Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Xem thêm các sách tham khảo liên quan:
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 Cực Ngắn
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 2
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Ông già và biển cả của Hê–minh–uê.
Bài làm
I. Mở bài
– Hê–minh–uê là nhà văn nổi tiền của Mĩ và thế giới, được xem là một trong những người đã khai sinh ra nền văn chương Mĩ, ông là người đề xướng sáng tác van chương theo nguyên lí “tảng băng trôi” (một phần nổi, bảy phần chìm).
– “Ông già và biển cả” là một trong những sáng tác hay nhất của ông, tác phẩm thể hiện rõ nguyên lí “tảng băng trôi”.
II. Thân bài
1. Hình tượng con cá kiếm
– Đó là một con cá lớn và đẹp: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc hái lớn màu tím hồng dựng lên trên mặt đại dương xanh thẫm”, “một cái bóng đen vượt qua dưới con thuyền”, bộ vây to sụ nặng hơn mười tấn.
– Có sức mạnh ghê gớm: “những vòng bơi của nó khiến ông lão hoa mắt chóng mặt”, “ ông cảm nhận được cú nẩy mạnh đột ngột ở sợi dây do con cá gây ra”.
– Dù cận kề cái chết vẫn luôn kiên cường, bất khuất: “nó phóng lên khỏi mặt nước phô tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực”.
– Nhận xét: Tầm vóc của con cá khiến chiến thắng của ông lão trở nên vinh quang hơn.
+ Con cá là đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Đại diện cho những khó khăn thử thách trong cuộc sống con người phải vượt qua.
+ Đó còn là cái đẹp, những ước mơ, sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
2. Hình tượng ông lão đánh cá
– Sau 84 ngày đêm thất bại, ông lão vẫn cố gắng tìm kiếm và cuối cùng đã tìm được con cá kiếm lớn:
+ Ông là một lão ngư kiên trì.
+ Đó còn là biểu tượng cho người nghệ sĩ không ngừng sáng tạo, tìm kiếm cái mới trong nghệ thuật.
– Khi chiến đấu với con cá khổng lồ, ông đã chiến thắng nó, ông là một lão đánh ca lành nghề:
+ Chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây ông có thể biết con cá đang bơi vòng tròn hay liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
+ Dựa trên sự căng chùng của sợi dây có thể đoán được con cá đang làm gì.
+ Điêu luyện trong hành động phóng lao trúng tim con cá.
– Ông có sức mạnh ý chí phi thường, chiến thắng con cá kiếm:
+ Luôn tin tưởng vào khả năng của bản thân: “tao sẽ tóm được mày ở đường lượn, ta sẽ di chuyển được nó”.
+ Dù đã rất mệt mỏi sau chuỗi ngày dài trên biển, ông vẫn cố gắng chiến đấu với con cá kiếm khổng lồ.
– Nhận xét: Sau cuộc chiến, ông đã chiến thắng con cá lớn, điều này khẳng định:
+ Khát vọng của ông lão chính là khát vọng muốn chinh phục thiên nhiên của con người.
+ Sức mạnh phi thường, khả năng của con người không hề giới hạn.
+ Nhà văn thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của con người.
+ Người nghệ sĩ sau quá trình lao động nghệ thuật đã đạt được thành quả mình mong muốn.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng bằng bút pháp miêu tả sống động, chuyển hóa bức tranh với những đường nét trần trụi, chân thực sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn.
– Tác phẩm phản ánh hành trình khám phá, chinh phục thiên nhiên và nghệ thuật của con người. Con đường dẫn đến thành công phải trải qua bao khó khăn, cần phải có sự kiên trì.
Đề bài: Phân tích tác phẩm “Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê.
Bài làm
Hê-minh-uê sinh ra trong một gia đình trí thức. Có thể coi ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Mỹ. Ông sáng tác dựa trên nguyên lí tảng băng trôi, ba phần nổi, bảy phần chìm, bởi vậy các tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Ông già và biển cả là tác phẩm thể hiện chính xác và đầy đủ nhất phong cách của ông. Tác phẩm ngay từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong giới văn nghệ sĩ. Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm.
Tác phẩm nổi bật lên với hai hình tượng chính là con cá kiếm và ông già đánh cá. Mỗi hình tượng mang những vẻ đẹp riêng, vừa bổ sung, vừa làm nổi bật vẻ đẹp của đối phương.
Trước hết hình tượng con cá kiếm đã được tác giả khắc họa vô cùng lớn và đẹp. Tác giả đã dung hàng loạt câu văn để miêu tả về vẻ đẹp của nó: Một cái bóng đen vượt dài qua dưới con thuyền, không dừng lại ở đó nó còn có một “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn màu tím hồng dựng trên đại dương xanh thẳm”. Thân hình của nó đồ sộ và những dọc màu tía trên mình và Cánh vi trên lưng xếp lại, bộ vây to sụ ên sườn xòe rộng. Chỉ với từng ấy câu văn thôi, nhưng Hê-minh-uê đã cho người đọc hình dung đầy đủ về vẻ đẹp của con cá kiếm và đằng sau vẻ đẹp kì vĩ, to lớn ấy chắc chẵn sẽ ẩn chứa những sức mạnh khủng khiếp. Sau khi mắc vào lưỡi câu của ông lão đánh cá, dù đã bị thương nhưng con cá vẫn có những vòng bơi lớn, liên tục, dường như vết thương đó không hề hấn gì với bề ngoài khổng lồ của nó. Chính những vòng bơi khổng lồ đó khiến cho ông lão hoa mắt, chóng mắt, và choáng váng. Quả thực đây là màn đấu lực không hề cân sức.
Nhưng không dừng lại ở đó, khắc họa hình tượng con cá kiếm tác giả còn cho thấy một vẻ đẹp khác của nó đó chính là vẻ đẹp của sự kiêu hùng và bất khuất. Khi bị ông lão phóng mũi lao trúng tim, bị kết liễu sinh mạng nhưng nó vẫn dùng hết những sức lực cuối cùng để tung người lên. Quả là một cái chết cách oai hùng, mạnh mẽ, kiêu ngạo, đầy khí phách. Tác giả không chỉ đơn thuần miêu tả con cá kiếm, mà đằng sau những câu văn miêu tả đó cũng chính là cách để tác giả tôn vinh ông lão đánh cá. Tác giả muốn con cá phải là đối thủ ngang sức, ngang tài của ông lão đánh cá, xứng đáng là con ác mà ông lão chờ đợi. Tôn vinh con cá cũng là tôn vinh chiến thắng vinh quang và tầm vóc của con người.
Đúng như nguyên lí tảng băng trôi, xây dựng hình tượng con cá kiếm, Hê-minh-uê cũng gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Trước hết dưới góc nhìn thiên nhiên, con cá kiếm là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của tự nhiên. Còn dưới góc nhìn từ cuộc sống con người, thì hình tượng con cá kiếm lại chính là biểu tượng cho những thử thách, chông gai trong cuộc đời mà con người cần phải vượt qua. Cuối cùng dưới góc nhìn nghệ thuật, con cá kiếm lại chính là biểu tượng của những mơ ước và sáng tạo.
Nhưng đẹp đẽ nhất, gửi gắm nhiều ý nghĩa nhất chính là hình tượng của ông lão đánh cá. Ông lão đánh cá được đặt trong cuộc chiến không hề cân sức, ông lão đã tuổi cao sức yếu, lại mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát và mệt mỏi. Ông đã bị suy kiệt nghiêm trọng về thể lực. Trong khi đó con cá kiếm lại to lớn, đầy sức mạnh, kiêu hùng bất khuất. Hơn nữa, biển cả là nhà, là thế mạnh thuộc về con cá kiếm. Đặt ông lão ông trong cuộc chiến không cân sức, tác giả nhằm tôn vinh, ngợi ca ông lão với những phẩm chất làm nên chiến thắng.
Trong cuộc chiến không cân sức ấy,những phẩm chất, vẻ đẹp của ông lão đánh cá đã được bộc lộ đầy đủ nhất. Trước hết ông là người thạo nghề, mưu trí và kinh nghiệm. Ông chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây có thể biết được con cá đang bơi tròn hay đang liên tục ngoi lê trong lúc bơi. Và ông chỉ cần dựa vào độ căng trùng của sợi dây có thể đoán biết được con cá đang làm gì. Nếu không phải là người đánh cá lành nghề, chắc chắn ông không thể có những phán đoán chính xác đến vậy. Đặc biệt ông có cách xử lí là kéo vào hay nới ra để con cá dần trở nên kiệt sức mà không bị đau đớn đến phát cuồng lên. Cuối cùng chính là cách ông lựa chọn thời điểm đưa ra đòn quyết định, phóng lao trúng tim con cá một cách dứt khoát, quyết đoán và đầy điêu luyện để chấm dứt cuộc chiến không cân sức này.
Để hạ gục được con cá, không chỉ cần sự điêu luyện, thành thạo mà còn cần cả niềm tin vào chính mình. Trong quá trình chiến đấu với con cá ông liên tục nhắc đi nhắc lại những lời động viên, khuyến khích bản thâ, tin tưởng vào chiến thắng: “tao sẽ tóm được mày”… Và hơn hết ông có ý chí và nghị lực phi thường. Nhiều lúc ông tưởng rằng mình có thể sẽ gục ngã: hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, chóng mặt và choáng váng, có cảm giác đổ sụp xuống bất cứ lúc nào… Tuy nhiên sức mạnh tinh thần đã nâng đỡ ông lão đánh cá gượng dậy tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng. Chiến thắng của ông đã gửi gắm những bài học ý nghĩa, phải luôn tin tưởng vào bản thân, không ngừng nỗ lực, phấn đấu. Đồng thời qua chiến thắng này, tác giả cũng nhằm khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và sức mạnh của con người.
