Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Xem thêm các sách tham khảo liên quan:
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 Cực Ngắn
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 2
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp
Bài làm
I. Mở bài
– Tác giả Sô – lô – khốp là nhà văn lớn của nước Nga, được coi là nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
– Số phận con người là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của ông, tác phẩm đã cho thấy tính cách kiên cường và lòng nhân ái của con người Nga, nghị lực phi thường của họ để vượt qua những khó khăn.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh của Xô – cô – lốp
– Là một người đàn ông trải qua nhiều đau khổ trong chiến tranh:
+ Bị thương hai lần, bị bắt giam 2 năm trong trại tù binh ở Đức.
+ Sau khi thoát khỏi trại tù binh ở Đức, trở về với hồng quân liên xô, anh lại biết tin vợ và con gái đã mất do bom đạn của bọn phát xít.
+ Niềm hi vọng duy nhất của anh chính là cậu con trai, nhưng đến ngày hồng quân giành chiến thắng cũng là ngày con trai anh bị một tên thiện xạ Đức giết hại.
– Anh trở nên cô độc sau chiến tranh:
+ Không còn quê nhà, không còn nhà, không còn người thân và phải sống nhờ nhà người bạn.
+ Luôn sống trong nỗi thất vọng, cô đơn, luôn như người mất hồn “cặp mắt buồn nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm”ngày ngày tìm đến quán rượu, suýt trở thành kẻ nghiện rượu.
– Nhận xét: Xô – cô – lốp là nạn nhân của chiến tranh, chịu nỗi đau cả về thể chất và tinh thần.
2. Cuộc gặp gỡ với bé Va – ni – a và cố gắng vượt qua nỗi đau của Xô – cô – lốp
a. Sự thay đổi của Xô – cô – lốp
– Anh chú ý đến bé Va – ni – a trong những lần gặp tình cờ, qua một số câu hỏi ngẫu nhiên anh biết bé Va – ni – a mồ côi cha me, cha mẹ em đều chết trong bom đạn kẻ thù, em không còn có người thân thíc.
– Một lần gặp, anh quyết định nhận nuôi Va – ni – a vì sự cảm thương. Đây là quyết định mang tính bột phát, xuất phát từ tình yêu thương chân thành, không toan tính.
– Khi đưa đứa trẻ về nhà người bạn, hai vợ chồng họ đều rất vui, “bà chủ múc súp …nước mắt ròng ròng”. Giọt nước nước mắt của bà là sự xót thương cho cảnh ngộ của chú bé, của Xô – cô – lốp và cho chính bà.
– Bằng bàn tay vụng về của một người đàn ông, Xô – cô – lốp đã chăm sóc bé Va – ni – a một cách yêu thương, ân cần.
– Từ khi có bé Va – ni – a, anh thấy cuộc sống của mình thực sự có ý nghĩa “trở nên êm dịu hơn”. Chú bé Va – ni – a đã trở thành điểm tựa của anh.
– Thế nhưng, anh vẫn luôn day dứt về nỗi đau mất người thân yêu, cùng với việc anh bị tước bằng lái, Xô – cô – lốp quyết định cùng bé Va – ni – a đến nơi khác sống.
– Nhận xét: Tình yêu thương đã khiến con người trước kia trong anh hồi sinh, anh bắt đầu lại với một cuộc sống mới đầy ý nghĩa, ước mơ. Anh dần thoát khỏi nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Anh dùng cách.
– Nêu suy nghĩ về số phận con người: cả Xô – cô – lốp và Va – ni – a đều là những nạn nhân của chiến tranh, nhưng hai con người ấy đã nương tựa vào nhau để cùng vượt qua nỗi đau. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước?”, họ còn phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa để tìm thấy hạnh phúc.
III. Kết bài
– Nghệ thuật đặc sắc: kết cấu truyện lồng trong truyện, xây dựng nhân vật điển hình cho tính cách Nga, con người Nga, chi tiết nghệ thuật độc đáo.
– Qua số phận của Xô – cô – lốp, tác giả đã tố cáo tội ác của chiến tranh phát xít, phản ánh chân thưc cuộc sống của người lính Nga thời hậu chiến từ đó bày tỏ niềm cảm thương trước số phân của họ, đồng thời ngợi ca nghị lực, vẻ đẹp tâm hồn con người Nga.
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp.
Bài làm
Sô-lô-khốp nhà văn Nga lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1965. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, những bộ tiểu thuyết lớn và những truyện ngắn hay với cái nhìn chân thực về cuộc sống và chiến tranh. Số phận con người được sáng tác dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Liên Xô, khôi phục tinh thần dân chủ, chống sùng bái cá nhân và trong xu thế quan tâm đến số phận con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Sô – lô – khốp mang tinh thần thời đại rất rõ nét.
Xô-cô-lốp bị thương, anh bị bắt làm tù binh trong trại tập trung của phát xít Đức với những cực hình vô nhân đạo. Không chỉ vậy anh còn mất đi tất cả người thân, gia đình vì bom đạn phát xít: vợ và hai con gái. Đây có lẽ là nỗi đau đớn lớn nhất cuộc đời anh, những vết thương về thể xác có thể lành theo năm tháng, còn những mất mát, đau thương về tinh thần thi năm tháng cũng không thể chữa lành. Và niềm an ủi duy nhất, cuối cùng cho tầm hồn đầy đau thương ấy là đứa con trai xuất sắc, là đại úy pháo binh, là học sinh học giỏi toán lại bị tên thiện xạ Đức bắn trúng ngay trong khoảnh khắc chiến thắng. Anh phải chôn niềm hi vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh không còn lấy một người thân ở bên cạnh, nỗi cô đơn, trống trãi, hụt hẫng bủa vây lấy người đàn ông này.
Bởi vì quá đau thương, anh không dám trở về quê hương. Mảnh đất quê hương gắn với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của anh và gia đình, nếu anh trở về đó, từng mảnh kí ức ùa về, có lẽ anh sẽ không thể sống nổi. Chính vì vậy Xô-cô-lốp lựa chọn cách đến ở nhờ nhà bạn, đề vợi bớt nỗi đau đớn và u buồn. Tại anh anh làm nghề lái xe để mưu sinh và trong những ngày đó anh bắt đầu nghiện rượu, anh tìm đến rượu để quên đi quá khứ, chạy trốn những kí ức đeo bám anh. Nhưng anh càng chạy trốn, càng tìm đến rượu thì quá khứ càng ám ảnh anh bấy nhiêu. Sau đó Xô-cô-lốp bị mất bằng lái, anh thất nghiệp nên đã di chuyển đến một vùng đất khác để sinh sống. Những vết tích mà chiến tranh để lại đã hằn in trên đôi mắt màu tro đượm buồn của anh.
