủ yếu được tạo nên từ thế giới tình cảm đẹp đẽ cùng với lí tưởng tiến bộ mà nhà văn Huy-gô gửi gắm qua những trang viết đậm đà chất trữ tình? Qua câu chuyện đầy kịch tính với những hình tượng tương phản, Huy-gô muốn gửi tới bạn đọc thông điệp: Trong hoàn cảnh dù bất công và tuyệt vọng đến đâu thì con người chân chính vẫn có thể đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai bằng sức mạnh cảm hóa to lớn của tình thương yêu nhân loại.
Trong xã hội mà chúng ta đang sống hiện nay, những vấn đề về bạo lực và tình thương, những nỗi bất bình và khát vọng thay đổi cuộc sống vẫn được đặt ra. Vì vậy, lí tưởng lãng mạn của V. Huy-gô vẫn có ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng những tình cảm đẹp đẽ, những hành vi dũng cảm và cao thượng cho con người hiện đại. Giải pháp tình thương là rất cần thiết, nhưng chúng ta không thể thay đổi xã hội chỉ bằng tình thương yêu mà còn cần đến bạo lực cách mạng để trấn áp những bạo lực đen tối đày đọa con người. Có như vậy, chân lí Thiện thắng Ác mới có thể trở thành hiện thực.
Vích-to Huy-gô đã chứng kiến những biến- động lớn lao của nước Pháp gần suốt thế kỉ XIX. Ông đã dần trở thành “nhân vật trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ Pháp”. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, tiêu biểu là Những người khốn khổ. Đoạn trích Người cầm quyển khôi phục uy quyền trong cuốn tiếu thuyết bất hủ này của Huy-gô thể hiện tập trung cảm hứng phê phán và xót thương, phê phán sự tàn ác, vô nhân đạo và xót thương những con người khốn khổ.
Những người khốn khổ (1862) được thai nghén từ năm 1823, trải qua nhiều năm chuẩn bị cống phu, mãi đến ngày 21-5- 1X61 mới viết xong. Những bước thăng trầm của lịch sử đã tác động đến tư tưởng nhà văn trong cả quá trình hư cấu, xây dựng, sửa chữa. Bộ “tiểu thuyết nhân dân”, bản “anh hùng ca của những con người bình thường” này chỉ có thể hoàn thành vào thời kì nhà văn chiến đấu bất khuất vì Công lí, Tự do.
“Khi trên mặt đất, dốt nát và khốn khổ còn tồn tại, thì những quyển-sách như loại này còn có thể không phải là vô ích” (Huy-gô). Tác phẩm đã gợi lên lòng thương vô hạn những kẻ khốn cùng trong xã hội va cố gắng mở ra con đường giải quyết số phận của họ. Huy-gô đã khẳng định một điều là chỉ có những con người khốn khổ mới thật sự yêu thương nhau. Tiếng kêu thảm thương của những cháu bé đang đói lả thôi thúc Giăng Van-giăng phải đập vỡ kính lấy trộm miếng bánh-cho các cháu. Phăng-tin mất việc làm phải bán cả tóc lẫn răng để nuôi đứa con nhỏ. Van-giăng phải di cứu Sin-nia-chi-ơ khói nanh vuốt của tòa án. Họ quên mình vì nghĩa đến người khác. Tình mẹ con Phăng-tin – Cô-dét, tình cha con Van-giăng – Cô-dét, tình yêu của E-pô- nin và tình đồng chí của những con người ở xóm thợ Xanh Ăng-toan, Hơi mà “những nỗi nghèo khổ và cảm hờn ẩn náu”, những mối tình cao thượng ấy không phải ngẫu nhiêu mà chúng ta chỉ thấy ở những người khốn khổ, bất hạnh. Họ cần phải phản không lại trật tự xã hội bất công. Van-giăng phải vượt ngục, Phăng-tin phải kháng cự Gia-ve. Và cao hơn hết là phải cùng nhau đứng vé phía cách mạng, -một sống một chết với kẻ thù. Huy-gô đã khắc họa những gương mặt không phai mờ, những con người đau khổ nhìn về tương lai, sinh động hơn cả những người đang sống. Giá trị hiện thực chính là những con người đang sống thúc đẩy tác giả miêu tả.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một đoạn trích trong tiếu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. “Người cầm quyền” ở đây ứng với nhân vật Giăng Van-giăng hay Gia-ve ? Lâu nay, Gia-ve vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng, tuy có lúc nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng. Bây giờ, Giăng Van-giăng đã trở lại với tên họ thật cũa mình nên gã thanh tra mật thám “khôi phục” quyền hành của hắn. Như vậy có thể nghĩ “người cầm quyền” ứng với nhân vật Gia-ve. Nhưng xét riêng đoạn trích tiểu thuyết chiếm trọn vẹn mục này, tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van-giăng, bỗng phải nem nép nghe theo Giăng Van-giăng… thì ngựời “khôi phục uy quyền” chính là Giăng Van-giăng. Khả năng thứ hai có sức thuyết phục hơn.
Trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt là trong đoạn trích này, nhà văn có dụng ý miêu tả nhân vật Gia-ve như một loài cầm thú: Diện mạo “ác thú”, “chó dữ”, “cọp”,… chỉ “còn chút gần nhân loại” ở chỗ đôi lúc hút thuốc. Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động: thoạt tiên là tiếng thét “Mau lên !” với lời bình của người kế chuyện: “Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Hắn vừa gầm vừa như thôi miên con mồi, “cứ đứng lì một chỗ”, phóng vào con mồi “cặp mắt nhìn như cái móc sát”. Sau đó hắn mới lao tới phía con mồi, ngoạm lấy cổ con mồi (rúm lấy cổ áo), hắn đắc ý phá lên cười, nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.
Người kể chuyện cố ý khắc họa “thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người bệnh. Chẳng quan tâm tới người bệnh nặng là Phăng-tin, hắn cứ quát tháo trong bệnh xá. Chẳng cần biết Phăng-tin gần đất xa trời chỉ còn bấu víu vào cuộc sồng ở chỗ tưởng rằng ống Thị trưởng đã chuộc được Cô-dét về cho chị, hắn đã tàn nhẫn nói toạc ra: “mày nói giỡn ! Chà chà (…) tốt thật đấy. Nhưng còn ông thị trưởng thì chị vẫn hi vọng sẽ gặp được con. Hắn dập tắt nốt tia hi vọng cuối cùng của Phăng-tin bằng cách tuyên bố thảng thừng là ờ đây chẳng còn ai là ông thị trường nữa
“Thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước nồi đau của tình mẫu tử. Đã là người, ai đứng trước nỗi đau ấy chắc cũng phải mủi lòng. Gia-ve ngược lại, vẫn lòng lim dạ đá. Trước tiếng kêu tuyêt vọng của Phăng-tin , Gia-ve đã quát: “Giờ lại đến lượt con này…”
Trước người chết, Gia-ve không những không mảy may xúc động mà hắn vẫn tiếp tục quát: “Đừng có lôi thôi ! Tao không đến đây để nghe lí sự…”
Khắc họa nhân vật Gia-ve với bản tính cùa loài cầm thú,Vích-to Huy-gô muốn kịch liệt phê phán cái ác, sự vô nhân đạo đang có nguy cơ hoành hành trong xã hội.
Trái ngược với tính cách của Gia-ve là nhân vật Giăng Van-giăng. Nhà văn chú ý khắc họa những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và đối với Gia-ve, tất cả đều nhằm mục đích cứu vớt Phăng-tin trong lúc bệnh tình nguy kịch. Khi Gia-ve xuất hiện, ông biết hắn đến để bắt mình, nhưng nói thế nào đây để Phăng-tin yên tâm ? Sự thể sẽ ra sao nếu thay cho câu Tôi biết là anh muốn làm rồi” bằng câu “Tôi biết hắn đến để bắt tôi rồi”.
Phần thứ hai của đoạn trích, khi Phăng-tin đã biết rõ sự thật, Giăng Van-giăng cứ muốn nói nhỏ, nói riêng với Gia-ve. Giăng Van-giăng không phải sợ Gia-ve mà sợ người đàn bà xấu số không còn có thể sống được nữa.
Cho đến phần cuối của đoạn trích, Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin lúc ấy đã chết rồi. Người kế chuyện không rõ nhưng chúng ta đoán biết được ông đã thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu cô-dét cho chị về sau, Giăng Van-giăng đã thực hiện được lời hứa ấy.
Qua hai nhân vật Phăng-tin và Giăng Van-giăng, V. Huy-gô đã thể hiện tình thương của mình đối với những con người đau khổ, bất hạnh.
Hai tính cách trái ngược nhau của Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai đại diện đối lập giữa tình thương. Nếu Gia-ve luôn “hoài nghi” và có thái độ ngang ngưực, hống hách thì Giăng Van-giăng lại là một người đàn ông sống có trách nhiệm và luôn thường trực một tình thương cao cả đối với những người nghèo khổ, ở nhan vật Giăng Van-giăng, hiện hữu trong phẩm chất con người ấy là lẽ sống tình thương. Ông có một khát vọng muốn xua tan nồi đắng cay, oan trái ở những con người khốn khổ bẳng tình thương. Với một tâm hồn cao thượng như vậy, Giăng Van-giăng luôn cận kề bên cạnh bao cảnh sống cơ hàn. Lẽ sống của ông dã che chở và nâng clỡ bao cảnh đời tủi nhục. Đối với Giăng Van-giăng, tình người, tình đời thật lớn lao. Ông chính là đại diện của lẽ sống vì tình thương.
Tính cách ấy trái hẳn với Gia-ve, một kẻ không có tình người Với chức thanh tra, hắn luôn tác oai, tác quái và gây ra bao nhiêu hậu quả khốc liệt. Cái chết của bà Phăng-tin vì tuyệt vọng cũng do sự tàn nhẫn và thiếu lương tâm của Gia-ve mới tạo nên cơn giằng xé đến nỗi bà phải chết.