Mặc dù chiến thắng con cá kiếm, nhưng ông lão cũng vô cùng thương xót nó, ngợi ca vẻ đẹp anh dũng, hào hùng của nó. Qua những suy nghĩ của ông lão về con cá kiếm tác giả cũng gửi gắm thông điệp: Con người và thiên nhiên có mối quan hệ anh em, dù rằng đôi khi thiên nhiên đột nhiên trở thành kẻ thù số một của con người. Con người dù phải chinh phục tự nhiên nhưng cũng không quên phải yêu mến và sống hài hòa với tự nhiên. Con người cần biết tôn trọng tự nhiên, cũng như tôn trọng kẻ thù nếu muốn giành chiến thắng. Và thừa nhận vẻ đẹp và những hành động không thể khác của đối thủ, của những người xung quanh mình là thái độ cần thiết để giữ thăng bằng trong cuộc sống, tránh nhìn người, nhìn đời một cách phiến diện và để biết cảm thông, chia sẻ với người khác.
Tác phẩm với tính biểu tượng cao, ngôn ngữ cô đọng hàm súc đã đem đến nhiều thong điệp ý nghĩa. Câu chuyện về ông lão đánh cá không đơn thuần chỉ là câu chuyện của sự mưu sinh mà nó còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của ước mơ và biểu tượng cho hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực.
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Ông già và biển cả của nhà văn Hê-minh-uê
Bài làm
Ông già và biển cả là một trong những tác phẩm đặc sác, thể hiện rõ phong cách sáng tác “tảng băng trôi” của nhà văn tài năng người Mĩ Hê-minh-uê. Tác phẩm là câu chuyện giữa ông lão và một con cá kiếm khổ lồ. Đó là một cuộc đọ sức kiên gan và đẹp đẽ, để từ đó thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh đẹp đẽ.
Đoạn trích gồm hai phân cảnh chính: thứ nhất là khi con cá kiếm bị mắc câu và cố sức vũng vầy để mong thoát khỏi lưỡi câu của ông lão; cảnh thứ hai là khi ông lão đánh cá đưa con thuyền và chiếc xác trở về bến.
Tác phẩm được mở ra bằng hình ảnh mặt trời rạng rỡ, ngày thứ ba sau khi con cá kiếm bị mắc câu. Cả hai đối tượng đều không chịu lùi bước. Con cá vẫn lượn vòng , làm căng sợi dây tạo nên “vòng tròn lớn”. Đáp lại nó, ông lão Xan-ti-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết sức lực của cả cơ thể, của trụ chân ra mà kéo” nhằm khuất phục con mồi. Sau hai giờ bơi, con cá cũng dẫn đuối sức, đường bơi đã hẹp đi nhiều, con cá dần dần ngoi lên mặt nước, ông lão lúc này cũng đã mệt thấm xương, mô hôi thấm đẫm. Cuộc đấu tranh, giằng co giữa cá và người cứ thế tiếp tục. Con cá mặc dù càng đuối sức nhưng nõ vẫn cố gắng vùng vẫy, khi thì đột ngột quật lên, làm căng sợi dây mảnh, khi thì nó khẽ nghiêng mình kéo chiếc chiếc thuyền đi. Ông lão cũng kiên quyết không bỏ cuộc, khi nhìn thấy cái bóng đen của con cá dần dần nổi lên, ông kinh ngạc: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm” “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng” . Con cá khổng lồ và đẹp ngoài sức tưởng tượng của ông. Điều đó càng khiến ông phải bình tĩnh để chinh phục được nó. lão Xan-ti-a-gô phải tự động viên mình “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.
Đối với ông lão lão Xan-ti-a-gô con cá không chỉ đơn thuần là đối tượng để săn bắt mà còn là người bạn, người anh em đối với lão. Trong cuộc chiến đó, ông còn trò chuyện, thủ thỉ với nó: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người an hem ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”. Lão Xan-ti-a-gô đã dùng những chữ đẹp đẽ nhất, tình cảm chân thành nhất để tâm tình với con cá.
Cuộc chiến cuối cùng cũng dần đi vào hồi kết, con cá đuối sức hơn, lúc nó rướn hẳn mình, lúc nó lại chầm chậm bơi ra xa. Lão Xan-ti-a-gô vẫn hết sự khéo léo, và sức lực của mình, lấy lao phóng vào cái ngực đồ sộ của nó. Con cá bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm cả lên ông lão và con thuyền”. Bằng sự lao động bền bỉ của mình ông lão đã chiến thắng, dù bị xây xát, nhưng con cá đã “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời” “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sau”.
Trận chiến suốt mấy ngày qua cuối cùng đã kết thúc. Đói và mệt rã rời, nhưng trong lòng ông lão cũng tràn đầy phấn chấn. Ông quyết địn lập tức going thuyền trở về. Giờ đây trong cơ thể lão tràn trề nhựa sống, lão thất người khoe hơn lúc náo hết, đầu óc trở nên tình táo, lão lặng ngắm con cá: “da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dung như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”. Ông lão nhìn con cá bằng sự ngưỡng mộ, tôn sung. Thành quả sau bao nỗ lực đã được đền đáp “Đi Ma-giô vĩ đạu sẽ tự hào về ta hôm nay”.
Tác phẩm sử dụng đan cài giữa ời độc thoại và độc thoại nội tâm giúp dễ dàng bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Không chỉ ấn tượng về nghệ thuật kể chuyện, mà tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bởi tinh thần lao động, sự kiên nhẫn và dũng cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
Đề bài: Anh chị hãy Phân tích đoạn trích Ông già và Biển cả của nhà văn Hê-minh-uê
Bài làm
Hê-minh-uê là một trong những nhà văn vĩ đại nhất nước Mĩ thế kỉ XX. ông là người khai sinh ra nguyên lí sáng tác: coi tác phẩm nghệ thuật như một tảng băng trôi, người đọc tự khám phá phần chìm để thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực của tác phẩm, ông vinh dự được nhận Giải Pu-lit-dơ (1953) – giải thưởng văn chương cao quý nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học (1954). Hê-minh-uê đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, hồi kí, ghi chép… Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả. Đây là cuốn tiểu thuyết tuy chỉ có tầm cỡ của một truyện vừa nhưng lại là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê bởi nó đã chứa dựng thông điệp quan trọng được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn : Con người được sinh ra không phải để dành cho thất bại. Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại.
Bối cảnh của truyện là ngôi làng chài yên ả gần bến cảng La-ha-ba-na. Nhân vật chính là ông lão ngư phủ Xan-ti-a-gô với mơ ước cháy bỏng là sẽ đánh bắt được một con cá lớn nhất trong đời. Một mình trên con thuyền nhỏ bé ra khơi, ông lão quyết lập chiến công. Trải qua nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đầy vất vả, hiểm nguy, cuối cùng ông lão đã đánh bắt dược một con cá kiếm khổng lồ, buộc nó cặp mạn thuyền rồi dong vào bờ. Nhưng con cá kiếm đã bị đàn cá mập tấn công, ông lão dùng hết sức lực để chống chọi với lũ cá mập hung dữ. Khi đuổi được lũ cá mập ra xa thì con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương, ông lão buồn bã trở về túp lều của mình, nhưng trong lòng ông vẫn chưa tắt những ước mơ tốt đẹp.
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô đơn độc, quật cường đã chiến thắng con cá kiếm khổng lồ bằng ý chí phi thường và kĩ năng nghề nghiệp điêu luyện, Hê-minh-uê ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người lao động.
Ông già và biển cả được đánh giá là bài ca ca ngợi con người. Đây là tác phẩm hay nhất, nhiều ý nghĩa nhất, vì thế nôn đọc bất cứ đoạn nào chúng ta cũng thấy sự thể hiện sinh động của nguyên lí tảng băng trôi trong sảng tác của Hô-minh-uê.
Đoạn trích kể về việc sau khi con cá kiếm mắc câu, ông lão Xan-ti-a-gô đã vật lộn với nó gần hai ngày đêm, sức lực cạn kiệt nhưng ông lão vẫn quyết tâm giết bằng được nó. Cuộc chiến để thu hồi thành quả lao động của ông lão Xan-ti-a-gô quả là vất vả và khó nhọc.
Nhà văn miêu tả con cá kiếm như một “nhân vật đặc biệt” với những nét khác thường. Ở đầu đoạn trích, con cá chưa xuất hiện ngay mà chỉ tạo ấn tượng bằng những vòng lượn tròn rất lớn. Nhà văn có dụng ý để ông lão cảm nhận gián tiếp về con cá qua những vòng lượn của nó. Từ lúc mắc câu, con cá kiếm không nổi lên mặt nước mà cứ kéo sợi dây câu bơi ra xa. Sau đêm thứ hai, khi đã kéo chiếc thuyền của ông lão đi khắp các hướng thì con cá bắt đầu lượn vòng. Những vòng lượn gợi lên từng thời điểm và mức độ căng thẳng của cuộc đấu sức giữa ông lão và con cá kiếm. Lần thứ nhất, con cá còn khỏe nên nó lượn một vòng tròn rất lớn. Hai giờ sau, các vòng tròn hẹp hơn. Đến lần thứ hai, sau khi quật mạnh sợi dây vài lần, con cá không quật dây đáy nữa mà bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm, tức là nó đã dần dần đuối sức. Hai lần đầu, ông lão phán đoán độ lớn của con cá nhờ cảm giác từ đôi tay đang níu giữ sợi dây. Những vòng lượn tiếp theo, con cá đã nhô mình lên khỏi mặt nước và ông lão lần đầu tiên thấy con cá.