Bé Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh khác, bố mẹ em chết vì bom đạn phát-xít. Va-ni-a trở thành một đứa trẻ mồ côi, không nơi tương tựa, em sống lang thang trên đường phố, cuộc sống hết sức cơ cực “bạ đâu ngủ đấy, ai cho gì thì ăn nấy”. Cả Va-ni-a và Xô-cô-lốp đều là những nạn nhân của chiến tranh phát-xít, họ bị mất gia đình, người thân, sống cuộc đời cô đơn, trơ trọi, nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực họ sẽ bị cuộc đời vùi dập.
Số phận đau thương, bất hạnh đã khiến cho hai con người người ấy gặp nhau, bằng tình yêu thương Xô-cô-lốp đã quyết định nhận bé Va-ni-a làm con. Xô-cô-lốp mang hạnh phúc vô bờ bến cho bé Va-ni-a. Em “nhảy chồ lên cổ, hôn vào má vào môi vào trán, như con chim chích ó ríu rít líu lo vang rội cả buồng lái…”. Quyết định ấy không chỉ mang lại niềm vui cho bé Va-ni-a mà còn đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho Xô-cô-lốp, sau biết bao nhiêu năm lấy rượu để quên đi, để chìm vào giấc ngủ, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm anh được ngủ một cách ngon lành… Bằng tình yêu thương, hai con người bị khuyết thiếu tình yêu thương ấy đã bù đắp, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Anh luôn quan tâm, dành tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc cho Va – ni – a: lấy xà phòng rửa tay trước khi đặt ngồi vào bàn ăn, đưa tới hiệu cắt tóc tắm rửa, chạy ra cửa hàng tạp hóa mua một chiếc quần dạ vào lúc trời đang rất nóng… Bởi khi mang hạnh phúc đến cho Va-ni-a cũng chính là mang lại hạnh phúc cho chính anh.
Không chỉ tình yêu thương, mà cả nghị lực kiên cường đã giúp Xô-cô-lốp vượt lên số phận đầy đau thương của mình. Gia đình anh đều bị bom đạn phát-xít cướp mất tính mạng, chỉ con một mình anh cô độc trong cuộc đời, trái tim đã dần trở nên yếu đuối, chán nản, có những lúc tưởng như bỏ cuộc. Sức khỏe của anh ngày một đi xuống, con tim bỗng nhiên nhói lên, thắt lại giữa ban ngày, khiến anh tối sầm mặt lại. Anh lo lắng rồi một ngày không xa cái chết sẽ đến và anh còn lo hơn cho bé Va-ni-a, anh chết, bé sẽ rơi vào cảnh cô đơn, lang thang, điều này còn làm anh lo lắng gấp bội. Không chỉ vậy, những ám ảnh quá khứ vẫn đeo bám anh, dù đã cố gắng nhưng nó vẫn lẩn khuất hiện về. Hầu như đêm nào anh cũng gặp lại những giấc chiêm bao về vợ con. Tuy nhiên luôn phải giấu diếm, che đậy nỗi đau, không muốn để Va-ni-a nhìn thấy mình khóc, để giữ niềm vui trọn vẹn cho Va- ni- a. Ý chí nghị lực của anh còn thể hiện trong lần anh mất bằng lái, thay vì chán nản, bi quan, than vãn, đổ lỗi cho số phận, anh lại mang đứa con trai của anh đến những vùng đất mới để giải quyết việc trước mắt là mưu sinh bằng nghề nghiệp khác, và cũng là để quên đi nỗi đau quá khứ. Ý chí nghị lực đã giúp anh vượt qua nỗi đau, những trớ trêu của số phận để tiếp tục sống, nuôi dưỡng bé Va-ni-a trưởng thành. Ý chí nghị lực của anh cũng chính là bản tính tiêu biểu của con người Nga.
Tác phẩm dùng lối kể truyện, truyện lồng trong truyện vô cùng đặc sắc. Giúp cho câu chuyện vừa chân thật, vừa dạt dào tình cảm. Đặc biệt với mỗi lối kể sẽ đem đến những hiểu quả khác nhau. Khi Xô-cô-lốp kể chuyện giọng điệu, ngôn ngữ sẽ nương theo đặc điểm của người lính, người lái xe, giúp cho nhân vật hiện lên sinh động, tự nhiên hơn. Khi chọn ngôi kể là tác giả câu chuyện sẽ được thuật lại khách quan, chân thực hơn.
Dù chỉ là trích đoạn nằm ở cuối tác phẩm nhưng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả. Sô-lô-cốp kêu gọi, nhắc nhở sự quan tâm cả toàn xã hội đối với những cá nhân, những số phận con người như Xô-cô-lốp đã hi sinh tất cả để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Đồng thời lên án bão tố chiến tranh phi nghĩa với sức mạnh phũ phàng của nó và nó vẫn có ý nghĩa thời sự tới tận ngày nay.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Số phận con người của Sô-lô-khốp
Bài làm
Số phận con người là một trong những tác phẩm nổi bật, làm nên tên tuổi của Sô-lô-khốp. Hình ảnh Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a đã khiến người đọc biết bao xúc động, về tình yêu thương, về lòng nhân đạo giữa con người với con người.
Chiến tranh xảy ra, là một chàng thành niên trẻ tuổi, Xô-cô-lốp cũng nhưng hàng triệu thanh niên khác cũng cảm lên đường cầm vũ khí chiến đấu. Trong những năm tháng chiến tranh anh cũng phải trải qua biết bao gian truân, cực khổ thậm chí cả thất bại. Bị chiến tranh tàn phá thân thể, anh bị thương hai lần vào chân và tay, rồi bị giặc bắt và đày đọa gần hai năm ở những trại tập trung khác nhau. Xô-cô-lốp giữ được mạng sống quả là một điều thần kì khi có hàng trăm người bỏ mạng.
Sau năm năm chiến chiến tranh, gia đình Xô-cô-lốp cũng nhưng rất nhiều gia đình khác chịu cảnh li tán và mất mát. Vợ và hai con gái bị giặc ném bom giết hại. Người con trai duy nhất, niềm hi vọng cuối cùng của anh cuối cùng cũng ngã xuống trong trận chiến cuối cùng. Chiến tranh kết thúc cũng cuốn phăng gia đình anh, cuốn phăng khao khát được trở về nhà. Bởi nhà anh đầu còn nữa. Bé Va-ni-a cũng là hiện thân tiêu biểu khác của thảm họa chiến tranh: cha chết ở mặt trận, mẹ “bị bom chết trên tài hỏa khi mẹ con cháu đang đi tài”. Cuộc sống Va-ni-a cực khổ thiếu thốn tình thương, lấm lem, bẩn thỉu
Cuộc đời của họ được tác giả miểu tả thật sự chân thật và đầy xúc động. Đã lên án tố cáo chiến tranh phi nghĩa, lột tả bộ mặt thật của nó. Cướp đi gia đình, cướp đi tương lai của một thanh niên, cướp đi hi vọng của người bố. Chỉ để lại một khoảng trống rỗng đến vô cùng.