Trong đoạn trích, nhân vật Phăng-tin hiện lên là một người mẹ nghèo khổ, tình cảnh đến mức bi đát. Phăng-tin có con gái là Cô-đét nhưng số phận đã chia lìa hai mẹ con dẫn đến nỗi đau giằng xé trong cõi lòng người mẹ. Xuất hiện trong đoạn trích nhân vật Phăng-tin tỏ ra là một người ốm yếu và bao trùm lên tâm trạng là sự lo lắng cho sứ mệnh của mình và cuộc đời người con gái duy nhất. Đặc biệt, khi có mặt của Gia-ve, lời nói và hành động hiện lên nỗi nơm nớp lo sợ của một người phụ nữ yếu đuối.
Nhà văn đã miêu tả Phăng-tin trong cơn tuyệt vọng bằng những điệu bộ của một người sắp chết. Phăng-tin cố gắng chống chọi lại với tử thần vì còn chút sức mạnh của tình yêu thương mà người mẹ dành cho người con gái. Hoạt động cuối cùng của người đàn bà khốn khổ ấy gây xúc động mạnh đến trái tim người đọc và để lại ấn tượng thương xót khôn nguôi. Có được ấn tượng ẩy là vì tác giả đã khắc họa nhân vật bằng tài năng nghệ thuật của mình làm cho nhân vật hiện lên những nét cơ cực nhất ngay cà nhũng giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Vai trò của nhân vật Phăng-tin là góp phần làm cho cốt truyện thêm sâu sắc và hấp dẫn. Xuất phát từ số phận nghiệt ngã và oan trái của nhân vật này dã lôi kéo Giăng Van-giăĩỊg vào cuộc để rồi nội dung câu chuyện dần dần biến đổi, Giá như Phăng-tin khủng trở nên ốm yếu và bất lực tnrớc số phận thì chua hẳn đã có một Giăng Van-giăng hào phóng và giàu tình thương như vậy.. Đoạn trích thổ hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Bằng việc khắc họa các hình tượng nhân vật, tác giả muốn gửi tới người đọc thông diệp của lẽ sồng tình thương. Nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho lẽ sống ấy, qua đó thể hiên thái độ phê phán những thế lực đã ngăn chặn và đè nén khát vọng sống cao quý của con người. – Phăng tin đã chết rồi,vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí. Nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà Xem-pli (bà là người không bao giờ biết nói (dối). Kết hợp với chi tiết Giăng Van- giăng thì thầm bên tai Phăng-tin thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra.
Người chết mà khuôn mặt còn rạng rỡ, điều đó cũng vô lí. Nhưng người kể chuyện khi kể đến đây đã rất xúc động trước tình cảm của Giăng van-giăng đối với Phăng-tin, tường chừng thấy khuôn măt người chết rạng rỡ hẳn lên. Đấy cũng là một ảo tưởng có thế có thật. Nhà văn đã xây dựng chi tiết này với ngòi bút hết sức lãng mạn.
Qua câu chuyện đầy éo le, oan trái với những tính cách trái ngược, nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp: Cuộc sống khi phải đối diện với những bất công và tuyệt vọng, con người có thể sưởi ấm và che-chở cho nhau bằng tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể đẩy lùi thế lực hắc ám của cường quyền và thắp lên niềm hi vọng tươi sáng ở tương lai.
Đề bài: Phân tích nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”.
Những người khốn khổ là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được nhiều người biết đến của văn hào Pháp Vích-to-Huy-gô kể về câu chuyện của xã hội nước Pháp khoảng hơn 20 năm đầu thế kỉ XIX với những hoàn cảnh, số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh. Nhân vật chính của tác phẩm là Giăng Van-giăng_một con người được cảm hóa bởi tình thương và luôn tìm mọi cách để chuộc lại lỗi lầm thời trai trẻ bằng tình yêu thương mọi người xung quanh. Trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc đối đầu căng thẳng giữa Giăng Van-giăng và Gia-ve_tên thanh tra mật thám. Hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng hiện lên như một đấng cứu tinh với Phăng-tin và là một địch thủ khó đối phó của Gia-ve. Nhân vật để lại cho ta bài học suy ngẫm về tình yêu thương con người.
Giăng Van-giăng là người được cảm hóa bởi tình thương và dùng tình thương để chuộc lại lỗi lầm. Ông nguyên là một người tù khổ sai vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho bảy đứa nhỏ mà bị bắt, việc làm ấy chẳng đáng là bao, cũng vì bảy đứa nhỏ bị bỏ đói quá nên “Bần cùng sinh đạo tặc” nhưng ông đã bị kết án, tù đày khổ cực. Sau khi ra tù, ông bị mọi người xua đuổi chỉ riêng vị giám mục Ma-ri-en đã cảm hóa ông bằng tình thương và ông coi đó là lẽ sống. Kể từ đó Giăng Van-giăng thay tên đổi họ, sống một cuộc đời tử tế làm thị trưởng và chủ nhà máy giàu có. Ông giúp đỡ mọi người xung quanh đặc biệt là Phăng-tin_người phụ nữ nghèo khổ và bất hạnh phải bán thân, bán răng, bán tóc để nuôi con.
Giăng Van-giăng được Huy-gô miêu tả như một đấng cứu thế, một vị cứu tinh của Phăng-tin. Khi thấy Gia-ve đến chị nghĩ là hắn bắt mình nên ra sức cầu cứu Ma-đơ-len (tên thay đổi của Giăng Van-giăng), ông cố gắng chấn an chị bằng lời nói nhẹ nhàng và gương mặt điềm tĩnh “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu”, ông cũng cố hạ mình với Gia-ve để hy vọng hắn không làm người phụ nữ kia phải đau khổ thêm nữa. Giăng Van-giăng cũng rất tế nhị, khéo léo khi ông biết Gia-ve đến để bắt mình nhưng thay vì nói “Tôi biết anh đến bắt tôi” bằng câu “Tôi biết là anh muốn gì rồi”, thử hỏi nếu là câu nói thẳng ra thì không biết Phăng-tin sẽ như thế nào, mọi niềm tin và hy vọng tìm lại đứa con gái sẽ bị sụp đổ hoàn toàn, căn bệnh của chị sẽ không buông tha cho sinh mệnh yếu ớt ấy. Giăng Van-giăng đã ứng xử trong tình huống khó rất thông minh và khôn khéo. Nhưng Gia-ve quyết không tha cho ông nên đã tìm mọi cách để bắt ông, khi chị thấy Gia-ve nắm lấy cổ áo ông thị trưởng chỉ biết cúi đầu “Chị tưởng như cả thế giới đang tiêu tan”. Như vậy đối với Phăng-tin, Giăng Van-giăng như là nguồn sống, nguồn ánh sáng và hy vọng để chị có thể được gặp lại cô con gái đáng thương, chỉ có ông thị trưởng mới có thể làm được điều đó nếu ông có mệnh hệ gì thì có lẽ chị cũng không thể sống được thêm nữa.
Giăng Van-giăng là con người rất giữ chữ tín. Dù biết Gia-ve đến bắt mình nhưng vì lời hứa với Phăng-tin vẫn chưa thực hiện được nên ông nhún nhường, hạ mình cầu xin Gia-ve “Tôi cầu xin ông một điều…”, “Xin ông thu cho ba ngày! Ba ngày để tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu muốn ông cứ đi kèm tôi cũng được”. Giăng Van-giăng chấp nhận bị trả giá, chấp nhận mọi hậu quả phải gánh chịu chỉ vì ước nguyện của người phụ nữ đáng thương ấy. Chính ông đã dùng tình thương để sống một đời có nghĩa. Ở giây phút cuối trước khi Phăng-tin tắt thở theo lời kể của bà xơ Xem-pli-xơ chứng kiến không biết Giăng Van-giăng thì thầm bên tai chị điều gì để bà trông thấy “rõ ràng một nụ cười không sao tả được trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Giăng Van-giăng như là niềm hy vọng, hạnh phúc cuối cùng mà chị có thể an tâm mang theo đi vào thế giới bên kia với gương mặt “như sáng rỡ lên một cách lạ thường”. Hành động của ông dành cho chị “như một người mẹ sửa sang cho con” lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên, đặt ngay ngắn dưới gối, thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải, rồi vuốt mắt cho chị, quỳ xuống trước bàn tay chị và đặt một nụ hôn lên đó. Từng hành động ấy thật ân cần mà có phần xót xa vô cùng. Những câu nghi vấn qua lời bình luận ngoại đề của tác giả khiến cho nhân vật Giăng Vann-giăng càng thêm phi thường và lãnh mạn. “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” có lẽ là đoạn trích tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Huy-gô mà cụ thể nhất là ở đoạn văn này với những lời bình của tác giả thật mơ hồ mà cũng thật sâu sắc khi kết thúc bằng gương mặt mãn nguyện của Phăng-tin khi đi vào cõi chết.
Không chỉ vậy Giăng Van-giăng cò là một người có dũng khí, một tên tội phạm nguy hiểm đối với Gia-ve. “Hắn coi Giăng Van-giăng như địch thủ bí hiểm và không sao bắt được, một đô vật lạ lùng hắn đã ôm ghì năm năm mà không sao có thể quật ngã”. Nên lần này có được cơ hội hiếm có không phải là bắt đầu mà là kết thúc tất cả. Hắn hống hách chửi bới, dọa nạt, uy hiếp, sỉ nhục Giăng Van-giăng “Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng! Tao bắt được nó đây này! Chỉ có thế thôi!”. Lời xưng hô mày tao thật thô bỉ cùng với lới nói và giọng nói của hắn khiến cho Phăng-tin tắt thở Giăng Van-giăng để tay lên bàn tay Gia-ve đang túm cổ áo ông cậy ra như cậy bàn tay trẻ con. Dường như đối với ông lúc này sự hống hách, quát nạt của Gia-ve chẳng là gì cả. “Giăng Van-giăng đi tới giật gãy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát, việc làm đó chẳng khó khăn gì đối với người cơ bắp như ông, ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn gia ve trừng trừng” khiến cho hắn phải run sợ thực sự và lui về phía cửa. Giăng Van-giăng giây phút này mới thực sự là người cầm quyền và thực hiện hành động để khôi phục uy quyền của mình nhưng cuối cùng kết thúc là câu nói “Tôi thuộc về anh” cho thấy sự chấp hành pháp luật và giữ lời với Gia-ve.