Xảy ra đồng thời với những vòng lượn để thoát khỏi lưỡi câu của con cá kiếm là hành động dùng hết sức níu sợi dây để kéo con cá vào gần thuyền của ông lão. Cứ mỗi lần con cá lượn vòng là mỗi lần ông lão phải gắng sức, đến nỗi cảm thấy choáng váng. Sau mỗi lần như thế, ông lão lại tự nhủ : Hãy cố lên chút nữa, hãy giữ đầu óc tỉnh táo! Những chi tiết này cứ lặp đi lặp tại cho đến khi ông lão phóng ngọn lao vào trúng tim con cá.
Kiểu kết cấu trên nhằm đặc tả sức mạnh và sự khôn ngoan của con cá kiếm và cho thấy mức độ gay go, quyết liệt của cuộc chiến giữa ông lão Xan-ti-a-gô với con cá kiếm. Vòng lượn của con cá càng nhiều và thay đổi liên tục chứng tỏ nó khôn ngoan, dũng cảm, kiên cường chống đỡ không kém gì đối thủ. Con cá cố gắng thoát khỏi sự níu kéo quyết liệt của lão ngư phủ. Cả hai bên đều đã kiệt sức nhưng đều cố giành phần thắng về mình.
Sự lặp lại những vòng lượn của con cá kiếm còn gợi lên hình ảnh một ngư phủ từng trải và lành nghề. Chỉ bằng mắt nhìn và cảm giác đau đớn nơi bàn tay, ông lão đã ước lượng được độ lớn của con cá qua những vòng lượn từ rộng tới hẹp, từ xa tới gần. Xan-ti-a-gô đã khéo léo điểu khiển sợi dây vì nếu để chùng dây thì không thể kéo con cá lại gần, còn nếu căng dây quá thì con cá sẽ nhảy vọt lên, có thể làm tuột lưỡi câu. Lúc đầu, ông lão thu ngắn dây để con cá không thể quay vòng : Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu liên tục kéo nhẹ nhàng.
Diễn biến cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô được tác giả miêu tả như một trận chiến đấu thực sự. Suốt hai giờ đồng hổ, ông lão mệt nhoài, người đẫm mồ hôi vì cứ phải ra sức kéo sợi dây để cho con cá khỏi quay vòng. Sức lực của ông lão suy kiệt nhanh chóng, ông lão thấy hoa mắt…, mồ hôi xát muối vào mắt lão và xát muối lên vết cắt phía trên mắt và trán. Ông lão tự nhủ : Chúa sẽ giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh Lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể đọc.
Đến vòng lượn thứ ba, khi đã thấm mệt, con cá không quật dây nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm… Rồi ông lão nhìn thấy : Cài đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tỉa trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng.
Ông lão phân tích tình hình, tìm mọi cách kéo con cá lại gần thuyền và tự động viên : Hãy bình, tĩnh và giữ sức, lão già ạ. Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Hãy tỉnh táo vì tao, đầu à… Nhưng đó cũng là lúc sức cùng lực kiệt : Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, hoặc nếu có thì cũng bằng giọng thì thảo, yếu ớt.
Khi ông lão chuẩn bị phóng mũi lao vào con cá, như trêu ngươi, nó rướn thẳng mình, lại chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Thời điểm quyết định đã tới: ông lão nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh… phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão… Con cá phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền.
Cách kể chuyện và miêu tả hấp dẫn của tác giả giúp người đọc hình dung ra diễn biến trận đánh càng về sau càng gay go, căng thẳng. Sức lực của ông lão cứ yếu dần đi theo từng vòng lượn của con cá kiếm.
Trong tình huống đơn độc và gay cấn, ông lão biết rằng tốt hơn cả là tự cứu mình. Vì thế nên ông lão củng cố tinh thần và sức chịu đựng để tồn tại và chiến thắng, luôn luôn tự nhủ : Hãy giữ cho đầu óc tĩnh táo và biết cách chịu đựng như một con người.
Ý chí, nghị lực của ông lão Xan-ti-a-gô còn thể hiện ở quyết tâm bắt bằng được con cá. Sức lực cạn kiệt nhưng lão vẫn cố gượng dậy để tiếp tục chiến đấu : Lão cảm thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, lão cảm thấy choáng váng, đau đớn…
Ông lão phán đoán, phân tích tình thế rồi đưa ra giải pháp hành động hợp lí, chính xác, đồng thời kiên trì chịu đựng và tin rằng mình sẽ giết được con cá: Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ có nó… Tao sẽ tóm mày ở đường lượn… Ta đã di chuyển được nó.
Sức mạnh mà Tạo hóa ban tặng cho con cá kiếm là để nó chiến đấu giành lại sự sống từ bàn tay con người. Sức lực của ông lão Xan-ti-a-gô là sức lực của con người. Ý chí, trí tuệ và kinh nghiệm đã giúp lão khắc phục hoàn cảnh, tuổi tác để cuối cùng giành được chiến thắng, ông lão thú vị rút ra bài học: Ta chỉ thạo hơn cu cậu ở mỗi cái trò mánh lới.
Thái độ đối với con cá kiếm phản ánh diễn biến phức tạp trong tâm trạng ông lão lúc này. Ông lão vừa yêu quý, khâm phục con cá vừa quyết tâm phải hạ gục nó. Lão thân mật gọi nó là người anh em và chân thành bày tỏ : Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ.
Nguyên do là vì Xan-ti-a-gô suốt đời làm nghề đánh cá mà đã lâu không bắt được con cá nào, có nghĩa là ông lão không còn tồn tại với tư cách của một ngư phủ. Ông lão đặt ra cho mình nhiệm vụ là bằng mọi giá phải bắt được con cá kiếm. Trong cuộc săn đuổi đó, con cá kiếm đã bộc lộ phẩm chất cao quý như một con người chân chính. Nó không lồng lên làm đắm thuyền, không lặn sâu xuống bứt đứt dây câu mà chấp nhận cuộc đấu tay đôi một cách sòng phẳng. Nó mải miết kéo chiếc thuyền của ông lão ra khơi xa. Những lời trò chuyện với con cá kiếm và độc thoại nội tâm cho thấy ông lão có cảm nhận rất khác lạ về con cá mà mình đang săn đuổi. Con cá kiếm khổng lồ vừa là đối tượng chinh phục vừa là bằng hữu của ông lão. Điều đó cho thấy hành trình tìm kiếm ước mơ của con người là vô cùng vất vả và hành trình thực hiện ước mơ lại càng gian nan hơn, đòi hỏi con người phải tập trung trí lực cao độ.
Hình ảnh con cá kiếm ở phần nổi là thành quả của nhiều ngày lao động vất vả trên biển của ông lão Xan-ti-a-gô. Ở phần chìm, nó tượng trưng cho ước mơ, khát vọng lớn lao của con người, là vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Trong quan hệ với con người, thiên nhiên vừa là bạn bè vừa là đối thủ.
Hình ảnh con cá kiếm khổng lồ trong tác phẩm được tác giả miêu tả từ xa tới gần, từ bộ phận tới toàn thể thông qua cảm nhận từ gián tiếp đến trực tiếp của ông lão Xan-ti-a-gô. Lúc đầu, ông lão chỉ thấy cái bóng đen dài vượt qua dưới con thuyền và cảm nhận rằng nó dài đến mức không thể tin nổi. Sau đó, ông lão nhìn thấy cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm. Sau vòng lượn thứ ba, ông lão đã ngạc nhiên đến bàng hoàng khi nhìn thấy tận mắt hình dáng tuyệt đẹp và độ lớn chưa từng có của con cá kiếm.
Con cá kiếm có một vẻ đẹp kiêu hùng, kì vĩ. Lúc bị ngọn lao của ông lão phóng trúng tim, con cá kiếm vẫn đẹp một vẻ đẹp tuyệt vời: Khi ấy con cá mang cái chết trong mình, sực tỉnh, phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền.
Sau khi ông lão đã buộc nó cặp mạn thuyền để đưa vào bờ thì: Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tía nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng còn mắt nó trông dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như vị thánh trong đám rước. Vẻ đẹp sống động không còn nữa mà thay vào đó là sắc màu nhợt nhạt của một sinh vật đã bị tước đoạt sự sống.
Sự khác biệt đó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: Con cá kiếm không chỉ là một con cá do ông lão săn được mà là hình ảnh của ước mơ, lí tưởng mỗi con người theo đuổi trong suốt cuộc đời. Sự khác biệt đó còn gợi cho người đọc suy nghĩ: Phải chăng đó là khoảng cách xa vời giữa ước mơ và hiện thực. Khi ước mơ đã trong tầm tay hoặc đã trở thành hiện thực thì nó không còn giữ được vẻ đẹp đẽ, huy hoàng như trước nữa.