Sau chiến tranh, sức khỏe của Xô-cô-lốp yếu đi rất nhiều, “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”, những giấc mơ kinh hoàng cứ quẩn quanh lấy tâm trí hai con người tội nghiệp. Bé Va-ni-a đôi lúc thất thần, tư lự, rồi thở dài. Thật chẳng giống tâm tư của một đứa bé. Còn Xô-cô-lốp đêm nào cũng mo wthaays những người đã mắt, gặp lại vợ con sau hàng dây thép gai, gối đẫm nước mắt anh hàng đêm. Cả hai đều trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của báo tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ”.
Xô-cô-lốp sống trong đau đớn, khổ sở sau chiến tranh, tưởng chừng như không có gì có thể cứu vớt anh được nữa, thì tình cờ Xô-cô-lốp gặp được bé Va-ni-a “đầu tóc rối bù, rách bươm xơ mướp” sống bơ vơ, vất vưởng. Đặc biệt là khi Xô-cô-lốp nhìn thấy cặp mặt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”. Xô-cô-lốp đã nảy sinh tình cảm với bé Va-ni-a đó là thích là nhớ, khi đi đâu anh cũng đi thật nhanh để về gặp nó. Và cuối cùng anh quyết định: “không thể cho nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con”. Một quyết định tràn đầy tình yêu thương. Và quyết định đó đã đêm đến một cuộc sống khác cho cả hai con người tội nghiệp này.
“Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn và đau khổ, nay mềm dịu hơn”. Và-ni-a chính là liều thuốc hữu hiệu đem đến hạnh phúc cho Xô-cô-lốp. Cậu như chú chim sẻ non khẽ rúc vào nách bố, đêm lại hạnh phúc cho con người này.
Truyện được viết với những tình tiết chân thực, mô tả bộ mặt thật của chiến tranh. Kết cấu truyện lồng trong truyện đã tô đậm những đau khổ, bất hạnh, cũng như phẩm chất sáng ngời của nhân vật Xô-cô-lốp.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hai con người này đã để lại biết bao dư âm cho người đọc. Đó là tình yêu thương, là sức mạnh để vượt qua mọi khó khan trong cuộc đời. Tác phẩm cũng là bài ca ca ngợi hững người lao động sau khói lửa chiến tranh. Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích tác phẩm Số phận con người của Sô-lô-khốp.
Bài làm
Nhà văn Sô-lô-khốp (1905 – 1984), ông là một nhà văn Xô Viết lỗi lạc, vinh dự hơn khi ông được nhận giải thưởng Nô- Ben về văn học năm 1965. Đồng thời ông được liệt vào danh sách những nhà văn lớn. Tác phẩm của ông để lại gồm những tập truyện, tiểu thuyết lớn và tiêu biểu trong số đó có tác phẩm số phận con người. Qua tác phẩm ấy ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh. Từ khi ra đời có trên mặt báo Sự Thật cho đến nay tác phẩm vẫn còn nguyên những giá trị ý nghĩa của mình.
Nhân vật chính trong truyện chính là nhân vật Xô cô lốp. Anh là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh không còn gì cả, người thân, nhà cửa, bạn bè không còn ai hết. Đối với anh mà nói một lòng chiến đấu vì quê hương đất nước cũng chính là bảo vệ người thân của mình vậy mà giờ đây những người thân yêu của anh đều từ bỏ anh mà đi, bom đạn kia đã cướp họ khỏi anh.
Chính vì thế mà anh phải sống một cuộc sống đau khổ. Trong chiến đấu anh cũng phải chịu những bất hạnh đó là hai lần anh bị thương và tiếp tục bị đày đọa hai năm trong trại tập trung của phát xít Nhật. Vợ và hai người con gái của anh bị bom phát xít cướp đi tính mạng. Anh chỉ còn niềm hi vọng vào người con trai cả là A- na-tô-li thì anh ấy cũng bị chết trận năm 1945.
Như vậy có thể thấy số phân của anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những khổ cực về thể xác rồi mà đến khi chiến tranh kết thúc mọi nhà sống trong độc lập thì với anh lại là niềm đau khổ về tinh thần vì những người thân yêu của anh đều bị chiến tranh cướp đi mất rồi. Anh tuyệt vọng trước những đau khổ của cuộc đời. từ đó ta thấy được hậu quả của chiến tranh để lại thật sự rất đau lòng.
Sau chiến tranh anh không còn nhà cửa, không còn người thân cho nên anh phải ở nhờ một người đồng chí cũ. Anh phải tìm đến rượu để dịu bớt nỗi đau của mình. Tóm lại sau chiến tranh anh phải sống một cảnh sống cô đơn và bế tắc.
Và trong một lần tình cờ hay do duyên trời run rủi cho anh gặp bé Va ni a. Nhà văn miêu tả ngoại hình của chú bé bằng những lời văn chân thực nhất để từ đó thấy được hậu quả kinh khủng của chiến tranh để lại. Chú bé khoảng năm đến sáu tuổi. Chú hiện lên trong bô dạng quần áo rách bươm xơ mướp, mặt mũi thì bê bết lem luốc…duy nhất chỉ có căp mắt là sáng ngời. Cậu bé ấy cũng có một hoàn cảnh vô cùng thương tâm. Cả cha và mẹ của cậu bé đều chết trong chiến tranh. Cùng có người thân bị mất nhưng ít ra Xô cô lốp còn có sức mà lao động còn cậu bé kia làm sao có thể lao động được. Cậu còn quá nhỏ. Cậu sống vạ vật, ai cho gì ăn đấy, bạ đâu ngủ đấy. Và duyên phận như cho họ gặp nhau để bù đắp cho nhau những tình thương mà mình đã mất đi. Xô cô lốp cảm thương tình cảnh của Va ni a cho nên anh quyết định nhận cậu làm con nuôi. Cả hai người chủ nhà của xô cô lốp cũng đồng tình với hành động nhân ái ấy. Và anh như quên đi mọi đau khổ mà dành cho bé Va ni a những tình thương sự tận tình chu đáo. Anh mua quần áo cho cậu bé, một chiếc áo bành tô rất đẹp. Chính lòng nhân ái đã đem hai trái tim gần nhau sưởi ấm cho nhau.