Nhân vật Giăng Van-giăng được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế để nhân vật chính được hiện lên đối lập hoàn toàn với con mãnh thú Gia-ve. Huy-gô đã đặt hai nhân vật trên cùng một phẳng nhưng hai con người ấy luôn ở thế chiến đấu đối lập nhau Giăng Van-giăng là nhân vật đại diện cho người lao động lương thiện, Gia-ve là tên thanh tra mật thám đại diện cho chính quyền, cho giai cấp thống trị độc ác chính chế độ đó đã khiến cho người nông dân nổi dậy chống lại chính quyền và Giăng Van-giăng sau khi vượt ngục cũng có tham gia. Ông cùng với quần chúng bắt được Gia-ve và nhận đem đi xử bắn, song đã lẳng lặng tha cho hắn. Tuy nhiên khi bị Gia-ve “lật thế cờ” ông chỉ xin đưa Ma-ri-uýt về nhà rồi sẽ nộp mạng. Hành động đó khiến cho Gia-ve bị mất phương hướng nên hắn đã nhảy sông Xen tự tử.
Huy-gô sử dụng nghệ thuật phóng đại, sử dụng hệ thống hình ảnh quy chiếu về ẩn dụ để miêu tả Gia-ve như một con mãnh thú còn với Giăng Van-giăng đó là những ngôn ngữ, hành động của một con người có tình thương yêu. Nhà văn đặt họ đối lập nhau để cùng làm nổi bật cho phẩm chất, bản chất của nhau.
Như vậy nhân vật Giăng Van-giăng hiện lên là một con người giàu lòng yêu thương, kiên cường anh dũng và cũng thật lãng mạn trong hành động qua ngòi bút khắc họa của nhà văn. Nhân vật đã thể hiện được tư tưởng của Huy-gô về giá trị tình người trong cuộc đời. Qua đoạn đoạn trích nhà văn gửi tới độc giả thông điêp: “Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai”. Đoạn trích đã góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm khi được Huy-gô viết: “Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình”.
Đề bài: Phân tích nhân vật Giăng-văn-giăng trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”
V.Huy-gô nhà văn lãng mạn thiên tài của nước Pháp, là người bạn, người đồng hành với những con người khốn khổ. Các tác phẩm của ông thể hiện tình yêu thương sâu sắc đối với con người đặc biệt là đối với những người lao động nghèo khổ, bất hạnh. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, ta không thể không nhắc đến “Những người khốn khổ” – cuốn tiểu thuyết vĩ đại của loài người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả của tác giả.
Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích từ phần 1 quyển 8 chương IV của tác phẩm, phản ánh cuộc đối đầu gay gắt giữa Gia-ve và Giăng Van-giăng qua đó làm bật lên chủ đề của tác phẩm. Tuy chỉ là một lát cắt, một trích đoạn ngắn song nó cũng đã thể hiện rõ số phận, cũng như phẩm chất đẹp đẽ của Giăng Van-giăng.
Nhan đề đoạn trích là “Người cầm quyền, khôi phục uy quyền”, vậy người cầm quyền là ai? Vì sao đã là người cầm quyền lại khôi phục uy quyền? Trong đoạn trích Giăng Van-giăng vốn là một ông thị trưởng – quyền lực, nhưng sau đó quyết định đầu thú – tù khổ sai – không có quyền lực. Trước giờ phút đi đầu thú ông chưa mất đi hoàn toàn quyền lực của mình. Ông đến từ biệt Phăng-tin và sẵn sàng rút thanh giường bệnh để đe dọa tên Gia-ven, lúc này quyền lực của Giăng Van-giăng được khôi phục. Nhưng ngay sau đó ông lại nói: “Bây giờ tôi thuộc về anh” tức là mất đi quyền lực hoàn toàn. Còn Gia-ve cũng là một quyền lực khác, đại diện cho pháp luật, ông ta chỉ mất đi quyền lực trong một thời gian ít ỏi, sau đó khôi phục được ngay quyền lực của mình. Nhưng xét ở khía cạnh đó, ý nghĩa của nhan đề sẽ mất đi tính nhân văn của nó. Nếu xét trên bình diện đạo đức, cái thiện – Giăng Van-giăng và cái ác – Gia-ve thì ở đây cái thiện đã thắng thế hoàn toàn, đã khôi phục được quyền lực của mình. Và xét như vậy mới có thể đi đúng với tinh thần nhân bản của tác giả được đề cập đến trong toàn bộ văn bản.
Giăng Van-giăng là một con người nghèo khổ, vì cuộc sống túng quẫn, nhìn đám cháu thơ dại chịu đói, Giăng Van-giăng đã đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu. Hành động đầy yêu thương đó đã bị kết tội, và Giăng Van-giăng đã phải chịu án tù khổ sai mười chín năm. Ra tù, Giăng Van-giăng nhận được sự giúp đỡ của giám mục Mi-ri-en ông đã trở thành một con người tốt, đổi tên thành Ma-đơ-len, lập nên xưởng may để giúp đỡ những người nghèo khổ, kém may mắn. Giăng Van-giăng được mọi người yêu quý và được bầu làm thị trưởng ở một thị trấn nhỏ.
Giăng Van-giăng là người có tấm lòng lương thiện, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người. Hành động ăn cắp bánh mì của ông cũng là xuất phát từ tình yêu thương ông dành cho những đứa cháu. Nhưng ở xã hội bấy giờ hành động đó lại là một tội ác không thể tha thứ, đẩy Giăng Van-giăng vào tù. Nhưng bản chất lương thiện đã không bị nhà tù tàn độc dập tắt, nhận được sự giúp đỡ của giám mục ông vẫn trở thành người tốt. Ngay cả khi được làm thị trưởng, Giăng Van-giăng vẫn không vì lợi ích cá nhân mà để người khác chịu oan, ông quyết định ra đầu thú để cứu nạn nhân bị Gia-ve bắt oan. Đó là biểu tượng của một con người thành thực, có tình yêu thương đối với mọi người.
Tình yêu thương còn được thể hiện rõ hơn trong cuộc gặp gỡ, trò chuyện với chị Phăng-tin trước khi buộc phải đi theo Gia-ve. Điều ông quan tâm nhất lúc này là làm sao co thể tìm được con cho Phăng-tin, quan tâm đến bệnh tình của chị. Thấy Phăng-tin run lên vì sợ hãi, Giăng Van-giăng hết sức điềm tĩnh, nhẹ nhàng trấn án chị: “Cứ yên tâm. Không phải nó bắt chị đâu” để Phăng-tin bớt lo lắng. Trước thái độ hung hãn của Gia-ve, Giăng Van-giăng vẫn hết sức điềm tĩnh, nhún nhường: “thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này” cách nói rất tế nhị “Tôi biết là anh muốn gì rồi”. Không chỉ vậy, để giữ lời hứa với Phăng-tin, Giăng Van-giăng sẵn sàng cầu xin Gia-ve cho mình ba ngày để đi tìm Cô-dét đứa con gái cho chị Phăng-tin. Mọi cử chỉ nhún nhường ấy đều là vì chị Phăng-tin, ông không muốn làm người bệnh thêm phần hoang mang, sợ hãi, sợ cú sốc tinh thần sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của chị.
Trước cái chết của Phăng-tin, Giăng Van-giăng vô cùng đau đớn, kết tội Gia-ve đã gây nên cái chết thương tâm này. Trước thi thể người phụ nữ bất hạnh, Giăng Van-giăng quỳ xuống thành giường, nỗi xót thương trào dâng và thầm thì vào tai người đã khuất, vuốt mắt cho chị đi xuôi. Những cử chỉ đó thể hiện tình yêu thương, nỗi đau đớn chân thành, sâu sắc với sự ra đi của chị Phăng-tin.
Không chỉ mang trong mình tình yêu thương, Giăng Van-giăng còn là một con người kiên cường, dũng cảm chống cự lại quyền lực. Bị phát hiện chính là người tù khổ sai, Gia-ve đến bắt đi, nhưng Giăng Van-giăng vẫn hết sức từ tốn đón nhận điều đó. Nếu trước đó cầu xin, nhún nhường với Gia-ve để bảo toàn cho Phăng-tin thì sau khi chị Phăng-tin chết, Giăng van-giăng dùng giọng điệu đầy thách thức với Gia-ve, yêu cầu hắn không nên động đến mình vào lúc này, sẵn sàng rút thanh sắt, bất chấp đối đầu với Gia-ve.
Xây dựng nhân vật Giăng Van-giăng tác giả sử dụng biện pháp đối lập tương phản, giữa một bên là cái thiện – Giăng Van-giăng với một bên là cái ác – Gia-ve để làm nổi bật nhân vật trung tâm. Giăng Van-giăng là đại diện của tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người. Qua nhân vật này tác giả muốn khẳng định, tình yêu thương con người có thể sưởi ấm trái tim, đem lại hi vọng vào tương lai tốt đẹp cho con người. Đây cũng là giá trị nhân văn cao cả mà V.Huy-gô muốn gửi đến bạn đọc.
Đề bài: Phân tích nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”.
Những người khốn khổ là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được nhiều người biết đến của văn hào Pháp Vích-to-Huy-gô kể về câu chuyện của xã hội nước Pháp khoảng hơn 20 năm đầu thế kỉ XIX với những hoàn cảnh, số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh. Nhân vật chính của tác phẩm là Giăng Van-giăng_một con người được cảm hóa bởi tình thương và luôn tìm mọi cách để chuộc lại lỗi lầm thời trai trẻ bằng tình yêu thương mọi người xung quanh. Trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” là cuộc đối đầu căng thẳng giữa Giăng Van-giăng và Gia-ve_tên thanh tra mật thám. Hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng hiện lên như một đấng cứu tinh với Phăng-tin và là một địch thủ khó đối phó của Gia-ve. Nhân vật để lại cho ta bài học suy ngẫm về tình yêu thương con người.