Hình ảnh con cá kiếm còn tượng trưng cho khát vọng nghệ thuật và quá trình sáng tạo của nhà văn. Sự xuất hiện lần đầu của con cá kiếm ám chỉ cơ hội cho nhà văn khám phá cuộc sống. Hành trình theo đuổi con cá của ông lão Xan-ti-a-gô cũng là hành trình lao động nghệ thuật của nhà văn. Con cá kiếm vừa xuất hiện cũng giống như tác phẩm mới hình thành ở ý đồ sáng tác, nhà văn chỉ mới cảm nhận được ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Đến khi tác phẩm đã hoàn thành thì nó phô ra vẻ đẹp để mọi người có thể nhìn thấy, cũng giống như con cá kiếm lúc phóng vút lên khỏi mặt nước. Đến khi đã có đời sống riêng thì chính tác phẩm đưa tác giả đến bến bờ vinh quang. Con cá kiếm là đối tượng để ông lão chinh phục và chiến thắng, là người anh em để lão so tài và thử sức, là mục đích, lí tưởng mà ông lão hướng đến. Như vậy, khuất phục được đối thủ vừa thể hiện trí tuệ và lòng dũng cảm, niềm kiêu hãnh của con người và là cơ sở để giúp con người đánh giá khả năng chinh phục thiên nhiên.
Đoạn trích trên tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hê-minh-uê : ngôn ngữ trong sáng, giản dị, lối kể chuyện thông qua việc sử dụng đối thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật cùng với những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng. Sự lặp đi, lặp lại những chi tiết theo kiểu kết cấu vòng tròn xoắn trôn ốc giúp người đọc có thể bóc dần từng lớp vỏ ngôn ngữ để khám phá ra ý nghĩa và giá trị thực sự của tác phẩm. Đoạn trích còn cho thấy khả năng quan sát nhạy bén và trí tưởng tượng phong phú của Hê-minh-uê – nhà văn bậc thầy về tiểu thuyết.
Tác phẩm Ông già và biển cả cũng thể hiện tình cảm yêu mến, khâm phục của nhà văn đối với những con người lao động nghèo khổ. Tác giả muốn chuyển đến người đọc một thông điệp quan trọng : Trong cuộc đấu tranh vật lộn mưu sinh hay để lập chiến công, con người có thể chấp nhận cái chết, nhưng không bao giờ chấp nhận lùi bước. Câu chuyện về ông lão đánh cá già nua, đơn độc nhưng vô cùng dũng cảm đã cổ vũ biết bao người trên thế giới dám dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại.
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích ngắn gọn tác phẩm Ông già và biển cả của nhà văn Hê-minh-uê.
Bài làm
Nhắc đến nguyên lý tảng băng trôi nổi tiếng thì chúng ta nhớ ngay đến nhà văn Hê minh uê. Có thể nói ông là một nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ thế kỉ XX. Ông để lại nhiều tiểu thuyết hay có giá trị về cuộc sống trong đó có tác phẩm ông già và biển cả. Từ tiểu thuyết ấy đã đánh dấu tên tuổi của ông. Đặc biệt tác phẩm ấy còn được viết theo nguyên lý tảng băng trôi.
Trước hết là nguyên lí tảng băng trôi thì ông chính là người đề xướng lối viết kiệm lời nhưng lại giàu ý nghĩa ấy. Theo ông thì một tác phẩm thì phải được viết theo nguyên lí tảng băng trôi mà chỉ có ba phần nổi bảy phầm chìm đòi hỏi mọi người phải suy nghĩ chiêm nghiệm mới có thể thấy hết cái hay của nó. Nhà văn không trực tiếp nói ra ý tưởng của mình mà phải xây dựng những hình tượng có rất nhiều sức gợi. Có những câu văn để trống để cho mọi người tự suy nghĩ và tìm hiểu, tự rút ra phần ẩn ý của tác phẩm.
Về tác phẩm thì nhân vật chính là ông già Xantiago – một ông già đánh cá người Cu ba. Ông đã 74 tuổi và trong suốt 84 ngày liền lão không câu được bất cứ một con cá nào dù nhỏ hay to. Chính vì thế mà đến cậu bé Ma nô lin cũng bị bố mẹ cấm không cho đi câu chung với lão nữa. Có thể nói người ta cho rằng ông vận xui rồi. Một hôm với ý chí không chịu khuất phục của mình xantiago quyết định một mình ra khơi đánh cá. Thế rồi câu chuyện bắt đầu từ đó và những hình tượng ý nghĩa cũng từ đó mà được nhà văn thể hiện.
Ông lão đi đến trưa thả một bốn cần câu và đợi cho đến trưa thì có một con cá kiếm cắn câu. Con cá ấy to lớn làm cho ông lão cảm thấy rất xứng đáng với tài nghệ của mình. Chính vì thế mà ông quyết định phải bắt được nó vào bờ cho người ta không nói được gì ông nữa. Con cá hiện lên với những ấn tượng vô cùng đẹp. đó là một con cá to nó thể hiện qua những vòng lượn tròn rất lớn. Không những thế ông lão còn thấy nó qua một cái bóng đen vượt dài qua dưới thuyền, Lão không thể tin vào độ dài của nó. “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm”. ” Thân hình đồ sộ và những dọc dài màu tía”, “bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”. Nhà văn đã dùng những từ hay nhất gọn nhất để có thể miêu tả hình ảnh của con cá kiếm ấy. Con cá ấy hiện lên thật sự rất lớn, nó làm cho ông lão cảm thấy như đang buộc một con thuyền khác lớn hơn vào cạnh thuyền của mình. Ngay khi đó, con cá ròng rã kéo ông lão ra khơi xa trong suốt hai ngày đêm. Một con người cô độc, ra khơi chỉ với một chai nước và quyết tâm không gì lay chuyển về việc bắt được con cá lớn xứng đáng với tài nghệ của mình, lúc này đã được đặt vào thử thách quyết định. Liệu lão có chinh phục được con cá kiếm ấy không?
Và cuộc chiến giữa ông già và con cá bắt đầu từ đó, một cuộc chiến không cân sức.
Về phía con cá nó tỏ ra cũng rất khôn ngoan. Khi bị mắc câu thì con cá lượn vòng chậm rãi bên thuyền sau đó nó lại đột ngột tấn công ông lão. Khi mệt nó lại chậm rãi, có những lúc ông lão tưởng rằng đã bắt được nó nhưng nó lại bơi ra xa. Con cá khiến ông lão chóng mặt hoa mắt choáng váng. Những vòng lượn ấy như thể hiện được sự cố gắng thoát khỏi sự bủa vây của người ngư phủ. Nó “phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trên không trung… rơi sầm xuống nước bắn tung trùm lên cả ông lão và chiếc thuyền”
Qua đây ta thấy được ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua hình tượng con cá kiếm. Đó là con cá kiếm là hình tượng văn học mang tính người, toát lên sự kiêu dũng cũng như bất khuất vượt lên mọi khó khăn của cuộc sống. không những thế con cá kiếm còn là biểu tượng của thiên nhiên đẹp đẽ vô cùng. Sức mạnh của thiên nhiên được thể hiện qua hình tượng đặc điểm của con cá Kiếm ấy. Đồng thời nó biểu tượng cho ước mơ khát vọng của con người.
Về phía ông lão thì sao?. Ông tỏ ra mừng vui khi thấy con cá nhưng ông cũng biêt là mình sẽ phải chiến đấu với nó để đi về. Đây là một cuộc chiến đấu không cân sức mà bên yếu lại là ông lão. Thế nhưng ông không chịu khuất phục mà kiên quyết bắt con cá đó về. Ông cảm nhận được những vòng lượn của con cá qua áp lực của những sợi dây. Và khi nhìn sự căng trùng của sợi dây thì ông biết nên kéo hay nới lỏng ra. Đặc biệt là hành động nhanh chóng và dứt khoát ông đã phóng lao trúng tim con cá. Cuộc chiến không cân sức như thế nhưng ông nhất định kiên cường ý chí và cuối cùng ông đã thu phục được nó.
Qua đây ta thấy được nhà văn khẳng định sức mạnh và vẻ đẹp của con người qua hình tượng ông lão. Đặc biệt là sự thắng lợi của con người trong hình trình chinh phục thử thách.
Thế nhưng kết cục câu chuyện thì quá thương tâm bởi vì khi ông bắt được nó như thế nhưng cuối cùng cũng bị đàn cá mập đến rỉa thịt con cá kiếm khiến cho nó khi vào bờ chỉ còn trơ bộ xương mà thôi. Nhưng điều đó không quan trọng mà quan trọng là ông lão đã thắng trong trận đấu không cân sức đó. Chính những điều đó mới là những điều để nhà văn gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng.
Qua đây ta thấy được phần nổi và phần chìm của tác phẩm. Phần nổi là hành trình chinh phục con cá kiếm của ông lão xantiago. Còn phần chìm gồm ông lão biêu tượng cho sức mạnh và trí tuệ của những người dân lao động. Con ca kiếm biểu tượng cho sức mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Biển cả khung cảnh kì vĩ đã là môi trường hoạt động sáng tạo của con người. Còn cuộc đi câu kia chính là hành trình đi tìm cái đẹp và chinh phục thiên nhiên. Nó còn là hành trình theo đuổi ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Và đồng thời là hành trình để vượt qua thử thách đu tới thành công.