Thế rồi anh cố gắng kiếm sống để nuôi bé Va ni a nhưng cuộc sống hay số phận anh khổ đau. Anh vượt lên những nỗi đau, xe anh quệt nhẹ người ta mà anh bi tước bằng lái, anh mất việc nên phải đi lang bạc kiếm sống. Đã thế thể chất sức khỏe của anh cũng giảm đi trông thấy. Anh đau đến khóc thế nhưng anh vẫn cố gắng không để cho bé Va ni a biết. Trước mặt cậu anh vẫn tỏ ra bình thường. Dường như nhà văn đang nhìn anh với một ánh mắt nhân đạo, anh đã không để cho bé Va ni a phải khóc, điều đó thể hiện một sự hi sinh của người cha.
Đến đoạn cuối tác phẩm thì nhà văn như thể hiện sự đồng cảm thương xót của mình với nhân vật. Tác giả không thể nào giấu được những cảm xúc của bản thân mình trước những tình cảnh cũng như tình cảm của hai cha con mà thốt lên: ” Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…” Hai người côi cút đã tìm đến nhau chia sẻ cho nhau những niềm yêu thương trong cuộc sống. Đoạn văn thể hiện sự khâm phục những tính cách con người Nga kiên cường trước những khó khăn của cuộc sống. Trong hoàn cảnh đói nghèo đau khổ nhưng vẫn trao cho nhau những tình yêu thương nhân ái để chạm tay đến hạnh phúc.
Như vậy có thể nói qua đây ta thấy được số phận con người sau chiến tranh đau khổ như thế nào. Người lính đã trải qua những khó khăn trên chiến trường rồi tưởng rằng chiến tranh kết thúc sẽ được đoàn tụ thì người thân cũng bị chiến tranh cướp đi. Xô cô lốp cùng bé Va ni a chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Đồng thời qua tác phẩm này nhà văn kêu gọi mọi người nên có trách nhiệm với số phận của những con người như thế.
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp.
I. Mở bài
– Tác giả Sô – lô – khốp là nhà văn lớn của nước Nga, được coi là nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
– Số phận con người là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của ông, tác phẩm đã cho thấy tính cách kiên cường và lòng nhân ái của con người Nga, nghị lực phi thường của họ để vượt qua những khó khăn.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh của Xô – cô – lốp
– Là một người đàn ông trải qua nhiều đau khổ trong chiến tranh:
+ Bị thương hai lần, bị bắt giam 2 năm trong trại tù binh ở Đức.
+ Sau khi thoát khỏi trại tù binh ở Đức, trở về với hồng quân liên xô, anh lại biết tin vợ và con gái đã mất do bom đạn của bọn phát xít.
+ Niềm hi vọng duy nhất của anh chính là cậu con trai, nhưng đến ngày hồng quân giành chiến thắng cũng là ngày con trai anh bị một tên thiện xạ Đức giết hại.
– Anh trở nên cô độc sau chiến tranh:
+ Không còn quê nhà, không còn nhà, không còn người thân và phải sống nhờ nhà người bạn.
+ Luôn sống trong nỗi thất vọng, cô đơn, luôn như người mất hồn “cặp mắt buồn nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm”ngày ngày tìm đến quán rượu, suýt trở thành kẻ nghiện rượu.
– Nhận xét: Xô – cô – lốp là nạn nhân của chiến tranh, chịu nỗi đau cả về thể chất và tinh thần.
2. Cuộc gặp gỡ với bé Va – ni – a và cố gắng vượt qua nỗi đau của Xô – cô – lốp
a. Sự thay đổi của Xô – cô – lốp
– Anh chú ý đến bé Va – ni – a trong những lần gặp tình cờ, qua một số câu hỏi ngẫu nhiên anh biết bé Va – ni – a mồ côi cha me, cha mẹ em đều chết trong bom đạn kẻ thù, em không còn có người thân thíc.
– Một lần gặp, anh quyết định nhận nuôi Va – ni – a vì sự cảm thương. Đây là quyết định mang tính bột phát, xuất phát từ tình yêu thương chân thành, không toan tính.
– Khi đưa đứa trẻ về nhà người bạn, hai vợ chồng họ đều rất vui, “bà chủ múc súp …nước mắt ròng ròng”. Giọt nước nước mắt của bà là sự xót thương cho cảnh ngộ của chú bé, của Xô – cô – lốp và cho chính bà.
– Bằng bàn tay vụng về của một người đàn ông, Xô – cô – lốp đã chăm sóc bé Va – ni – a một cách yêu thương, ân cần.
– Từ khi có bé Va – ni – a, anh thấy cuộc sống của mình thực sự có ý nghĩa “trở nên êm dịu hơn”. Chú bé Va – ni – a đã trở thành điểm tựa của anh.
– Thế nhưng, anh vẫn luôn day dứt về nỗi đau mất người thân yêu, cùng với việc anh bị tước bằng lái, Xô – cô – lốp quyết định cùng bé Va – ni – a đến nơi khác sống.
– Nhận xét: Tình yêu thương đã khiến con người trước kia trong anh hồi sinh, anh bắt đầu lại với một cuộc sống mới đầy ý nghĩa, ước mơ. Anh dần thoát khỏi nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Anh dùng cách.
– Nêu suy nghĩ về số phận con người: cả Xô – cô – lốp và Va – ni – a đều là những nạn nhân của chiến tranh, nhưng hai con người ấy đã nương tựa vào nhau để cùng vượt qua nỗi đau. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước?”, họ còn phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa để tìm thấy hạnh phúc.
III. Kết bài
– Nghệ thuật đặc sắc: kết cấu truyện lồng trong truyện, xây dựng nhân vật điển hình cho tính cách Nga, con người Nga, chi tiết nghệ thuật độc đáo.
– Qua số phận của Xô – cô – lốp, tác giả đã tố cáo tội ác của chiến tranh phát xít, phản ánh chân thưc cuộc sống của người lính Nga thời hậu chiến từ đó bày tỏ niềm cảm thương trước số phân của họ, đồng thời ngợi ca nghị lực, vẻ đẹp tâm hồn con người Nga.
Sô-lô-khốp nhà văn Nga lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1965. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, những bộ tiểu thuyết lớn và những truyện ngắn hay với cái nhìn chân thực về cuộc sống và chiến tranh. Số phận con người được sáng tác dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Liên Xô, khôi phục tinh thần dân chủ, chống sùng bái cá nhân và trong xu thế quan tâm đến số phận con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Sô – lô – khốp mang tinh thần thời đại rất rõ nét.
Xô-cô-lốp bị thương, anh bị bắt làm tù binh trong trại tập trung của phát xít Đức với những cực hình vô nhân đạo. Không chỉ vậy anh còn mất đi tất cả người thân, gia đình vì bom đạn phát xít: vợ và hai con gái. Đây có lẽ là nỗi đau đớn lớn nhất cuộc đời anh, những vết thương về thể xác có thể lành theo năm tháng, còn những mất mát, đau thương về tinh thần thi năm tháng cũng không thể chữa lành. Và niềm an ủi duy nhất, cuối cùng cho tầm hồn đầy đau thương ấy là đứa con trai xuất sắc, là đại úy pháo binh, là học sinh học giỏi toán lại bị tên thiện xạ Đức bắn trúng ngay trong khoảnh khắc chiến thắng. Anh phải chôn niềm hi vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh không còn lấy một người thân ở bên cạnh, nỗi cô đơn, trống trãi, hụt hẫng bủa vây lấy người đàn ông này.