Giăng Van-giăng là người được cảm hóa bởi tình thương và dùng tình thương để chuộc lại lỗi lầm. Ông nguyên là một người tù khổ sai vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho bảy đứa nhỏ mà bị bắt, việc làm ấy chẳng đáng là bao, cũng vì bảy đứa nhỏ bị bỏ đói quá nên “Bần cùng sinh đạo tặc” nhưng ông đã bị kết án, tù đày khổ cực. Sau khi ra tù, ông bị mọi người xua đuổi chỉ riêng vị giám mục Ma-ri-en đã cảm hóa ông bằng tình thương và ông coi đó là lẽ sống. Kể từ đó Giăng Van-giăng thay tên đổi họ, sống một cuộc đời tử tế làm thị trưởng và chủ nhà máy giàu có. Ông giúp đỡ mọi người xung quanh đặc biệt là Phăng-tin_người phụ nữ nghèo khổ và bất hạnh phải bán thân, bán răng, bán tóc để nuôi con.
Giăng Van-giăng được Huy-gô miêu tả như một đấng cứu thế, một vị cứu tinh của Phăng-tin. Khi thấy Gia-ve đến chị nghĩ là hắn bắt mình nên ra sức cầu cứu Ma-đơ-len (tên thay đổi của Giăng Van-giăng), ông cố gắng chấn an chị bằng lời nói nhẹ nhàng và gương mặt điềm tĩnh “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu”, ông cũng cố hạ mình với Gia-ve để hy vọng hắn không làm người phụ nữ kia phải đau khổ thêm nữa. Giăng Van-giăng cũng rất tế nhị, khéo léo khi ông biết Gia-ve đến để bắt mình nhưng thay vì nói “Tôi biết anh đến bắt tôi” bằng câu “Tôi biết là anh muốn gì rồi”, thử hỏi nếu là câu nói thẳng ra thì không biết Phăng-tin sẽ như thế nào, mọi niềm tin và hy vọng tìm lại đứa con gái sẽ bị sụp đổ hoàn toàn, căn bệnh của chị sẽ không buông tha cho sinh mệnh yếu ớt ấy. Giăng Van-giăng đã ứng xử trong tình huống khó rất thông minh và khôn khéo. Nhưng Gia-ve quyết không tha cho ông nên đã tìm mọi cách để bắt ông, khi chị thấy Gia-ve nắm lấy cổ áo ông thị trưởng chỉ biết cúi đầu “Chị tưởng như cả thế giới đang tiêu tan”. Như vậy đối với Phăng-tin, Giăng Van-giăng như là nguồn sống, nguồn ánh sáng và hy vọng để chị có thể được gặp lại cô con gái đáng thương, chỉ có ông thị trưởng mới có thể làm được điều đó nếu ông có mệnh hệ gì thì có lẽ chị cũng không thể sống được thêm nữa.
Giăng Van-giăng là con người rất giữ chữ tín. Dù biết Gia-ve đến bắt mình nhưng vì lời hứa với Phăng-tin vẫn chưa thực hiện được nên ông nhún nhường, hạ mình cầu xin Gia-ve “Tôi cầu xin ông một điều…”, “Xin ông thu cho ba ngày! Ba ngày để tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu muốn ông cứ đi kèm tôi cũng được”. Giăng Van-giăng chấp nhận bị trả giá, chấp nhận mọi hậu quả phải gánh chịu chỉ vì ước nguyện của người phụ nữ đáng thương ấy. Chính ông đã dùng tình thương để sống một đời có nghĩa. Ở giây phút cuối trước khi Phăng-tin tắt thở theo lời kể của bà xơ Xem-pli-xơ chứng kiến không biết Giăng Van-giăng thì thầm bên tai chị điều gì để bà trông thấy “rõ ràng một nụ cười không sao tả được trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Giăng Van-giăng như là niềm hy vọng, hạnh phúc cuối cùng mà chị có thể an tâm mang theo đi vào thế giới bên kia với gương mặt “như sáng rỡ lên một cách lạ thường”. Hành động của ông dành cho chị “như một người mẹ sửa sang cho con” lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên, đặt ngay ngắn dưới gối, thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải, rồi vuốt mắt cho chị, quỳ xuống trước bàn tay chị và đặt một nụ hôn lên đó. Từng hành động ấy thật ân cần mà có phần xót xa vô cùng. Những câu nghi vấn qua lời bình luận ngoại đề của tác giả khiến cho nhân vật Giăng Vann-giăng càng thêm phi thường và lãnh mạn. “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” có lẽ là đoạn trích tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Huy-gô mà cụ thể nhất là ở đoạn văn này với những lời bình của tác giả thật mơ hồ mà cũng thật sâu sắc khi kết thúc bằng gương mặt mãn nguyện của Phăng-tin khi đi vào cõi chết.
Không chỉ vậy Giăng Van-giăng cò là một người có dũng khí, một tên tội phạm nguy hiểm đối với Gia-ve. “Hắn coi Giăng Van-giăng như địch thủ bí hiểm và không sao bắt được, một đô vật lạ lùng hắn đã ôm ghì năm năm mà không sao có thể quật ngã”. Nên lần này có được cơ hội hiếm có không phải là bắt đầu mà là kết thúc tất cả. Hắn hống hách chửi bới, dọa nạt, uy hiếp, sỉ nhục Giăng Van-giăng “Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng! Tao bắt được nó đây này! Chỉ có thế thôi!”. Lời xưng hô mày tao thật thô bỉ cùng với lới nói và giọng nói của hắn khiến cho Phăng-tin tắt thở Giăng Van-giăng để tay lên bàn tay Gia-ve đang túm cổ áo ông cậy ra như cậy bàn tay trẻ con. Dường như đối với ông lúc này sự hống hách, quát nạt của Gia-ve chẳng là gì cả. “Giăng Van-giăng đi tới giật gãy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát, việc làm đó chẳng khó khăn gì đối với người cơ bắp như ông, ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn gia ve trừng trừng” khiến cho hắn phải run sợ thực sự và lui về phía cửa. Giăng Van-giăng giây phút này mới thực sự là người cầm quyền và thực hiện hành động để khôi phục uy quyền của mình nhưng cuối cùng kết thúc là câu nói “Tôi thuộc về anh” cho thấy sự chấp hành pháp luật và giữ lời với Gia-ve.
Nhân vật Giăng Van-giăng được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế để nhân vật chính được hiện lên đối lập hoàn toàn với con mãnh thú Gia-ve. Huy-gô đã đặt hai nhân vật trên cùng một phẳng nhưng hai con người ấy luôn ở thế chiến đấu đối lập nhau Giăng Van-giăng là nhân vật đại diện cho người lao động lương thiện, Gia-ve là tên thanh tra mật thám đại diện cho chính quyền, cho giai cấp thống trị độc ác chính chế độ đó đã khiến cho người nông dân nổi dậy chống lại chính quyền và Giăng Van-giăng sau khi vượt ngục cũng có tham gia. Ông cùng với quần chúng bắt được Gia-ve và nhận đem đi xử bắn, song đã lẳng lặng tha cho hắn. Tuy nhiên khi bị Gia-ve “lật thế cờ” ông chỉ xin đưa Ma-ri-uýt về nhà rồi sẽ nộp mạng. Hành động đó khiến cho Gia-ve bị mất phương hướng nên hắn đã nhảy sông Xen tự tử.
Huy-gô sử dụng nghệ thuật phóng đại, sử dụng hệ thống hình ảnh quy chiếu về ẩn dụ để miêu tả Gia-ve như một con mãnh thú còn với Giăng Van-giăng đó là những ngôn ngữ, hành động của một con người có tình thương yêu. Nhà văn đặt họ đối lập nhau để cùng làm nổi bật cho phẩm chất, bản chất của nhau.
Như vậy nhân vật Giăng Van-giăng hiện lên là một con người giàu lòng yêu thương, kiên cường anh dũng và cũng thật lãng mạn trong hành động qua ngòi bút khắc họa của nhà văn. Nhân vật đã thể hiện được tư tưởng của Huy-gô về giá trị tình người trong cuộc đời. Qua đoạn đoạn trích nhà văn gửi tới độc giả thông điêp: “Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai”. Đoạn trích đã góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm khi được Huy-gô viết: “Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình”.
V.Huy-gô nhà văn lãng mạn thiên tài của nước Pháp, là người bạn, người đồng hành với những con người khốn khổ. Các tác phẩm của ông thể hiện tình yêu thương sâu sắc đối với con người đặc biệt là đối với những người lao động nghèo khổ, bất hạnh. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, ta không thể không nhắc đến “Những người khốn khổ” – cuốn tiểu thuyết vĩ đại của loài người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả của tác giả.
Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích từ phần 1 quyển 8 chương IV của tác phẩm, phản ánh cuộc đối đầu gay gắt giữa Gia-ve và Giăng Van-giăng qua đó làm bật lên chủ đề của tác phẩm. Tuy chỉ là một lát cắt, một trích đoạn ngắn song nó cũng đã thể hiện rõ số phận, cũng như phẩm chất đẹp đẽ của Giăng Van-giăng.