Như vậy qua đây ta thấy được nguyên lí tảng băng trôi của Hê Minh uê và tác phẩm ông già và biển cả. Qua tác phẩm này chúng ta không những hiểu được nhưng phần chìm phần nổi của nó mà còn học tập được từ nhà văn lớn ấy lối viết kiệm lời này.
Đề bài: Phân tích tác phẩm “Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê.
I. Mở bài
– Hê–minh–uê là nhà văn nổi tiền của Mĩ và thế giới, được xem là một trong những người đã khai sinh ra nền văn chương Mĩ, ông là người đề xướng sáng tác van chương theo nguyên lí “tảng băng trôi” (một phần nổi, bảy phần chìm).
– “Ông già và biển cả” là một trong những sáng tác hay nhất của ông, tác phẩm thể hiện rõ nguyên lí “tảng băng trôi”.
II. Thân bài
1. Hình tượng con cá kiếm
– Đó là một con cá lớn và đẹp: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc hái lớn màu tím hồng dựng lên trên mặt đại dương xanh thẫm”, “một cái bóng đen vượt qua dưới con thuyền”, bộ vây to sụ nặng hơn mười tấn.
– Có sức mạnh ghê gớm: “những vòng bơi của nó khiến ông lão hoa mắt chóng mặt”, “ ông cảm nhận được cú nẩy mạnh đột ngột ở sợi dây do con cá gây ra”.
– Dù cận kề cái chết vẫn luôn kiên cường, bất khuất: “nó phóng lên khỏi mặt nước phô tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực”.
– Nhận xét: Tầm vóc của con cá khiến chiến thắng của ông lão trở nên vinh quang hơn.
+ Con cá là đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Đại diện cho những khó khăn thử thách trong cuộc sống con người phải vượt qua.
+ Đó còn là cái đẹp, những ước mơ, sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
2. Hình tượng ông lão đánh cá
– Sau 84 ngày đêm thất bại, ông lão vẫn cố gắng tìm kiếm và cuối cùng đã tìm được con cá kiếm lớn:
+ Ông là một lão ngư kiên trì.
+ Đó còn là biểu tượng cho người nghệ sĩ không ngừng sáng tạo, tìm kiếm cái mới trong nghệ thuật.
– Khi chiến đấu với con cá khổng lồ, ông đã chiến thắng nó, ông là một lão đánh ca lành nghề:
+ Chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây ông có thể biết con cá đang bơi vòng tròn hay liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
+ Dựa trên sự căng chùng của sợi dây có thể đoán được con cá đang làm gì.
+ Điêu luyện trong hành động phóng lao trúng tim con cá.
– Ông có sức mạnh ý chí phi thường, chiến thắng con cá kiếm:
+ Luôn tin tưởng vào khả năng của bản thân: “tao sẽ tóm được mày ở đường lượn, ta sẽ di chuyển được nó”.
+ Dù đã rất mệt mỏi sau chuỗi ngày dài trên biển, ông vẫn cố gắng chiến đấu với con cá kiếm khổng lồ.
– Nhận xét: Sau cuộc chiến, ông đã chiến thắng con cá lớn, điều này khẳng định:
+ Khát vọng của ông lão chính là khát vọng muốn chinh phục thiên nhiên của con người.
+ Sức mạnh phi thường, khả năng của con người không hề giới hạn.
+ Nhà văn thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của con người.
+ Người nghệ sĩ sau quá trình lao động nghệ thuật đã đạt được thành quả mình mong muốn.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng bằng bút pháp miêu tả sống động, chuyển hóa bức tranh với những đường nét trần trụi, chân thực sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn.
– Tác phẩm phản ánh hành trình khám phá, chinh phục thiên nhiên và nghệ thuật của con người. Con đường dẫn đến thành công phải trải qua bao khó khăn, cần phải có sự kiên trì.
Hê-minh-uê sinh ra trong một gia đình trí thức. Có thể coi ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Mỹ. Ông sáng tác dựa trên nguyên lí tảng băng trôi, ba phần nổi, bảy phần chìm, bởi vậy các tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Ông già và biển cả là tác phẩm thể hiện chính xác và đầy đủ nhất phong cách của ông. Tác phẩm ngay từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong giới văn nghệ sĩ. Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm.
Tác phẩm nổi bật lên với hai hình tượng chính là con cá kiếm và ông già đánh cá. Mỗi hình tượng mang những vẻ đẹp riêng, vừa bổ sung, vừa làm nổi bật vẻ đẹp của đối phương.
Trước hết hình tượng con cá kiếm đã được tác giả khắc họa vô cùng lớn và đẹp. Tác giả đã dung hàng loạt câu văn để miêu tả về vẻ đẹp của nó: Một cái bóng đen vượt dài qua dưới con thuyền, không dừng lại ở đó nó còn có một “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn màu tím hồng dựng trên đại dương xanh thẳm”. Thân hình của nó đồ sộ và những dọc màu tía trên mình và Cánh vi trên lưng xếp lại, bộ vây to sụ ên sườn xòe rộng. Chỉ với từng ấy câu văn thôi, nhưng Hê-minh-uê đã cho người đọc hình dung đầy đủ về vẻ đẹp của con cá kiếm và đằng sau vẻ đẹp kì vĩ, to lớn ấy chắc chẵn sẽ ẩn chứa những sức mạnh khủng khiếp. Sau khi mắc vào lưỡi câu của ông lão đánh cá, dù đã bị thương nhưng con cá vẫn có những vòng bơi lớn, liên tục, dường như vết thương đó không hề hấn gì với bề ngoài khổng lồ của nó. Chính những vòng bơi khổng lồ đó khiến cho ông lão hoa mắt, chóng mắt, và choáng váng. Quả thực đây là màn đấu lực không hề cân sức.
Nhưng không dừng lại ở đó, khắc họa hình tượng con cá kiếm tác giả còn cho thấy một vẻ đẹp khác của nó đó chính là vẻ đẹp của sự kiêu hùng và bất khuất. Khi bị ông lão phóng mũi lao trúng tim, bị kết liễu sinh mạng nhưng nó vẫn dùng hết những sức lực cuối cùng để tung người lên. Quả là một cái chết cách oai hùng, mạnh mẽ, kiêu ngạo, đầy khí phách. Tác giả không chỉ đơn thuần miêu tả con cá kiếm, mà đằng sau những câu văn miêu tả đó cũng chính là cách để tác giả tôn vinh ông lão đánh cá. Tác giả muốn con cá phải là đối thủ ngang sức, ngang tài của ông lão đánh cá, xứng đáng là con ác mà ông lão chờ đợi. Tôn vinh con cá cũng là tôn vinh chiến thắng vinh quang và tầm vóc của con người.
Đúng như nguyên lí tảng băng trôi, xây dựng hình tượng con cá kiếm, Hê-minh-uê cũng gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Trước hết dưới góc nhìn thiên nhiên, con cá kiếm là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của tự nhiên. Còn dưới góc nhìn từ cuộc sống con người, thì hình tượng con cá kiếm lại chính là biểu tượng cho những thử thách, chông gai trong cuộc đời mà con người cần phải vượt qua. Cuối cùng dưới góc nhìn nghệ thuật, con cá kiếm lại chính là biểu tượng của những mơ ước và sáng tạo.
Nhưng đẹp đẽ nhất, gửi gắm nhiều ý nghĩa nhất chính là hình tượng của ông lão đánh cá. Ông lão đánh cá được đặt trong cuộc chiến không hề cân sức, ông lão đã tuổi cao sức yếu, lại mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát và mệt mỏi. Ông đã bị suy kiệt nghiêm trọng về thể lực. Trong khi đó con cá kiếm lại to lớn, đầy sức mạnh, kiêu hùng bất khuất. Hơn nữa, biển cả là nhà, là thế mạnh thuộc về con cá kiếm. Đặt ông lão ông trong cuộc chiến không cân sức, tác giả nhằm tôn vinh, ngợi ca ông lão với những phẩm chất làm nên chiến thắng.
Trong cuộc chiến không cân sức ấy,những phẩm chất, vẻ đẹp của ông lão đánh cá đã được bộc lộ đầy đủ nhất. Trước hết ông là người thạo nghề, mưu trí và kinh nghiệm. Ông chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây có thể biết được con cá đang bơi tròn hay đang liên tục ngoi lê trong lúc bơi. Và ông chỉ cần dựa vào độ căng trùng của sợi dây có thể đoán biết được con cá đang làm gì. Nếu không phải là người đánh cá lành nghề, chắc chắn ông không thể có những phán đoán chính xác đến vậy. Đặc biệt ông có cách xử lí là kéo vào hay nới ra để con cá dần trở nên kiệt sức mà không bị đau đớn đến phát cuồng lên. Cuối cùng chính là cách ông lựa chọn thời điểm đưa ra đòn quyết định, phóng lao trúng tim con cá một cách dứt khoát, quyết đoán và đầy điêu luyện để chấm dứt cuộc chiến không cân sức này.