Bởi vì quá đau thương, anh không dám trở về quê hương. Mảnh đất quê hương gắn với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của anh và gia đình, nếu anh trở về đó, từng mảnh kí ức ùa về, có lẽ anh sẽ không thể sống nổi. Chính vì vậy Xô-cô-lốp lựa chọn cách đến ở nhờ nhà bạn, đề vợi bớt nỗi đau đớn và u buồn. Tại anh anh làm nghề lái xe để mưu sinh và trong những ngày đó anh bắt đầu nghiện rượu, anh tìm đến rượu để quên đi quá khứ, chạy trốn những kí ức đeo bám anh. Nhưng anh càng chạy trốn, càng tìm đến rượu thì quá khứ càng ám ảnh anh bấy nhiêu. Sau đó Xô-cô-lốp bị mất bằng lái, anh thất nghiệp nên đã di chuyển đến một vùng đất khác để sinh sống. Những vết tích mà chiến tranh để lại đã hằn in trên đôi mắt màu tro đượm buồn của anh.
Bé Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh khác, bố mẹ em chết vì bom đạn phát-xít. Va-ni-a trở thành một đứa trẻ mồ côi, không nơi tương tựa, em sống lang thang trên đường phố, cuộc sống hết sức cơ cực “bạ đâu ngủ đấy, ai cho gì thì ăn nấy”. Cả Va-ni-a và Xô-cô-lốp đều là những nạn nhân của chiến tranh phát-xít, họ bị mất gia đình, người thân, sống cuộc đời cô đơn, trơ trọi, nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực họ sẽ bị cuộc đời vùi dập.
Số phận đau thương, bất hạnh đã khiến cho hai con người người ấy gặp nhau, bằng tình yêu thương Xô-cô-lốp đã quyết định nhận bé Va-ni-a làm con. Xô-cô-lốp mang hạnh phúc vô bờ bến cho bé Va-ni-a. Em “nhảy chồ lên cổ, hôn vào má vào môi vào trán, như con chim chích ó ríu rít líu lo vang rội cả buồng lái…”. Quyết định ấy không chỉ mang lại niềm vui cho bé Va-ni-a mà còn đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho Xô-cô-lốp, sau biết bao nhiêu năm lấy rượu để quên đi, để chìm vào giấc ngủ, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm anh được ngủ một cách ngon lành… Bằng tình yêu thương, hai con người bị khuyết thiếu tình yêu thương ấy đã bù đắp, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Anh luôn quan tâm, dành tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc cho Va – ni – a: lấy xà phòng rửa tay trước khi đặt ngồi vào bàn ăn, đưa tới hiệu cắt tóc tắm rửa, chạy ra cửa hàng tạp hóa mua một chiếc quần dạ vào lúc trời đang rất nóng… Bởi khi mang hạnh phúc đến cho Va-ni-a cũng chính là mang lại hạnh phúc cho chính anh.
Không chỉ tình yêu thương, mà cả nghị lực kiên cường đã giúp Xô-cô-lốp vượt lên số phận đầy đau thương của mình. Gia đình anh đều bị bom đạn phát-xít cướp mất tính mạng, chỉ con một mình anh cô độc trong cuộc đời, trái tim đã dần trở nên yếu đuối, chán nản, có những lúc tưởng như bỏ cuộc. Sức khỏe của anh ngày một đi xuống, con tim bỗng nhiên nhói lên, thắt lại giữa ban ngày, khiến anh tối sầm mặt lại. Anh lo lắng rồi một ngày không xa cái chết sẽ đến và anh còn lo hơn cho bé Va-ni-a, anh chết, bé sẽ rơi vào cảnh cô đơn, lang thang, điều này còn làm anh lo lắng gấp bội. Không chỉ vậy, những ám ảnh quá khứ vẫn đeo bám anh, dù đã cố gắng nhưng nó vẫn lẩn khuất hiện về. Hầu như đêm nào anh cũng gặp lại những giấc chiêm bao về vợ con. Tuy nhiên luôn phải giấu diếm, che đậy nỗi đau, không muốn để Va-ni-a nhìn thấy mình khóc, để giữ niềm vui trọn vẹn cho Va- ni- a. Ý chí nghị lực của anh còn thể hiện trong lần anh mất bằng lái, thay vì chán nản, bi quan, than vãn, đổ lỗi cho số phận, anh lại mang đứa con trai của anh đến những vùng đất mới để giải quyết việc trước mắt là mưu sinh bằng nghề nghiệp khác, và cũng là để quên đi nỗi đau quá khứ. Ý chí nghị lực đã giúp anh vượt qua nỗi đau, những trớ trêu của số phận để tiếp tục sống, nuôi dưỡng bé Va-ni-a trưởng thành. Ý chí nghị lực của anh cũng chính là bản tính tiêu biểu của con người Nga.
Tác phẩm dùng lối kể truyện, truyện lồng trong truyện vô cùng đặc sắc. Giúp cho câu chuyện vừa chân thật, vừa dạt dào tình cảm. Đặc biệt với mỗi lối kể sẽ đem đến những hiểu quả khác nhau. Khi Xô-cô-lốp kể chuyện giọng điệu, ngôn ngữ sẽ nương theo đặc điểm của người lính, người lái xe, giúp cho nhân vật hiện lên sinh động, tự nhiên hơn. Khi chọn ngôi kể là tác giả câu chuyện sẽ được thuật lại khách quan, chân thực hơn.
Dù chỉ là trích đoạn nằm ở cuối tác phẩm nhưng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả. Sô-lô-cốp kêu gọi, nhắc nhở sự quan tâm cả toàn xã hội đối với những cá nhân, những số phận con người như Xô-cô-lốp đã hi sinh tất cả để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Đồng thời lên án bão tố chiến tranh phi nghĩa với sức mạnh phũ phàng của nó và nó vẫn có ý nghĩa thời sự tới tận ngày nay.
Số phận con người là một trong những tác phẩm nổi bật, làm nên tên tuổi của Sô-lô-khốp. Hình ảnh Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a đã khiến người đọc biết bao xúc động, về tình yêu thương, về lòng nhân đạo giữa con người với con người.