Nhan đề đoạn trích là “Người cầm quyền, khôi phục uy quyền”, vậy người cầm quyền là ai? Vì sao đã là người cầm quyền lại khôi phục uy quyền? Trong đoạn trích Giăng Van-giăng vốn là một ông thị trưởng – quyền lực, nhưng sau đó quyết định đầu thú – tù khổ sai – không có quyền lực. Trước giờ phút đi đầu thú ông chưa mất đi hoàn toàn quyền lực của mình. Ông đến từ biệt Phăng-tin và sẵn sàng rút thanh giường bệnh để đe dọa tên Gia-ven, lúc này quyền lực của Giăng Van-giăng được khôi phục. Nhưng ngay sau đó ông lại nói: “Bây giờ tôi thuộc về anh” tức là mất đi quyền lực hoàn toàn. Còn Gia-ve cũng là một quyền lực khác, đại diện cho pháp luật, ông ta chỉ mất đi quyền lực trong một thời gian ít ỏi, sau đó khôi phục được ngay quyền lực của mình. Nhưng xét ở khía cạnh đó, ý nghĩa của nhan đề sẽ mất đi tính nhân văn của nó. Nếu xét trên bình diện đạo đức, cái thiện – Giăng Van-giăng và cái ác – Gia-ve thì ở đây cái thiện đã thắng thế hoàn toàn, đã khôi phục được quyền lực của mình. Và xét như vậy mới có thể đi đúng với tinh thần nhân bản của tác giả được đề cập đến trong toàn bộ văn bản.
Giăng Van-giăng là một con người nghèo khổ, vì cuộc sống túng quẫn, nhìn đám cháu thơ dại chịu đói, Giăng Van-giăng đã đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu. Hành động đầy yêu thương đó đã bị kết tội, và Giăng Van-giăng đã phải chịu án tù khổ sai mười chín năm. Ra tù, Giăng Van-giăng nhận được sự giúp đỡ của giám mục Mi-ri-en ông đã trở thành một con người tốt, đổi tên thành Ma-đơ-len, lập nên xưởng may để giúp đỡ những người nghèo khổ, kém may mắn. Giăng Van-giăng được mọi người yêu quý và được bầu làm thị trưởng ở một thị trấn nhỏ.
Giăng Van-giăng là người có tấm lòng lương thiện, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người. Hành động ăn cắp bánh mì của ông cũng là xuất phát từ tình yêu thương ông dành cho những đứa cháu. Nhưng ở xã hội bấy giờ hành động đó lại là một tội ác không thể tha thứ, đẩy Giăng Van-giăng vào tù. Nhưng bản chất lương thiện đã không bị nhà tù tàn độc dập tắt, nhận được sự giúp đỡ của giám mục ông vẫn trở thành người tốt. Ngay cả khi được làm thị trưởng, Giăng Van-giăng vẫn không vì lợi ích cá nhân mà để người khác chịu oan, ông quyết định ra đầu thú để cứu nạn nhân bị Gia-ve bắt oan. Đó là biểu tượng của một con người thành thực, có tình yêu thương đối với mọi người.
Tình yêu thương còn được thể hiện rõ hơn trong cuộc gặp gỡ, trò chuyện với chị Phăng-tin trước khi buộc phải đi theo Gia-ve. Điều ông quan tâm nhất lúc này là làm sao co thể tìm được con cho Phăng-tin, quan tâm đến bệnh tình của chị. Thấy Phăng-tin run lên vì sợ hãi, Giăng Van-giăng hết sức điềm tĩnh, nhẹ nhàng trấn án chị: “Cứ yên tâm. Không phải nó bắt chị đâu” để Phăng-tin bớt lo lắng. Trước thái độ hung hãn của Gia-ve, Giăng Van-giăng vẫn hết sức điềm tĩnh, nhún nhường: “thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này” cách nói rất tế nhị “Tôi biết là anh muốn gì rồi”. Không chỉ vậy, để giữ lời hứa với Phăng-tin, Giăng Van-giăng sẵn sàng cầu xin Gia-ve cho mình ba ngày để đi tìm Cô-dét đứa con gái cho chị Phăng-tin. Mọi cử chỉ nhún nhường ấy đều là vì chị Phăng-tin, ông không muốn làm người bệnh thêm phần hoang mang, sợ hãi, sợ cú sốc tinh thần sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của chị.
Trước cái chết của Phăng-tin, Giăng Van-giăng vô cùng đau đớn, kết tội Gia-ve đã gây nên cái chết thương tâm này. Trước thi thể người phụ nữ bất hạnh, Giăng Van-giăng quỳ xuống thành giường, nỗi xót thương trào dâng và thầm thì vào tai người đã khuất, vuốt mắt cho chị đi xuôi. Những cử chỉ đó thể hiện tình yêu thương, nỗi đau đớn chân thành, sâu sắc với sự ra đi của chị Phăng-tin.
Không chỉ mang trong mình tình yêu thương, Giăng Van-giăng còn là một con người kiên cường, dũng cảm chống cự lại quyền lực. Bị phát hiện chính là người tù khổ sai, Gia-ve đến bắt đi, nhưng Giăng Van-giăng vẫn hết sức từ tốn đón nhận điều đó. Nếu trước đó cầu xin, nhún nhường với Gia-ve để bảo toàn cho Phăng-tin thì sau khi chị Phăng-tin chết, Giăng van-giăng dùng giọng điệu đầy thách thức với Gia-ve, yêu cầu hắn không nên động đến mình vào lúc này, sẵn sàng rút thanh sắt, bất chấp đối đầu với Gia-ve.
Xây dựng nhân vật Giăng Van-giăng tác giả sử dụng biện pháp đối lập tương phản, giữa một bên là cái thiện – Giăng Van-giăng với một bên là cái ác – Gia-ve để làm nổi bật nhân vật trung tâm. Giăng Van-giăng là đại diện của tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người. Qua nhân vật này tác giả muốn khẳng định, tình yêu thương con người có thể sưởi ấm trái tim, đem lại hi vọng vào tương lai tốt đẹp cho con người. Đây cũng là giá trị nhân văn cao cả mà V.Huy-gô muốn gửi đến bạn đọc.
Đề bài: Phân tích nhân vật Phăng-tin trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền.
“Những người khốn khổ” của Vích-to-Huy-gô là tác phẩm đạt đến đỉnh cao của dòng văn học hiện thực Pháp cuối thế kỉ XIX. Phản ánh cuộc sống của những con người bất hạnh nghèo khổ, bên cạnh cuộc đời nhân vật chính Giăng Van-giăng thì nữ nhân vật Phăng-tin cũng đã để lại cho người đọc ấn tượng về trái tim yêu thương, tấm lòng bao la của người mẹ nói riêng và số phận của người phụ nữ Pháp lúc bấy giờ nói chung.
“Những người khốn khổ” ngay từ nhan đề đã nói lên cuộc sống hiện thực khốn khổ của các nhân vật và Phăng-tin cũng vậy. Chị là một người có trái tim yêu thương say đắm trong tình yêu của mình nhưng lúc chị mang trong mình giọt máu của người yêu cũng là lúc anh ta bỏ rơi chị. Chi bị mọi người ruồng bỏ, bị đuổi việc bởi không chồng mà chửa, thân gái nuôi con một mình biết bao cực khổ, lại phải chịu áp lực từ định kiến của xã hội càng khiến cho chị trở nên thật đáng thương, tội nghiệp biết bao. Nhưng cuộc đời chị cũng may mắn khi gặp được ông thị trưởng là Ma-đơ-len (tên thay đổi của Giăng Van-giăng). Ông đã cứu vớt chị qua những ngày đen tối cùng cực của cuộc đời. Ông thị trưởng chính là ân nhân, là vị cứu tinh cho số phận Phăng-tin.
Chị cũng như bao người mẹ khác giàu lòng yêu thương và sự hy sinh cho con. Đứa con gái Cô-dét của chị phải chịu bất hạnh, cực khổ ngay từ khi sinh ra đã không có cha, mẹ thì bị đuổi việc ở nhà máy nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Chị đã phải bán răng, bán tóc, bán thân thậm chí là chấp nhận lời miệt thị, coi thường của xã hội để kiếm tiền nuôi con. Nhưng bi kịch cuộc đời cũng đã chia lìa tình mẫu tử khi chị phải gửi người khác nuôi con để đi làm nhưng lại gặp phải đôi vợ chồng lưu manh, ác độc chỉ muốn bòn rút sức lực của trẻ nhỏ và đồng tiền mồ hôi, công sức của người mẹ nghèo. Trong hoàn cảnh ấy đáng lẽ ra con người ta cần được cảm thông, sẻ chia với nhau thì lại bị đẩy đến cùng cực của khó khăn, đói rách. Trong những ngày tháng về sau chị luôn nuôi vọng, luôn khao khát được gặp lại đứa con gái nhỏ bấy nhiêu niềm tin ấy được chị đặt vào tất thảy ở ông thị trưởng. Chị tin ông là người tốt, tin ông có thể giúp chị tìm lại được con gái và đem nó về để chị được yêu thương, chăm sóc cho con trong những ngày gần cuối đời bởi căn bệnh lao đang hủy hoại cơ thể chị.