Để hạ gục được con cá, không chỉ cần sự điêu luyện, thành thạo mà còn cần cả niềm tin vào chính mình. Trong quá trình chiến đấu với con cá ông liên tục nhắc đi nhắc lại những lời động viên, khuyến khích bản thâ, tin tưởng vào chiến thắng: “tao sẽ tóm được mày”… Và hơn hết ông có ý chí và nghị lực phi thường. Nhiều lúc ông tưởng rằng mình có thể sẽ gục ngã: hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, chóng mặt và choáng váng, có cảm giác đổ sụp xuống bất cứ lúc nào… Tuy nhiên sức mạnh tinh thần đã nâng đỡ ông lão đánh cá gượng dậy tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng. Chiến thắng của ông đã gửi gắm những bài học ý nghĩa, phải luôn tin tưởng vào bản thân, không ngừng nỗ lực, phấn đấu. Đồng thời qua chiến thắng này, tác giả cũng nhằm khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và sức mạnh của con người.
Mặc dù chiến thắng con cá kiếm, nhưng ông lão cũng vô cùng thương xót nó, ngợi ca vẻ đẹp anh dũng, hào hùng của nó. Qua những suy nghĩ của ông lão về con cá kiếm tác giả cũng gửi gắm thông điệp: Con người và thiên nhiên có mối quan hệ anh em, dù rằng đôi khi thiên nhiên đột nhiên trở thành kẻ thù số một của con người. Con người dù phải chinh phục tự nhiên nhưng cũng không quên phải yêu mến và sống hài hòa với tự nhiên. Con người cần biết tôn trọng tự nhiên, cũng như tôn trọng kẻ thù nếu muốn giành chiến thắng. Và thừa nhận vẻ đẹp và những hành động không thể khác của đối thủ, của những người xung quanh mình là thái độ cần thiết để giữ thăng bằng trong cuộc sống, tránh nhìn người, nhìn đời một cách phiến diện và để biết cảm thông, chia sẻ với người khác.
Tác phẩm với tính biểu tượng cao, ngôn ngữ cô đọng hàm súc đã đem đến nhiều thong điệp ý nghĩa. Câu chuyện về ông lão đánh cá không đơn thuần chỉ là câu chuyện của sự mưu sinh mà nó còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của ước mơ và biểu tượng cho hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực.
Ông già và biển cả là một trong những tác phẩm đặc sác, thể hiện rõ phong cách sáng tác “tảng băng trôi” của nhà văn tài năng người Mĩ Hê-minh-uê. Tác phẩm là câu chuyện giữa ông lão và một con cá kiếm khổ lồ. Đó là một cuộc đọ sức kiên gan và đẹp đẽ, để từ đó thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh đẹp đẽ.
Đoạn trích gồm hai phân cảnh chính: thứ nhất là khi con cá kiếm bị mắc câu và cố sức vũng vầy để mong thoát khỏi lưỡi câu của ông lão; cảnh thứ hai là khi ông lão đánh cá đưa con thuyền và chiếc xác trở về bến.
Tác phẩm được mở ra bằng hình ảnh mặt trời rạng rỡ, ngày thứ ba sau khi con cá kiếm bị mắc câu. Cả hai đối tượng đều không chịu lùi bước. Con cá vẫn lượn vòng , làm căng sợi dây tạo nên “vòng tròn lớn”. Đáp lại nó, ông lão Xan-ti-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết sức lực của cả cơ thể, của trụ chân ra mà kéo” nhằm khuất phục con mồi. Sau hai giờ bơi, con cá cũng dẫn đuối sức, đường bơi đã hẹp đi nhiều, con cá dần dần ngoi lên mặt nước, ông lão lúc này cũng đã mệt thấm xương, mô hôi thấm đẫm. Cuộc đấu tranh, giằng co giữa cá và người cứ thế tiếp tục. Con cá mặc dù càng đuối sức nhưng nõ vẫn cố gắng vùng vẫy, khi thì đột ngột quật lên, làm căng sợi dây mảnh, khi thì nó khẽ nghiêng mình kéo chiếc chiếc thuyền đi. Ông lão cũng kiên quyết không bỏ cuộc, khi nhìn thấy cái bóng đen của con cá dần dần nổi lên, ông kinh ngạc: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm” “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng” . Con cá khổng lồ và đẹp ngoài sức tưởng tượng của ông. Điều đó càng khiến ông phải bình tĩnh để chinh phục được nó. lão Xan-ti-a-gô phải tự động viên mình “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.
Đối với ông lão lão Xan-ti-a-gô con cá không chỉ đơn thuần là đối tượng để săn bắt mà còn là người bạn, người anh em đối với lão. Trong cuộc chiến đó, ông còn trò chuyện, thủ thỉ với nó: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người an hem ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”. Lão Xan-ti-a-gô đã dùng những chữ đẹp đẽ nhất, tình cảm chân thành nhất để tâm tình với con cá.
Cuộc chiến cuối cùng cũng dần đi vào hồi kết, con cá đuối sức hơn, lúc nó rướn hẳn mình, lúc nó lại chầm chậm bơi ra xa. Lão Xan-ti-a-gô vẫn hết sự khéo léo, và sức lực của mình, lấy lao phóng vào cái ngực đồ sộ của nó. Con cá bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm cả lên ông lão và con thuyền”. Bằng sự lao động bền bỉ của mình ông lão đã chiến thắng, dù bị xây xát, nhưng con cá đã “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời” “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sau”.
Trận chiến suốt mấy ngày qua cuối cùng đã kết thúc. Đói và mệt rã rời, nhưng trong lòng ông lão cũng tràn đầy phấn chấn. Ông quyết địn lập tức going thuyền trở về. Giờ đây trong cơ thể lão tràn trề nhựa sống, lão thất người khoe hơn lúc náo hết, đầu óc trở nên tình táo, lão lặng ngắm con cá: “da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dung như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”. Ông lão nhìn con cá bằng sự ngưỡng mộ, tôn sung. Thành quả sau bao nỗ lực đã được đền đáp “Đi Ma-giô vĩ đạu sẽ tự hào về ta hôm nay”.
Tác phẩm sử dụng đan cài giữa ời độc thoại và độc thoại nội tâm giúp dễ dàng bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Không chỉ ấn tượng về nghệ thuật kể chuyện, mà tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bởi tinh thần lao động, sự kiên nhẫn và dũng cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
Hê-minh-uê là một trong những nhà văn vĩ đại nhất nước Mĩ thế kỉ XX. ông là người khai sinh ra nguyên lí sáng tác: coi tác phẩm nghệ thuật như một tảng băng trôi, người đọc tự khám phá phần chìm để thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực của tác phẩm, ông vinh dự được nhận Giải Pu-lit-dơ (1953) – giải thưởng văn chương cao quý nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học (1954). Hê-minh-uê đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, hồi kí, ghi chép… Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả. Đây là cuốn tiểu thuyết tuy chỉ có tầm cỡ của một truyện vừa nhưng lại là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê bởi nó đã chứa dựng thông điệp quan trọng được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn : Con người được sinh ra không phải để dành cho thất bại. Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại.
Bối cảnh của truyện là ngôi làng chài yên ả gần bến cảng La-ha-ba-na. Nhân vật chính là ông lão ngư phủ Xan-ti-a-gô với mơ ước cháy bỏng là sẽ đánh bắt được một con cá lớn nhất trong đời. Một mình trên con thuyền nhỏ bé ra khơi, ông lão quyết lập chiến công. Trải qua nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đầy vất vả, hiểm nguy, cuối cùng ông lão đã đánh bắt dược một con cá kiếm khổng lồ, buộc nó cặp mạn thuyền rồi dong vào bờ. Nhưng con cá kiếm đã bị đàn cá mập tấn công, ông lão dùng hết sức lực để chống chọi với lũ cá mập hung dữ. Khi đuổi được lũ cá mập ra xa thì con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương, ông lão buồn bã trở về túp lều của mình, nhưng trong lòng ông vẫn chưa tắt những ước mơ tốt đẹp.
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô đơn độc, quật cường đã chiến thắng con cá kiếm khổng lồ bằng ý chí phi thường và kĩ năng nghề nghiệp điêu luyện, Hê-minh-uê ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người lao động.
Ông già và biển cả được đánh giá là bài ca ca ngợi con người. Đây là tác phẩm hay nhất, nhiều ý nghĩa nhất, vì thế nôn đọc bất cứ đoạn nào chúng ta cũng thấy sự thể hiện sinh động của nguyên lí tảng băng trôi trong sảng tác của Hô-minh-uê.
Đoạn trích kể về việc sau khi con cá kiếm mắc câu, ông lão Xan-ti-a-gô đã vật lộn với nó gần hai ngày đêm, sức lực cạn kiệt nhưng ông lão vẫn quyết tâm giết bằng được nó. Cuộc chiến để thu hồi thành quả lao động của ông lão Xan-ti-a-gô quả là vất vả và khó nhọc.