Chiến tranh xảy ra, là một chàng thành niên trẻ tuổi, Xô-cô-lốp cũng nhưng hàng triệu thanh niên khác cũng cảm lên đường cầm vũ khí chiến đấu. Trong những năm tháng chiến tranh anh cũng phải trải qua biết bao gian truân, cực khổ thậm chí cả thất bại. Bị chiến tranh tàn phá thân thể, anh bị thương hai lần vào chân và tay, rồi bị giặc bắt và đày đọa gần hai năm ở những trại tập trung khác nhau. Xô-cô-lốp giữ được mạng sống quả là một điều thần kì khi có hàng trăm người bỏ mạng.
Sau năm năm chiến chiến tranh, gia đình Xô-cô-lốp cũng nhưng rất nhiều gia đình khác chịu cảnh li tán và mất mát. Vợ và hai con gái bị giặc ném bom giết hại. Người con trai duy nhất, niềm hi vọng cuối cùng của anh cuối cùng cũng ngã xuống trong trận chiến cuối cùng. Chiến tranh kết thúc cũng cuốn phăng gia đình anh, cuốn phăng khao khát được trở về nhà. Bởi nhà anh đầu còn nữa. Bé Va-ni-a cũng là hiện thân tiêu biểu khác của thảm họa chiến tranh: cha chết ở mặt trận, mẹ “bị bom chết trên tài hỏa khi mẹ con cháu đang đi tài”. Cuộc sống Va-ni-a cực khổ thiếu thốn tình thương, lấm lem, bẩn thỉu
Cuộc đời của họ được tác giả miểu tả thật sự chân thật và đầy xúc động. Đã lên án tố cáo chiến tranh phi nghĩa, lột tả bộ mặt thật của nó. Cướp đi gia đình, cướp đi tương lai của một thanh niên, cướp đi hi vọng của người bố. Chỉ để lại một khoảng trống rỗng đến vô cùng.
Sau chiến tranh, sức khỏe của Xô-cô-lốp yếu đi rất nhiều, “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”, những giấc mơ kinh hoàng cứ quẩn quanh lấy tâm trí hai con người tội nghiệp. Bé Va-ni-a đôi lúc thất thần, tư lự, rồi thở dài. Thật chẳng giống tâm tư của một đứa bé. Còn Xô-cô-lốp đêm nào cũng mo wthaays những người đã mắt, gặp lại vợ con sau hàng dây thép gai, gối đẫm nước mắt anh hàng đêm. Cả hai đều trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của báo tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ”.
Xô-cô-lốp sống trong đau đớn, khổ sở sau chiến tranh, tưởng chừng như không có gì có thể cứu vớt anh được nữa, thì tình cờ Xô-cô-lốp gặp được bé Va-ni-a “đầu tóc rối bù, rách bươm xơ mướp” sống bơ vơ, vất vưởng. Đặc biệt là khi Xô-cô-lốp nhìn thấy cặp mặt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”. Xô-cô-lốp đã nảy sinh tình cảm với bé Va-ni-a đó là thích là nhớ, khi đi đâu anh cũng đi thật nhanh để về gặp nó. Và cuối cùng anh quyết định: “không thể cho nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con”. Một quyết định tràn đầy tình yêu thương. Và quyết định đó đã đêm đến một cuộc sống khác cho cả hai con người tội nghiệp này.
“Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn và đau khổ, nay mềm dịu hơn”. Và-ni-a chính là liều thuốc hữu hiệu đem đến hạnh phúc cho Xô-cô-lốp. Cậu như chú chim sẻ non khẽ rúc vào nách bố, đêm lại hạnh phúc cho con người này.
Truyện được viết với những tình tiết chân thực, mô tả bộ mặt thật của chiến tranh. Kết cấu truyện lồng trong truyện đã tô đậm những đau khổ, bất hạnh, cũng như phẩm chất sáng ngời của nhân vật Xô-cô-lốp.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hai con người này đã để lại biết bao dư âm cho người đọc. Đó là tình yêu thương, là sức mạnh để vượt qua mọi khó khan trong cuộc đời. Tác phẩm cũng là bài ca ca ngợi hững người lao động sau khói lửa chiến tranh. Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Nhà văn Sô-lô-khốp (1905 – 1984), ông là một nhà văn Xô Viết lỗi lạc, vinh dự hơn khi ông được nhận giải thưởng Nô- Ben về văn học năm 1965. Đồng thời ông được liệt vào danh sách những nhà văn lớn. Tác phẩm của ông để lại gồm những tập truyện, tiểu thuyết lớn và tiêu biểu trong số đó có tác phẩm số phận con người. Qua tác phẩm ấy ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh. Từ khi ra đời có trên mặt báo Sự Thật cho đến nay tác phẩm vẫn còn nguyên những giá trị ý nghĩa của mình.
Nhân vật chính trong truyện chính là nhân vật Xô cô lốp. Anh là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh không còn gì cả, người thân, nhà cửa, bạn bè không còn ai hết. Đối với anh mà nói một lòng chiến đấu vì quê hương đất nước cũng chính là bảo vệ người thân của mình vậy mà giờ đây những người thân yêu của anh đều từ bỏ anh mà đi, bom đạn kia đã cướp họ khỏi anh.
Chính vì thế mà anh phải sống một cuộc sống đau khổ. Trong chiến đấu anh cũng phải chịu những bất hạnh đó là hai lần anh bị thương và tiếp tục bị đày đọa hai năm trong trại tập trung của phát xít Nhật. Vợ và hai người con gái của anh bị bom phát xít cướp đi tính mạng. Anh chỉ còn niềm hi vọng vào người con trai cả là A- na-tô-li thì anh ấy cũng bị chết trận năm 1945.
Như vậy có thể thấy số phân của anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những khổ cực về thể xác rồi mà đến khi chiến tranh kết thúc mọi nhà sống trong độc lập thì với anh lại là niềm đau khổ về tinh thần vì những người thân yêu của anh đều bị chiến tranh cướp đi mất rồi. Anh tuyệt vọng trước những đau khổ của cuộc đời. từ đó ta thấy được hậu quả của chiến tranh để lại thật sự rất đau lòng.
Sau chiến tranh anh không còn nhà cửa, không còn người thân cho nên anh phải ở nhờ một người đồng chí cũ. Anh phải tìm đến rượu để dịu bớt nỗi đau của mình. Tóm lại sau chiến tranh anh phải sống một cảnh sống cô đơn và bế tắc.