Nhưng một lần nữa số phận chị bị cuộc đời trêu ngươi khi Gia-ve tên thanh tra mật thám truy ra gốc tích của Giăng Van-giăng khi xưa là một tên kẻ cắp, một tên kẻ trộm, một tên tù khổ sai dù thay tên đổi họ nhiều lần, dù đã được cảm hóa bằng tình thương và sống bằng tình thương yêu con người nhưng hắn vẫn không buông tha nên hy vọng cuối cùng của chị cũng bị hắn cướp đi trắng trợn giây phút ấy niềm tin của chị bị rút đến cạn kiệt mà rơi vào tuyệt vọng: “Phăng-tin chống hai bàn tay và hai cánh tay cứng đơ vùng nhổm dậy, chị nhìn Giăng Van-giăng, chị nhìn Gia-ve, chị nhìn bà xơ, chị há miệng như muốn nói từ trong họng phát ra tiếng rên, răng đánh vào nhau cầm cập, chị hoảng hốt giơ tay lên, hai bàn tay cố sức mở ra tìm chỗ bám như người rơi xuống nước đang chới với, rồi chị bỗng ngã vật xuống gối. Đầu chị đập vào thành giường và ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ”. Chị đã tắt thở chính Gia-ve đã gián tiêp giết chị bằng những lời nói kinh hoàng, bóp nghẹt trái tim yếu ớt của người phụ nữ bất hạnh, đáng thương. Chị đau khổ đến tột cùng cho số phận của người làm mẹ mà không lo được cho cuộc sống của con, giờ đây lại chưa tìm thấy con mà ông thị trưởng lại bị bắt vậy chị còn biết bám víu vào đâu?. Chị đã quá sốc trước sự việc đó lại mang trong mình bệnh tật nên phút giây sinh tử ấy không thể thắng nổi tử thần. Chị đã chết khi chưa được gặp lại đứa con gái thân yêu. Chị chết khi trong lòng còn khắc khoải không yên cho đến khi Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin mới xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện lên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết” lúc ấy trên gương mặt chị như sáng rỡ lên một cách lạ thường. Chị đã đi vào cõi chết khi ước nguyện còn dang dở nhưng may mắn có Giăng Van-giăng thì thầm điều gì đó vào tai chị để chị có thể yên tâm nhắm mắt xuôi tay. Người phụ nữ ấy thật đáng thương, chị cũng như bao người phụ nữ bất hạnh khác trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Giá như lúc ấy định kiến xã hội không quá khắt khe, giá như có một chế độ “an sinh xã hội” tốt nhất thì có lẽ chị và con đã không phải khổ, không phải chia lìa để giờ chị không phải rơi vào thảm cảnh bán tóc, bán răng, bán thân để nuôi con. Trong xã hội ngày nay dù đã có nhiều chính sách phúc lợi xã hội cho người dân, cuộc sống con người cũng được cải thiện và đảm bảo hơn nhưng ở đâu đó vẫn có dáng dấp số phận của Phăng-tin khiến cho ta thêm xót thương và họ cần được xã hội quan tâm nhiều hơn nữa.
Phăng-tin tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng lại có ý nghĩa quan trọng cho nội dung tác phẩm thể hiện cho số phận của những người nghèo khổ bất hạnh. Đối với đoạn trích sự xuất hiện của chị khiến cho phẩm chất chính nghĩa, kiên cường của Giăng Van-giăng được hiện lên rõ nét. Mặt khác cái chết của chị và hành động Giăng Van-giăng dành cho chị ở cuối đoạn trích cúng một loạt câu bình luận ngoại đề của tác giả đã làm nên chất trữ tình, lãng mạn độc đáo trong tác phẩm.
Phăng-tin người phụ nữ bất hạnh nhưng có một nghị lực sống phi thường và giàu lòng yêu thương con vượt lên nghịch cảnh và số phận để làm sáng lên vẻ đẹp nhân phẩm của người phụ nữ mang thiên chức làm mẹ.
Đề bài: Phân tích nhân vật Phăng- tin trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền không chỉ nổi bật với một Giăng Van-giăng có tình yêu thương bao la, sẵn sàng hi sinh vì mọi người mà còn nổi bật lên một Phăng-tin có tâm hồn đẹp đẽ. Phăng-tin là người có số phận bi kịch và bất hạnh nhất trong thiên tiểu thuyết này. Dù chỉ là một đoạn trích ngắn như số phận cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị đã được bộc lộ.
Phăng-tin là một người con gái xinh đẹp, dù không có cha mẹ, nhưng cô vẫn sống hết sức đúng mực, cư xử lễ độ. Cô sống và yêu hết mình, bằng một tình yêu chân thành, mãnh liệt. Nhưng số phận trêu đùa, khi cô có con thì cũng là lúc kẻ bội bạc người yêu cô ruồng bỏ. Cô phải một mình chống cự lại xã hội đầy hiểm ác để nuôi con khôn lớn. Làm việc tại xí nghiệp, khi bị phát hiện có con mà không có chồng cô đã bị đuổi đi một cách vô lí. Và cho đến lúc chết cô cũng không được chết một cách thanh thản, bởi đứa con mà cô yêu quý, sẵn sàng hi sinh cho nó vẫn chưa tìm thấy; cô chết trong hoảng loạn, khi phải thấy mặt Gia-ve, bị trấn áp về tinh thần. Số phận của Phăng-tin bạc bẽo, bất hạnh, cô bất hạnh từ lúc sinh ra cho đến cả khi cô nhắm mắt xuôi tay.
Phăng-tin là người phụ nữ yêu thương con vô hạn, sẵn sàng hi sinh tất cả vì con. Phăng-tin sẵn sàng bán răng, bán tóc, bán cả danh dự và nhân phẩm để nuôi con khôn lớn. Cô đã đau đớn biết chừng nào khi mỗi lá thư cô đọc được nói con cô bị rét vì không có áo mặc, bị ốm vì không có thuốc uống,… lúc ấy tâm hồn cô như điên loạn, vì yêu vì thương cho con. Vì con cô đã làm đến lao lực và phải cận kề cái chết.
Trong thời gian nằm trên giường bệnh, Phăng-tin vẫn không nguôi niềm hi vọng sẽ được nhìn thấy con một lần. Niềm tin tưởng của chị đặt cả vào Giăng Van-giăng, chị tin rằng nhất định ông thị trưởng sẽ đem con chị trở về. Có lẽ nếu không có sợi dây niềm tin ấy thì tử thần đã cướp chị đi từ lâu. Nhưng chính tên Gia-ve đã dập tắt mọi niềm tin, mọi sự hi vọng của chị đối với cuộc sống này. Chị đau đớn khôn cùng: “Con tôi! Chị kêu lên. Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây!….”. Lời thoại bị ngắt thành nhiều câu ngắn, như lời nói đầy uất nghẹn, đau đớn đến tột cùng của chị Phăng-tin. Chị đau đớn nhìn ông thị trưởng như cầu cứu, như mong mỏi ông thị trưởng hãy cho chị biết lời của kẻ ác thú kia ông phải là sự thật. Tột cùng của nỗi đau, chị ngã xuống gối, đầu đập vào thành giường và chị đã ra đi mãi mãi. Chính Gia-ve là người gây ra cái chết đầy thương tâm cho người phụ nữ bất hạnh. Chị chết đi, đôi tay buông thõng, lời thì thầm của Giăng Van-giăng đã khiến khuôn mặt chị “nở nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Đây là hình ảnh lãng mạn nhất trong toàn bài, không ai rõ Giăng Van-giăng đã nói gì với chị Phăng-tin, phải chăng đó là lời hứa nhất định sẽ tìm và nuôi dưỡng đứa con cho chị. Có lẽ là như vậy thì chị mới nở nụ cười mãn nguyện và ra đi thanh thản đến như vậy.
Nhân vật Phăng-tin được xây dựng là chất xúc tác thúc đẩy câu chuyện phát triển. Đồng thời với nhân vật này, đã làm rõ chân dung của hai nhân vật trung tâm là Giăng Van-giăng và Gia-ve. Dù chỉ là nhân vật phụ, song nhân vật Phăng-tin cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cốt truyện và thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Nhân vật Phăng-tin không được tác giả khắc họa trong tâm trạng, mà chủ yếu khắc họa trong ngôn ngữ, hành động. Phăng-tin là người phụ nữa có tình yêu thương con tha thiết, sâu nặng, sẵn sàng hi sinh vì con. Đồng thời với nhân vật này, nhà văn cũng thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với những người phụ nữ trong xã hội cũ, lên án suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu đã đẩy con người đến chỗ chết.
Đề bài: Phân tích nhân vật Phăng-tin trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền.
“Những người khốn khổ” của Vích-to-Huy-gô là tác phẩm đạt đến đỉnh cao của dòng văn học hiện thực Pháp cuối thế kỉ XIX. Phản ánh cuộc sống của những con người bất hạnh nghèo khổ, bên cạnh cuộc đời nhân vật chính Giăng Van-giăng thì nữ nhân vật Phăng-tin cũng đã để lại cho người đọc ấn tượng về trái tim yêu thương, tấm lòng bao la của người mẹ nói riêng và số phận của người phụ nữ Pháp lúc bấy giờ nói chung.
“Những người khốn khổ” ngay từ nhan đề đã nói lên cuộc sống hiện thực khốn khổ của các nhân vật và Phăng-tin cũng vậy. Chị là một người có trái tim yêu thương say đắm trong tình yêu của mình nhưng lúc chị mang trong mình giọt máu của người yêu cũng là lúc anh ta bỏ rơi chị. Chi bị mọi người ruồng bỏ, bị đuổi việc bởi không chồng mà chửa, thân gái nuôi con một mình biết bao cực khổ, lại phải chịu áp lực từ định kiến của xã hội càng khiến cho chị trở nên thật đáng thương, tội nghiệp biết bao. Nhưng cuộc đời chị cũng may mắn khi gặp được ông thị trưởng là Ma-đơ-len (tên thay đổi của Giăng Van-giăng). Ông đã cứu vớt chị qua những ngày đen tối cùng cực của cuộc đời. Ông thị trưởng chính là ân nhân, là vị cứu tinh cho số phận Phăng-tin.
Chị cũng như bao người mẹ khác giàu lòng yêu thương và sự hy sinh cho con. Đứa con gái Cô-dét của chị phải chịu bất hạnh, cực khổ ngay từ khi sinh ra đã không có cha, mẹ thì bị đuổi việc ở nhà máy nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Chị đã phải bán răng, bán tóc, bán thân thậm chí là chấp nhận lời miệt thị, coi thường của xã hội để kiếm tiền nuôi con. Nhưng bi kịch cuộc đời cũng đã chia lìa tình mẫu tử khi chị phải gửi người khác nuôi con để đi làm nhưng lại gặp phải đôi vợ chồng lưu manh, ác độc chỉ muốn bòn rút sức lực của trẻ nhỏ và đồng tiền mồ hôi, công sức của người mẹ nghèo. Trong hoàn cảnh ấy đáng lẽ ra con người ta cần được cảm thông, sẻ chia với nhau thì lại bị đẩy đến cùng cực của khó khăn, đói rách. Trong những ngày tháng về sau chị luôn nuôi vọng, luôn khao khát được gặp lại đứa con gái nhỏ bấy nhiêu niềm tin ấy được chị đặt vào tất thảy ở ông thị trưởng. Chị tin ông là người tốt, tin ông có thể giúp chị tìm lại được con gái và đem nó về để chị được yêu thương, chăm sóc cho con trong những ngày gần cuối đời bởi căn bệnh lao đang hủy hoại cơ thể chị.