Nhà văn miêu tả con cá kiếm như một “nhân vật đặc biệt” với những nét khác thường. Ở đầu đoạn trích, con cá chưa xuất hiện ngay mà chỉ tạo ấn tượng bằng những vòng lượn tròn rất lớn. Nhà văn có dụng ý để ông lão cảm nhận gián tiếp về con cá qua những vòng lượn của nó. Từ lúc mắc câu, con cá kiếm không nổi lên mặt nước mà cứ kéo sợi dây câu bơi ra xa. Sau đêm thứ hai, khi đã kéo chiếc thuyền của ông lão đi khắp các hướng thì con cá bắt đầu lượn vòng. Những vòng lượn gợi lên từng thời điểm và mức độ căng thẳng của cuộc đấu sức giữa ông lão và con cá kiếm. Lần thứ nhất, con cá còn khỏe nên nó lượn một vòng tròn rất lớn. Hai giờ sau, các vòng tròn hẹp hơn. Đến lần thứ hai, sau khi quật mạnh sợi dây vài lần, con cá không quật dây đáy nữa mà bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm, tức là nó đã dần dần đuối sức. Hai lần đầu, ông lão phán đoán độ lớn của con cá nhờ cảm giác từ đôi tay đang níu giữ sợi dây. Những vòng lượn tiếp theo, con cá đã nhô mình lên khỏi mặt nước và ông lão lần đầu tiên thấy con cá.
Xảy ra đồng thời với những vòng lượn để thoát khỏi lưỡi câu của con cá kiếm là hành động dùng hết sức níu sợi dây để kéo con cá vào gần thuyền của ông lão. Cứ mỗi lần con cá lượn vòng là mỗi lần ông lão phải gắng sức, đến nỗi cảm thấy choáng váng. Sau mỗi lần như thế, ông lão lại tự nhủ : Hãy cố lên chút nữa, hãy giữ đầu óc tỉnh táo! Những chi tiết này cứ lặp đi lặp tại cho đến khi ông lão phóng ngọn lao vào trúng tim con cá.
Kiểu kết cấu trên nhằm đặc tả sức mạnh và sự khôn ngoan của con cá kiếm và cho thấy mức độ gay go, quyết liệt của cuộc chiến giữa ông lão Xan-ti-a-gô với con cá kiếm. Vòng lượn của con cá càng nhiều và thay đổi liên tục chứng tỏ nó khôn ngoan, dũng cảm, kiên cường chống đỡ không kém gì đối thủ. Con cá cố gắng thoát khỏi sự níu kéo quyết liệt của lão ngư phủ. Cả hai bên đều đã kiệt sức nhưng đều cố giành phần thắng về mình.
Sự lặp lại những vòng lượn của con cá kiếm còn gợi lên hình ảnh một ngư phủ từng trải và lành nghề. Chỉ bằng mắt nhìn và cảm giác đau đớn nơi bàn tay, ông lão đã ước lượng được độ lớn của con cá qua những vòng lượn từ rộng tới hẹp, từ xa tới gần. Xan-ti-a-gô đã khéo léo điểu khiển sợi dây vì nếu để chùng dây thì không thể kéo con cá lại gần, còn nếu căng dây quá thì con cá sẽ nhảy vọt lên, có thể làm tuột lưỡi câu. Lúc đầu, ông lão thu ngắn dây để con cá không thể quay vòng : Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu liên tục kéo nhẹ nhàng.
Diễn biến cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô được tác giả miêu tả như một trận chiến đấu thực sự. Suốt hai giờ đồng hổ, ông lão mệt nhoài, người đẫm mồ hôi vì cứ phải ra sức kéo sợi dây để cho con cá khỏi quay vòng. Sức lực của ông lão suy kiệt nhanh chóng, ông lão thấy hoa mắt…, mồ hôi xát muối vào mắt lão và xát muối lên vết cắt phía trên mắt và trán. Ông lão tự nhủ : Chúa sẽ giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh Lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể đọc.
Đến vòng lượn thứ ba, khi đã thấm mệt, con cá không quật dây nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm… Rồi ông lão nhìn thấy : Cài đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tỉa trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng.
Ông lão phân tích tình hình, tìm mọi cách kéo con cá lại gần thuyền và tự động viên : Hãy bình, tĩnh và giữ sức, lão già ạ. Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Hãy tỉnh táo vì tao, đầu à… Nhưng đó cũng là lúc sức cùng lực kiệt : Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, hoặc nếu có thì cũng bằng giọng thì thảo, yếu ớt.
Khi ông lão chuẩn bị phóng mũi lao vào con cá, như trêu ngươi, nó rướn thẳng mình, lại chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Thời điểm quyết định đã tới: ông lão nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh… phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão… Con cá phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền.
Cách kể chuyện và miêu tả hấp dẫn của tác giả giúp người đọc hình dung ra diễn biến trận đánh càng về sau càng gay go, căng thẳng. Sức lực của ông lão cứ yếu dần đi theo từng vòng lượn của con cá kiếm.
Trong tình huống đơn độc và gay cấn, ông lão biết rằng tốt hơn cả là tự cứu mình. Vì thế nên ông lão củng cố tinh thần và sức chịu đựng để tồn tại và chiến thắng, luôn luôn tự nhủ : Hãy giữ cho đầu óc tĩnh táo và biết cách chịu đựng như một con người.
Ý chí, nghị lực của ông lão Xan-ti-a-gô còn thể hiện ở quyết tâm bắt bằng được con cá. Sức lực cạn kiệt nhưng lão vẫn cố gượng dậy để tiếp tục chiến đấu : Lão cảm thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, lão cảm thấy choáng váng, đau đớn…
Ông lão phán đoán, phân tích tình thế rồi đưa ra giải pháp hành động hợp lí, chính xác, đồng thời kiên trì chịu đựng và tin rằng mình sẽ giết được con cá: Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ có nó… Tao sẽ tóm mày ở đường lượn… Ta đã di chuyển được nó.
Sức mạnh mà Tạo hóa ban tặng cho con cá kiếm là để nó chiến đấu giành lại sự sống từ bàn tay con người. Sức lực của ông lão Xan-ti-a-gô là sức lực của con người. Ý chí, trí tuệ và kinh nghiệm đã giúp lão khắc phục hoàn cảnh, tuổi tác để cuối cùng giành được chiến thắng, ông lão thú vị rút ra bài học: Ta chỉ thạo hơn cu cậu ở mỗi cái trò mánh lới.
Thái độ đối với con cá kiếm phản ánh diễn biến phức tạp trong tâm trạng ông lão lúc này. Ông lão vừa yêu quý, khâm phục con cá vừa quyết tâm phải hạ gục nó. Lão thân mật gọi nó là người anh em và chân thành bày tỏ : Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ.
Nguyên do là vì Xan-ti-a-gô suốt đời làm nghề đánh cá mà đã lâu không bắt được con cá nào, có nghĩa là ông lão không còn tồn tại với tư cách của một ngư phủ. Ông lão đặt ra cho mình nhiệm vụ là bằng mọi giá phải bắt được con cá kiếm. Trong cuộc săn đuổi đó, con cá kiếm đã bộc lộ phẩm chất cao quý như một con người chân chính. Nó không lồng lên làm đắm thuyền, không lặn sâu xuống bứt đứt dây câu mà chấp nhận cuộc đấu tay đôi một cách sòng phẳng. Nó mải miết kéo chiếc thuyền của ông lão ra khơi xa. Những lời trò chuyện với con cá kiếm và độc thoại nội tâm cho thấy ông lão có cảm nhận rất khác lạ về con cá mà mình đang săn đuổi. Con cá kiếm khổng lồ vừa là đối tượng chinh phục vừa là bằng hữu của ông lão. Điều đó cho thấy hành trình tìm kiếm ước mơ của con người là vô cùng vất vả và hành trình thực hiện ước mơ lại càng gian nan hơn, đòi hỏi con người phải tập trung trí lực cao độ.
Hình ảnh con cá kiếm ở phần nổi là thành quả của nhiều ngày lao động vất vả trên biển của ông lão Xan-ti-a-gô. Ở phần chìm, nó tượng trưng cho ước mơ, khát vọng lớn lao của con người, là vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Trong quan hệ với con người, thiên nhiên vừa là bạn bè vừa là đối thủ.
Hình ảnh con cá kiếm khổng lồ trong tác phẩm được tác giả miêu tả từ xa tới gần, từ bộ phận tới toàn thể thông qua cảm nhận từ gián tiếp đến trực tiếp của ông lão Xan-ti-a-gô. Lúc đầu, ông lão chỉ thấy cái bóng đen dài vượt qua dưới con thuyền và cảm nhận rằng nó dài đến mức không thể tin nổi. Sau đó, ông lão nhìn thấy cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm. Sau vòng lượn thứ ba, ông lão đã ngạc nhiên đến bàng hoàng khi nhìn thấy tận mắt hình dáng tuyệt đẹp và độ lớn chưa từng có của con cá kiếm.
Con cá kiếm có một vẻ đẹp kiêu hùng, kì vĩ. Lúc bị ngọn lao của ông lão phóng trúng tim, con cá kiếm vẫn đẹp một vẻ đẹp tuyệt vời: Khi ấy con cá mang cái chết trong mình, sực tỉnh, phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền.
Sau khi ông lão đã buộc nó cặp mạn thuyền để đưa vào bờ thì: Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tía nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng còn mắt nó trông dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như vị thánh trong đám rước. Vẻ đẹp sống động không còn nữa mà thay vào đó là sắc màu nhợt nhạt của một sinh vật đã bị tước đoạt sự sống.
Sự khác biệt đó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: Con cá kiếm không chỉ là một con cá do ông lão săn được mà là hình ảnh của ước mơ, lí tưởng mỗi con người theo đuổi trong suốt cuộc đời. Sự khác biệt đó còn gợi cho người đọc suy nghĩ: Phải chăng đó là khoảng cách xa vời giữa ước mơ và hiện thực. Khi ước mơ đã trong tầm tay hoặc đã trở thành hiện thực thì nó không còn giữ được vẻ đẹp đẽ, huy hoàng như trước nữa.