Và trong một lần tình cờ hay do duyên trời run rủi cho anh gặp bé Va ni a. Nhà văn miêu tả ngoại hình của chú bé bằng những lời văn chân thực nhất để từ đó thấy được hậu quả kinh khủng của chiến tranh để lại. Chú bé khoảng năm đến sáu tuổi. Chú hiện lên trong bô dạng quần áo rách bươm xơ mướp, mặt mũi thì bê bết lem luốc…duy nhất chỉ có căp mắt là sáng ngời. Cậu bé ấy cũng có một hoàn cảnh vô cùng thương tâm. Cả cha và mẹ của cậu bé đều chết trong chiến tranh. Cùng có người thân bị mất nhưng ít ra Xô cô lốp còn có sức mà lao động còn cậu bé kia làm sao có thể lao động được. Cậu còn quá nhỏ. Cậu sống vạ vật, ai cho gì ăn đấy, bạ đâu ngủ đấy. Và duyên phận như cho họ gặp nhau để bù đắp cho nhau những tình thương mà mình đã mất đi. Xô cô lốp cảm thương tình cảnh của Va ni a cho nên anh quyết định nhận cậu làm con nuôi. Cả hai người chủ nhà của xô cô lốp cũng đồng tình với hành động nhân ái ấy. Và anh như quên đi mọi đau khổ mà dành cho bé Va ni a những tình thương sự tận tình chu đáo. Anh mua quần áo cho cậu bé, một chiếc áo bành tô rất đẹp. Chính lòng nhân ái đã đem hai trái tim gần nhau sưởi ấm cho nhau.
Thế rồi anh cố gắng kiếm sống để nuôi bé Va ni a nhưng cuộc sống hay số phận anh khổ đau. Anh vượt lên những nỗi đau, xe anh quệt nhẹ người ta mà anh bi tước bằng lái, anh mất việc nên phải đi lang bạc kiếm sống. Đã thế thể chất sức khỏe của anh cũng giảm đi trông thấy. Anh đau đến khóc thế nhưng anh vẫn cố gắng không để cho bé Va ni a biết. Trước mặt cậu anh vẫn tỏ ra bình thường. Dường như nhà văn đang nhìn anh với một ánh mắt nhân đạo, anh đã không để cho bé Va ni a phải khóc, điều đó thể hiện một sự hi sinh của người cha.
Đến đoạn cuối tác phẩm thì nhà văn như thể hiện sự đồng cảm thương xót của mình với nhân vật. Tác giả không thể nào giấu được những cảm xúc của bản thân mình trước những tình cảnh cũng như tình cảm của hai cha con mà thốt lên: ” Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…” Hai người côi cút đã tìm đến nhau chia sẻ cho nhau những niềm yêu thương trong cuộc sống. Đoạn văn thể hiện sự khâm phục những tính cách con người Nga kiên cường trước những khó khăn của cuộc sống. Trong hoàn cảnh đói nghèo đau khổ nhưng vẫn trao cho nhau những tình yêu thương nhân ái để chạm tay đến hạnh phúc.
Như vậy có thể nói qua đây ta thấy được số phận con người sau chiến tranh đau khổ như thế nào. Người lính đã trải qua những khó khăn trên chiến trường rồi tưởng rằng chiến tranh kết thúc sẽ được đoàn tụ thì người thân cũng bị chiến tranh cướp đi. Xô cô lốp cùng bé Va ni a chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Đồng thời qua tác phẩm này nhà văn kêu gọi mọi người nên có trách nhiệm với số phận của những con người như thế.
Đề bài: Tóm tắt truyện “Số phận con người” của nhà văn Xô-cô-lốp.
Bài làm
Gần một năm sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, mùa xuân năm 1946, trên đường đi công tác, tác giả gặp Xô-cô-Iốp 46 tuổi và bé Va-ni-a chừng 5, 6 tuổi tại một bến đò. Trong lúc chờ đò, Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe vê cuộc đời vô cùng gian truân và đau khổ của mình. Chiến tranh bùng nổ, anh ra trận để lại quê nhà người vợ hiền và 3 con nhỏ. Sau một năm chiến đấu, hai lần anh bị thương nhẹ vào tay và chân. Tiếp đó anh bị bắt làm tù binh, bị đầy đọa suốt hai năm trời trong các trại tập trung của phát xít Đức. Lao dịch, nhục hình, đói rét, tử thần đêm ngày đe dọa. Nãm 1944, giặc bị thua to trên mặt trận Xô – Đức, bọn phát xít bắt tù binh làm lái xe. Nhân cơ hội đó, Xô-cô-lốp đã bắt sống một tên trung tá Đức, chạy thoát về phía Hồng quân. Lúc này, anh đã biết tin về vợ và 2 con gái anh bị bom giặc giết hại. A-na-tô-ni, cậu con trai giỏi toán của anh nay đã trở thành đại uý pháo binh Hồng quân. Xô-cô-lốp lại ra trận. Hai cha con cùng tham dự chiến dịch công phá Bec-lin, sào huyệt của Hit-le. Đúng ngày 9/5/1945, ngày chiến thắng, một tên thiện xạ Đức đã bắn lén giết A-na-tô-ni, niềm hi vọng cuối cùng của anh.
Chiến tranh kết thúc, Xô-cô-lốp được giải ngũ, nhưng anh không trở về Vô-rô-ne-giơ quê hương nữa. Một đồng đội bị thương đã giải ngũ có lần mời anh về nhà chơi, Xô-cô-lốp nhớ ra và tìm đến U-riu-pin-xcơ. Anh xin được làm lái xe chở hàng hóa về các huyện và chở lúa mì về thành phố. Mỗi lần đưa xe về thành phố, anh lại tạt vào cửa hiệu giải khát uống một li rượu lử người. Anh đã gặp bé Va-ni-a đầu tóc rối bù, rách bươm xơ mướp nhưng cặp mắt như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó ăn ngay ở hiệu giải khát, ai cho gì thì nó ăn nấy. Bạ đâu ngủ đó. Xô-cô-lốp xúc động quyết định: “mình sẽ nhận nó làm con nuôi!”. Xô-cô-lốp nói với bé Va-ni-a: “Là bố con!” khi nó nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?”.
Đưa bé Va-ni-a về nhà vợ chồng người bạn, Xô-cô-lốp tắm rửa, cắt tóc, sắm quần áo cho bé Va-ni-a. Nhìn nó ăn súp bắp cải, vợ người bạn lấy tạp dề che mặt khóc. Lần đầu tiên sau chiến tranh, Xô-cô”lốp được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Va-ni-a rúc vào nách bố nuôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ. Ngày và đêm, bé Va-ni-a không chịu rời Xô-cô-lốp. Một chuyện rủi ro xảy đến, Xô-cô-ĩốp bị người ta tước mất bằng lái xe. Mất việc, anh đưa bé Va-ni-a đi bộ đến Ka-sa-rư kiếm sống.
Nhìn 2 bố con đi xa dần với một nỗi buồn thấm thìa, chợt đứa bé quay lại nhìn nhà văn, vẫy vẫy bàn tay bé xíu hồng hồng. Như có móng sắc nhọn bóp lấy tim mình, tác giả vội quay mặt đi…
Đề bài: Phân tích nhân vật Xô-cô-lốp trong truyện “Số phận con người” của nhà văn Sô-lô-khốp nước Nga.