Nhưng một lần nữa số phận chị bị cuộc đời trêu ngươi khi Gia-ve tên thanh tra mật thám truy ra gốc tích của Giăng Van-giăng khi xưa là một tên kẻ cắp, một tên kẻ trộm, một tên tù khổ sai dù thay tên đổi họ nhiều lần, dù đã được cảm hóa bằng tình thương và sống bằng tình thương yêu con người nhưng hắn vẫn không buông tha nên hy vọng cuối cùng của chị cũng bị hắn cướp đi trắng trợn giây phút ấy niềm tin của chị bị rút đến cạn kiệt mà rơi vào tuyệt vọng: “Phăng-tin chống hai bàn tay và hai cánh tay cứng đơ vùng nhổm dậy, chị nhìn Giăng Van-giăng, chị nhìn Gia-ve, chị nhìn bà xơ, chị há miệng như muốn nói từ trong họng phát ra tiếng rên, răng đánh vào nhau cầm cập, chị hoảng hốt giơ tay lên, hai bàn tay cố sức mở ra tìm chỗ bám như người rơi xuống nước đang chới với, rồi chị bỗng ngã vật xuống gối. Đầu chị đập vào thành giường và ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ”. Chị đã tắt thở chính Gia-ve đã gián tiêp giết chị bằng những lời nói kinh hoàng, bóp nghẹt trái tim yếu ớt của người phụ nữ bất hạnh, đáng thương. Chị đau khổ đến tột cùng cho số phận của người làm mẹ mà không lo được cho cuộc sống của con, giờ đây lại chưa tìm thấy con mà ông thị trưởng lại bị bắt vậy chị còn biết bám víu vào đâu?. Chị đã quá sốc trước sự việc đó lại mang trong mình bệnh tật nên phút giây sinh tử ấy không thể thắng nổi tử thần. Chị đã chết khi chưa được gặp lại đứa con gái thân yêu. Chị chết khi trong lòng còn khắc khoải không yên cho đến khi Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin mới xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện lên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết” lúc ấy trên gương mặt chị như sáng rỡ lên một cách lạ thường. Chị đã đi vào cõi chết khi ước nguyện còn dang dở nhưng may mắn có Giăng Van-giăng thì thầm điều gì đó vào tai chị để chị có thể yên tâm nhắm mắt xuôi tay. Người phụ nữ ấy thật đáng thương, chị cũng như bao người phụ nữ bất hạnh khác trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Giá như lúc ấy định kiến xã hội không quá khắt khe, giá như có một chế độ “an sinh xã hội” tốt nhất thì có lẽ chị và con đã không phải khổ, không phải chia lìa để giờ chị không phải rơi vào thảm cảnh bán tóc, bán răng, bán thân để nuôi con. Trong xã hội ngày nay dù đã có nhiều chính sách phúc lợi xã hội cho người dân, cuộc sống con người cũng được cải thiện và đảm bảo hơn nhưng ở đâu đó vẫn có dáng dấp số phận của Phăng-tin khiến cho ta thêm xót thương và họ cần được xã hội quan tâm nhiều hơn nữa.
Phăng-tin tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng lại có ý nghĩa quan trọng cho nội dung tác phẩm thể hiện cho số phận của những người nghèo khổ bất hạnh. Đối với đoạn trích sự xuất hiện của chị khiến cho phẩm chất chính nghĩa, kiên cường của Giăng Van-giăng được hiện lên rõ nét. Mặt khác cái chết của chị và hành động Giăng Van-giăng dành cho chị ở cuối đoạn trích cúng một loạt câu bình luận ngoại đề của tác giả đã làm nên chất trữ tình, lãng mạn độc đáo trong tác phẩm.
Phăng-tin người phụ nữ bất hạnh nhưng có một nghị lực sống phi thường và giàu lòng yêu thương con vượt lên nghịch cảnh và số phận để làm sáng lên vẻ đẹp nhân phẩm của người phụ nữ mang thiên chức làm mẹ.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền không chỉ nổi bật với một Giăng Van-giăng có tình yêu thương bao la, sẵn sàng hi sinh vì mọi người mà còn nổi bật lên một Phăng-tin có tâm hồn đẹp đẽ. Phăng-tin là người có số phận bi kịch và bất hạnh nhất trong thiên tiểu thuyết này. Dù chỉ là một đoạn trích ngắn như số phận cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị đã được bộc lộ.
Phăng-tin là một người con gái xinh đẹp, dù không có cha mẹ, nhưng cô vẫn sống hết sức đúng mực, cư xử lễ độ. Cô sống và yêu hết mình, bằng một tình yêu chân thành, mãnh liệt. Nhưng số phận trêu đùa, khi cô có con thì cũng là lúc kẻ bội bạc người yêu cô ruồng bỏ. Cô phải một mình chống cự lại xã hội đầy hiểm ác để nuôi con khôn lớn. Làm việc tại xí nghiệp, khi bị phát hiện có con mà không có chồng cô đã bị đuổi đi một cách vô lí. Và cho đến lúc chết cô cũng không được chết một cách thanh thản, bởi đứa con mà cô yêu quý, sẵn sàng hi sinh cho nó vẫn chưa tìm thấy; cô chết trong hoảng loạn, khi phải thấy mặt Gia-ve, bị trấn áp về tinh thần. Số phận của Phăng-tin bạc bẽo, bất hạnh, cô bất hạnh từ lúc sinh ra cho đến cả khi cô nhắm mắt xuôi tay.
Phăng-tin là người phụ nữ yêu thương con vô hạn, sẵn sàng hi sinh tất cả vì con. Phăng-tin sẵn sàng bán răng, bán tóc, bán cả danh dự và nhân phẩm để nuôi con khôn lớn. Cô đã đau đớn biết chừng nào khi mỗi lá thư cô đọc được nói con cô bị rét vì không có áo mặc, bị ốm vì không có thuốc uống,… lúc ấy tâm hồn cô như điên loạn, vì yêu vì thương cho con. Vì con cô đã làm đến lao lực và phải cận kề cái chết.
Trong thời gian nằm trên giường bệnh, Phăng-tin vẫn không nguôi niềm hi vọng sẽ được nhìn thấy con một lần. Niềm tin tưởng của chị đặt cả vào Giăng Van-giăng, chị tin rằng nhất định ông thị trưởng sẽ đem con chị trở về. Có lẽ nếu không có sợi dây niềm tin ấy thì tử thần đã cướp chị đi từ lâu. Nhưng chính tên Gia-ve đã dập tắt mọi niềm tin, mọi sự hi vọng của chị đối với cuộc sống này. Chị đau đớn khôn cùng: “Con tôi! Chị kêu lên. Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây!….”. Lời thoại bị ngắt thành nhiều câu ngắn, như lời nói đầy uất nghẹn, đau đớn đến tột cùng của chị Phăng-tin. Chị đau đớn nhìn ông thị trưởng như cầu cứu, như mong mỏi ông thị trưởng hãy cho chị biết lời của kẻ ác thú kia ông phải là sự thật. Tột cùng của nỗi đau, chị ngã xuống gối, đầu đập vào thành giường và chị đã ra đi mãi mãi. Chính Gia-ve là người gây ra cái chết đầy thương tâm cho người phụ nữ bất hạnh. Chị chết đi, đôi tay buông thõng, lời thì thầm của Giăng Van-giăng đã khiến khuôn mặt chị “nở nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Đây là hình ảnh lãng mạn nhất trong toàn bài, không ai rõ Giăng Van-giăng đã nói gì với chị Phăng-tin, phải chăng đó là lời hứa nhất định sẽ tìm và nuôi dưỡng đứa con cho chị. Có lẽ là như vậy thì chị mới nở nụ cười mãn nguyện và ra đi thanh thản đến như vậy.
Nhân vật Phăng-tin được xây dựng là chất xúc tác thúc đẩy câu chuyện phát triển. Đồng thời với nhân vật này, đã làm rõ chân dung của hai nhân vật trung tâm là Giăng Van-giăng và Gia-ve. Dù chỉ là nhân vật phụ, song nhân vật Phăng-tin cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cốt truyện và thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Nhân vật Phăng-tin không được tác giả khắc họa trong tâm trạng, mà chủ yếu khắc họa trong ngôn ngữ, hành động. Phăng-tin là người phụ nữa có tình yêu thương con tha thiết, sâu nặng, sẵn sàng hi sinh vì con. Đồng thời với nhân vật này, nhà văn cũng thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với những người phụ nữ trong xã hội cũ, lên án suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu đã đẩy con người đến chỗ chết.
Đề bài: Tóm tắt trích đoạn “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”
Phăng-tin đang nằm trên giường bệnh. Gia-ve xuất hiện. Nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc ấy, chị như lịm đi, lấy tay che mặt và hãi hùng kêu lên: “Ông Ma-đơ-len, cứu tôi với!” Giăng Van-giăng nhẹ nhàng bảo Phăng-tin: “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu”.
Gia-ve giục Giăng Van-giăng “mau lên! ” Tiếng hắn không còn là tiếng người mà là tiếng thú gầm. Hắn đứng lì một chỗ mà nói. Cặp mắt hắn nhìn như cái móc sắt. Gia-ve tiến vào giữa phòng và hét lên: “Mày có đi không? ” Phăng-tin-rùng mình. Một sự lạ lùng đập vào mắt chị: Gia-ve túm lấy cố áo ông thị trưởng. Phăng-tin kêu lên: “Ông thị trưởng ơi!” thì Gia-ve phá lên cười, cái cười ghê tởm phô tất cả hai hàm răng. Gia-ve nhắc Giăng Van-giăng, phải gọi hắn là ông thanh tra và muốn nói với hắn điều gì thì phải nói to. Giăng Van-giăng xin hắn thư cho ba ngày để đi tìm đứa con gái cho Phăng-tin, nhưng hắn đã kêu lên: “Chà chà! Tao không ngờ mày lại ngốc thế!”. Nghe Phăng-tin kêu lên: “Con tôi. Đi tìm con tôi!… “, Gia-ve lại tum lấỳ cổ áo và ca-vát của
Giăng Van-giăng, rồi nói to: “Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng! Tao bắt được nó đây này! “. Phăng-tin nhìn Giăng Van-giăng, nhìn Gia-ve, nhìn bà xơ, thốt ra tiếng rên, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ rồi tắt thở.