Bài làm
Hê-minh-uê (1899 – 1961) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại, tôi thích Sô-lô-khốp”. Là nhà văn Xô Viết được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965, Sô-lô-khốp được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn thế kỉ XX”.
“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… “Số phận con người” đã đem đến vinh quang cho Sô-lô-khốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhân vật Xô-cô-lốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sác nhiệt tình tố cáo thảm hoạ chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật nó, biểu dương khí phách anh hùng của người Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sô-lô-khốp.
Đọc “Số phận con người”, ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của nhân vật Xô-cô-lốp. Năm 1941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xô-cô-lốp đã ra trận. Anh nếm trải những gian truân, thất bại buổi đầu. Hai lần bị thương vào chân vào tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều trại tập trung. Sống bằng xúp léu bều lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. áo quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù da bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đanh bằng thanh sắt, thanh gồ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bô chỉ huy trại đấm vào mặt vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập, bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt sau hàng rào dây thép gai, Xô-cô-lốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xô-cô-lốp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai, đại úy pháo binh A-na-tô-ni, niổm hy vọng cuối cùng, đã ngã xuống tại Bec-lin trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát xít! Nổi đau thương khủng khiếp làm cho Xô-cố-lôp “như người mất hồn Chiến tranh kết thúc, anh được giải ngũ nhưng không muốn vể lại Vô-rô-ne-giơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa! Bé Va-ni-a cũng là hiện thân cho thảm hoạ chiến tranh. Cha “chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không còn ai cả”. Và chỉ biết “bạ đâu ngủ đó, ai cho gì ăn nấy!”. Áo quần em thì “rách bươm xơ mướp”; “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…
Hình ảnh bé Va-ni-a cũng như cuộc đời của Xô-cô-lốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động, thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2 giành được là cực kì khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó có nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Khi chiến tranh đã đi qua, một năm sau đó, Xô-cô-lốp cảm thấy quả tim mình “đã rệu rã lắm rồi”. Nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất mà bão tố chiến tranh đã gieo dắt cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng ri máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong kí ức, cứ siết chặt tâm hồn người thời hậu chiến! Bé Va-ni-a vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự”, có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tồ da của bố ngày nào cứ bám riết lấy tâm hồn em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xô-cô-lốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được “, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao “thấy những người thân thuộc đã quá cố”, gặp vợ con sau hàng rào dây thép gai,… “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than nhưng đêm ướt đẫm nước mắt… “. Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a trở thành hai cát bị phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”.
Nhân vật Xô-cô-lốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô Viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ mộc, lái xe. Một gia đình ổn định êm ấm: một vợ, ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!”. Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc; rồi bị bắt làm tù binh, lao động trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát súp lõng bõng. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kien quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muyn-le, chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh đã nhìn thẳng vào họng súng lục tôn phát xít. Tự kiềm chế đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình chứ không phải để mừng chiến thắng quân xâm lược! Khí phách lẫm liệt của Xô-cô-lốp đã làm cho tên phát xít khát máu kinh ngạc, khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xô-cô-lốp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xô-cô-lốp, tác giả khám phá ra chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh, anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ để ra trận, anh đẩy I-ri-na, khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xô-cô-lốp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê món nguy hại ấy”. Anh muốn quên đi bao mất mát đau thương và cô đơn…
Đang sống âm thầm trong bi kịch, tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cảm người cha, tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Va-ni-a “đầu óc rối bù, rách bươm xơ mướp” sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, “bạ đâu ngủ đó… ai cho gì ăn nấy”, nhất là khi anh thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xô-cô-lốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy thật nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “không thể cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!”. Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Va-ni-a và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!”. Câu nói khẽ của Xô-cô-lốp: “là bố của con!” khi nghe bé Va-ni-a nghẹn ngào hỏi: “thế chú là ai?”, một câu nói tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển trời thương mến mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ yêu thương và tiếng nói ríu rít, líu lo của bé Va-ni-a: “bố yêu của con ơi!… Con chờ mãi mong được gặp bố…”, Xô-cô-lốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”.
Xô-cô-lốp đã nhận bé Va-ni-a làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may quần áo mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yẽn lành hơn: “Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành”. Còn bé Va-ni-a thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…”. Hạnh phúc là san sẻ. Xô-cô-lốp lòng vui không tài nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Va-ni-a ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự thay đổi kỳ diệu: “trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn”.
Vết thương lòng đâu dễ nguôi. Vì thế mà Xô-cô-lốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Va-ni-a lớn lên vào học một trường ổn định thì Xô-cô-lốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng Sô-lô-khốp vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, dù cho bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ: “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” – đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xô-cô-lốp, khắc hoạ đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc bao xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến.
Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả bộ mặt thật của chiến tranh, ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua nhân vật Xô-cô-lốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sô-lô-khốp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi buồn đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 nãm chiến tranh. Hình ảnh Xô-cô-lốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Khát vọng hòa bình, được sống yên vui trong ấm no hạnh phúc và tinh thương là khát vọng đẹp muôn đời của nhân loại.
Đề bài: Cảm nhận về tác phẩm Số phận con người của Solokhop
Bài làm
Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm –anh lính hồng quân Xôcôlôp, người đàn ông đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tránghào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường.
M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xô viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.
Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có –không khoa trương hào nhoáng, không bi kịch hoá mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao người Nga: Xôcôlôp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua các thời kỳ khốc liệt nhất. Không tránh né sự thật –đó là phẩm chất hàng đầu của các cây bút Nga –xô viết mà M. Sôlôkhôp chính là một tấm gương. Sự thật đó không phải được kể bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía, trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xô viết –chính là phản chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xô viết non trẻ phải đối mặt với lũ bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm. Nạn đói, cuộc sống cùng cực không quật ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xôcôlôp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy diệt của nó khiến cho Xôcôlôp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xôcôlôp mỗi lần tỉnh giấc lại đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt không thể rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản bội. Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh. Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alêcxây Tônxtôi với “Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai. Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lòng căm thù sục sôi với kẻ đã hủy hoại hạnh phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” -người con trai đã thành đại úy pháo binh Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã phải tiễn đưa con mình. Dẫubiết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lòng cũng có thể quị ngã. Có lẽ đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người –nhân dân Nga trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát. Bởi thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xô viết trở về sau chiến trận. Nỗi đau lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xôcôlôp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã. Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania. Chú bé Vania –đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xôcôlôp với bé Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khô héo vì đau khổ. Nước mắt -hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến những lời nói dối –nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con -một người đang cần nén chặt nỗi đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu cợt để cho bố con Xôcôlôp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ phía trước.
Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lòng cảm phục vô hạn trước nhân cách một Con Người chân chính. Bức thông điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao bi kịch bất hạnh. Đó làsự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào Con người Nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.