Giăng Van-giăng cậy bàn tay Gia-ve ra khỏi cổ áo và nói: “Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó Gia-ve phát khùng hét lên: “Đi ngay không thì cùm tay lại!”. Giăng Van-giăng giật gãy chiếc giường sắt cũ nát, cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay, nhìn Gia-ve trừng trừng. Gia-ve lùi ra phía cửa. Gia-ve run sợ, nhưng mắt vẫn không rời Giăng Van-giăng.
Giăng Van-giăng ngắm nhìn Phăng-tin với một nỗi thương xót khôn xiết tả. Một lúc sau, ông ghé lại thì thầm bên tai Phăng-tin. Giăng Van-giăng nâng đầu Phăng-tin, thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải, rồi vuốt mắt cho chị. Giăng Van-giăng quỳ xuống, nhẹ nhàng nâng bàn tay Phăng-tin lên và đặt vào đấy một nụ hôn.
Rồi Giăng Van-giăng đứng dậy, quay về phía Gia-ve và nói: “Giờ thì tôi thuộc về anh “.
Đề bài: Cảm nhận của em sau khi đọc “Người cẩm quyền khôi phục uy quyền ” trích trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Huy-gô.
“Người cầm quyền khôi phục uy quyền ” trích trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô (1802 – 1885), nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch vĩ đại thuộc chủ nghĩa lãng mạn văn học Pháp trong thế kỉ XIX.
Đọc “Người cẩm quyền khôi phục uy quyền” nhân vật Gia-ve để lại cho ta bao nỗi hãi hùng. Qua cái nhìn, sự nghe thấy và ý nghĩ, cảm xúc của Phăng-tin, tác giả đã khắc hoạ tên mật thám này bằng những nét vẽ vô cùng sâu sắc, đầy ấn tượng.
Khi Phăng-tin đang nằm trên giường bệnh, xung quanh có ông Ma-đơ-len và bà xơ, đó là những người nương tựa tinh thần của ngưòi đàn bà khốn khổ này, thì Gia-ve xuất hiện bất ngờ. Phăng-tin tưởng là hắn đến bắt chị nên chị đã “kêu lên hãi hùng”. Cái mặt hắn “gớm ghiếc”. Điệu bộ hắn “man rợ va điên cuồng”. Tiếng của hắn “không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Cặp mắt của hắn nhìn “như cái móc sắt “, thật kinh khủng, bởi vì cái nhìn ấy cách đây hai tháng đã “đi thấu vào đến tận xương tuỷ chị”.
Phăng-tin sợ hãi “rùng mình” khi tên hung thần tiến vào giữa phòng và “hét lên “: “Mày cỏ đi không?”. Chị cảm thấy “cả thế giới đang tiêu tan” khi tên mật thám nắm lấy cổ áo ông thị trưởng ;và ông thị trưởng cúi đầu. Khi Phăng-tin kêu cứu ông thị trưởng thì Gia-ve “phá cười lên”, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng. Cái cười ấy là tiếng gầm gừ của một chó điên, của một con thú dữ sắp vồ mồi! Thật lạnh lùng và ghê sợ khi ta nghe nhà cầm quyền khôi phục uy quyền khẳng định: “Ở đây làm gì còn có ổng thị trưởng nữa!”
Khi Giăng Van-giăng muốn “cầu xin” Gia-ve “một điều ” thì hắn bảo phải gọi hắn là “ông thanh tra” và “phải nói to”. Giăng Van-giăng xin Gia-ve “thư cho ba ngày” để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương đang nằm trên giường bệnh, thì hắn kêu lên: “Mày nói giỡn! Chà chà! Tao không ngờ mày lại ngốc thế!… Mày bảo là để đi tìm đứa con cho con đĩ kia! Á à!..”. Khi Phăng-tin “run lên bần bật ” cất tiếng kêu thương gọi Cô-dét, gọi bà xơ, gọi ông thị trưởng, thì Gia-ve như một con thú dữ bị trúng thương, hắn “giậm chân “, hắn nhìn Phăng-tin “trừng trừng”, hắn “túm một túm lấy cổ áo và ca-vát” của Giăng Van-giăng, hắn thô lỗ gọi chị Phăng-tin là “con đĩ”, là “đồ khỉ”, hắn ra lệnh bắt chị phải “câm họng”. Với hắn thì không thể nào để tồn tại những nghịch cảnh nơi “cái xứ chó đểu “, mà phải “thay đổi hết “, không thể để nghịch cảnh “bọn tù khổ sai làm ông nọ bà kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng!” Dưới con mắt Gia-ve thì không thể có cái tên ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả, mà “chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng” mà hắn đã bắt được. Người cầm quyền, khôi phục uy quyền là thế!
Lời nói cử chỉ, hành động của tên hung thần Gia-ve đã làm cho Phăng-tin vô cùng kinh sợ, “chị thốt ra tiếng rên “, răng đánh vào nhau “cầm cập “, “chị bỗng ngã vật xuống gối, đầu đập vào thành giường rồi ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ”… tắt thở.
Tác giả đã tả cái chết của Phăng-tin để vạch trần bộ mặt độc ác, tàn nhẫn của con người thú — tên mật thám, tên thanh tra Gia-ve.
Trước phản ứng của Giăng Van-giăng như cây bàn tay của Gia-ve đang túm lấy cổ áo mình, nghiêm nghị cảnh cáo tội ác của hắn “đã giết chết” một người đàn bà tội nghiệp, thì hắn “phát khùng hét lên và hăm doạ”. Nhưng trước hành động của ông thị trưởng “giật gãy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát”, “cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng”, thì tên hung thần cũng biết sợ, hắn “lùi ra phía cửa”. Đúng là Gia-ve “run sợ”, hắn sợ người tù khổ sai đập chết.
Cái chết bất đắc kì tử của Phăng-tin, phản ứng quyết liệt của Giăng Van-giăng, sự run sợ của Gia-ve là tình huống đầy kịch tinh, vừa bi thương, vừa hài hước, mang ít nhiều ý vị triết lí: những kẻ mất tính người, độc ác như thú dữ lại là những kẻ nhát gan nhất và sợ chết nhất! Đúng là Gia-ve sợ chết! Thật là hài hước và mỉa mai: nhà cầm quyền đang hung hăng khôi phục uy quyền thì bất ngờ bị tước mất uy quyền!
Hình ảnh Gia-ve “tay nắm lấy đầu can, lương tựa vào khung cửa, mắt không rời Giăng Van-giăng ” khác nào một con chó dữ bị đánh cụp đuôi vẫn không buông mồi!
Sau khi hạ uy thế Gia-ve, Giăng Van-giăng đã dành tất cả tâm hồn mình cho người đàn bà khốn khổ vừa mới chết. Ông “tì khuỷu tay lên thành giường “, ông “đỡ lấy trán” bằng bàn tay, ông ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích. Một nỗi thương xót khôn tả, biểu lộ trong nét mặt và dáng điệu của ông. Ông yên lặng ngồi trước thi thể người đàn bà xấu số. Một lúc sau, trong trạng thái “mơ màng”, ông “cúi ghé lại gần và thì thầm bên tai Phăng-tin”. Những tiếng thì thầm ấy là những lời xót thương.
Cảnh tình cảm động ấy đã được bà xơ Xem-pli-xơ chứng kiến. Và sau này bà thường kể lại rằng ” lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.
Tình thương của Giăng Van-giăng thật mênh mông và bao la. Cử chỉ của ông thật trang trọng, thành kính và đầy thương xót. Ông “lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên đặt ngay ngắn giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con”. Giăng Van-giăng thắt lại dây rút cổ áo, vén gọn mớ tóc rồi vuốt mắt cho chị. cử chỉ xót thương và tấm lòng nhân ái của Giăng Van-giăng đã làm cho gương mặt Phăng-tin “như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
Huy-gô viết: “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại”. Phải chăng bầu ánh sáng vĩ đại ấy là tình nhân ái bao la, mênh mông của đồng loại, của những người tù khổ sai như Giăng Van-giăng trong cuộc đời.
Cái cử chỉ cuối cùng của Giăng Van-giăng đối với người đàn bà xấu số, tôi nghiệp thật vô cùng cảm động. Ông đã quỳ xuống trước hai bàn tay buông thõng ngoài giường của Phăng-tin, “nhẹ nhàng nâng lên và đặt vào đấy một nụ hôn”. Ta khẽ hỏi: Đã mấy ai trong cõi đời xưa nay có cách ứng xử đầy tình thương như người tù khổ sai này?
Câu chuyện được kể trong “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” cho thấy bút pháp tự sự đặc sắc của Huy-gô. Các nhà văn của trào lưu lãng mạn, cũng như Huy-gô sử dụng biện pháp tương phản và phóng đại một cách tài tình khi miêu tả nhân vật và biểu hiện sự vật. Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai bức hoạ tương phản và phóng đại đầy ấn tượng làm nổi bật ánh sáng và bóng tối, lòng nhân ái và sự độc ác, tình người và bản năng thú dữ. Những so sánh, những ẩn dụ được tác giả sử dụng sắc nét, tài tình. Nhân vật Giăng Van-giăng và cái chết của Phăng-tin đã làm cho trang văn của Huy-gô dào dạt cảm hứng nhân văn; chứa chan tinh thần nhân đạo.