Hình ảnh con cá kiếm còn tượng trưng cho khát vọng nghệ thuật và quá trình sáng tạo của nhà văn. Sự xuất hiện lần đầu của con cá kiếm ám chỉ cơ hội cho nhà văn khám phá cuộc sống. Hành trình theo đuổi con cá của ông lão Xan-ti-a-gô cũng là hành trình lao động nghệ thuật của nhà văn. Con cá kiếm vừa xuất hiện cũng giống như tác phẩm mới hình thành ở ý đồ sáng tác, nhà văn chỉ mới cảm nhận được ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Đến khi tác phẩm đã hoàn thành thì nó phô ra vẻ đẹp để mọi người có thể nhìn thấy, cũng giống như con cá kiếm lúc phóng vút lên khỏi mặt nước. Đến khi đã có đời sống riêng thì chính tác phẩm đưa tác giả đến bến bờ vinh quang. Con cá kiếm là đối tượng để ông lão chinh phục và chiến thắng, là người anh em để lão so tài và thử sức, là mục đích, lí tưởng mà ông lão hướng đến. Như vậy, khuất phục được đối thủ vừa thể hiện trí tuệ và lòng dũng cảm, niềm kiêu hãnh của con người và là cơ sở để giúp con người đánh giá khả năng chinh phục thiên nhiên.
Đoạn trích trên tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hê-minh-uê : ngôn ngữ trong sáng, giản dị, lối kể chuyện thông qua việc sử dụng đối thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật cùng với những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng. Sự lặp đi, lặp lại những chi tiết theo kiểu kết cấu vòng tròn xoắn trôn ốc giúp người đọc có thể bóc dần từng lớp vỏ ngôn ngữ để khám phá ra ý nghĩa và giá trị thực sự của tác phẩm. Đoạn trích còn cho thấy khả năng quan sát nhạy bén và trí tưởng tượng phong phú của Hê-minh-uê – nhà văn bậc thầy về tiểu thuyết.
Tác phẩm Ông già và biển cả cũng thể hiện tình cảm yêu mến, khâm phục của nhà văn đối với những con người lao động nghèo khổ. Tác giả muốn chuyển đến người đọc một thông điệp quan trọng : Trong cuộc đấu tranh vật lộn mưu sinh hay để lập chiến công, con người có thể chấp nhận cái chết, nhưng không bao giờ chấp nhận lùi bước. Câu chuyện về ông lão đánh cá già nua, đơn độc nhưng vô cùng dũng cảm đã cổ vũ biết bao người trên thế giới dám dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại.
Nhắc đến nguyên lý tảng băng trôi nổi tiếng thì chúng ta nhớ ngay đến nhà văn Hê minh uê. Có thể nói ông là một nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ thế kỉ XX. Ông để lại nhiều tiểu thuyết hay có giá trị về cuộc sống trong đó có tác phẩm ông già và biển cả. Từ tiểu thuyết ấy đã đánh dấu tên tuổi của ông. Đặc biệt tác phẩm ấy còn được viết theo nguyên lý tảng băng trôi.
Trước hết là nguyên lí tảng băng trôi thì ông chính là người đề xướng lối viết kiệm lời nhưng lại giàu ý nghĩa ấy. Theo ông thì một tác phẩm thì phải được viết theo nguyên lí tảng băng trôi mà chỉ có ba phần nổi bảy phầm chìm đòi hỏi mọi người phải suy nghĩ chiêm nghiệm mới có thể thấy hết cái hay của nó. Nhà văn không trực tiếp nói ra ý tưởng của mình mà phải xây dựng những hình tượng có rất nhiều sức gợi. Có những câu văn để trống để cho mọi người tự suy nghĩ và tìm hiểu, tự rút ra phần ẩn ý của tác phẩm.
Về tác phẩm thì nhân vật chính là ông già Xantiago – một ông già đánh cá người Cu ba. Ông đã 74 tuổi và trong suốt 84 ngày liền lão không câu được bất cứ một con cá nào dù nhỏ hay to. Chính vì thế mà đến cậu bé Ma nô lin cũng bị bố mẹ cấm không cho đi câu chung với lão nữa. Có thể nói người ta cho rằng ông vận xui rồi. Một hôm với ý chí không chịu khuất phục của mình xantiago quyết định một mình ra khơi đánh cá. Thế rồi câu chuyện bắt đầu từ đó và những hình tượng ý nghĩa cũng từ đó mà được nhà văn thể hiện.
Ông lão đi đến trưa thả một bốn cần câu và đợi cho đến trưa thì có một con cá kiếm cắn câu. Con cá ấy to lớn làm cho ông lão cảm thấy rất xứng đáng với tài nghệ của mình. Chính vì thế mà ông quyết định phải bắt được nó vào bờ cho người ta không nói được gì ông nữa. Con cá hiện lên với những ấn tượng vô cùng đẹp. đó là một con cá to nó thể hiện qua những vòng lượn tròn rất lớn. Không những thế ông lão còn thấy nó qua một cái bóng đen vượt dài qua dưới thuyền, Lão không thể tin vào độ dài của nó. “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm”. ” Thân hình đồ sộ và những dọc dài màu tía”, “bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”. Nhà văn đã dùng những từ hay nhất gọn nhất để có thể miêu tả hình ảnh của con cá kiếm ấy. Con cá ấy hiện lên thật sự rất lớn, nó làm cho ông lão cảm thấy như đang buộc một con thuyền khác lớn hơn vào cạnh thuyền của mình. Ngay khi đó, con cá ròng rã kéo ông lão ra khơi xa trong suốt hai ngày đêm. Một con người cô độc, ra khơi chỉ với một chai nước và quyết tâm không gì lay chuyển về việc bắt được con cá lớn xứng đáng với tài nghệ của mình, lúc này đã được đặt vào thử thách quyết định. Liệu lão có chinh phục được con cá kiếm ấy không?
Và cuộc chiến giữa ông già và con cá bắt đầu từ đó, một cuộc chiến không cân sức.
Về phía con cá nó tỏ ra cũng rất khôn ngoan. Khi bị mắc câu thì con cá lượn vòng chậm rãi bên thuyền sau đó nó lại đột ngột tấn công ông lão. Khi mệt nó lại chậm rãi, có những lúc ông lão tưởng rằng đã bắt được nó nhưng nó lại bơi ra xa. Con cá khiến ông lão chóng mặt hoa mắt choáng váng. Những vòng lượn ấy như thể hiện được sự cố gắng thoát khỏi sự bủa vây của người ngư phủ. Nó “phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trên không trung… rơi sầm xuống nước bắn tung trùm lên cả ông lão và chiếc thuyền”
Qua đây ta thấy được ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua hình tượng con cá kiếm. Đó là con cá kiếm là hình tượng văn học mang tính người, toát lên sự kiêu dũng cũng như bất khuất vượt lên mọi khó khăn của cuộc sống. không những thế con cá kiếm còn là biểu tượng của thiên nhiên đẹp đẽ vô cùng. Sức mạnh của thiên nhiên được thể hiện qua hình tượng đặc điểm của con cá Kiếm ấy. Đồng thời nó biểu tượng cho ước mơ khát vọng của con người.
Về phía ông lão thì sao?. Ông tỏ ra mừng vui khi thấy con cá nhưng ông cũng biêt là mình sẽ phải chiến đấu với nó để đi về. Đây là một cuộc chiến đấu không cân sức mà bên yếu lại là ông lão. Thế nhưng ông không chịu khuất phục mà kiên quyết bắt con cá đó về. Ông cảm nhận được những vòng lượn của con cá qua áp lực của những sợi dây. Và khi nhìn sự căng trùng của sợi dây thì ông biết nên kéo hay nới lỏng ra. Đặc biệt là hành động nhanh chóng và dứt khoát ông đã phóng lao trúng tim con cá. Cuộc chiến không cân sức như thế nhưng ông nhất định kiên cường ý chí và cuối cùng ông đã thu phục được nó.
Qua đây ta thấy được nhà văn khẳng định sức mạnh và vẻ đẹp của con người qua hình tượng ông lão. Đặc biệt là sự thắng lợi của con người trong hình trình chinh phục thử thách.
Thế nhưng kết cục câu chuyện thì quá thương tâm bởi vì khi ông bắt được nó như thế nhưng cuối cùng cũng bị đàn cá mập đến rỉa thịt con cá kiếm khiến cho nó khi vào bờ chỉ còn trơ bộ xương mà thôi. Nhưng điều đó không quan trọng mà quan trọng là ông lão đã thắng trong trận đấu không cân sức đó. Chính những điều đó mới là những điều để nhà văn gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng.
Qua đây ta thấy được phần nổi và phần chìm của tác phẩm. Phần nổi là hành trình chinh phục con cá kiếm của ông lão xantiago. Còn phần chìm gồm ông lão biêu tượng cho sức mạnh và trí tuệ của những người dân lao động. Con ca kiếm biểu tượng cho sức mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Biển cả khung cảnh kì vĩ đã là môi trường hoạt động sáng tạo của con người. Còn cuộc đi câu kia chính là hành trình đi tìm cái đẹp và chinh phục thiên nhiên. Nó còn là hành trình theo đuổi ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Và đồng thời là hành trình để vượt qua thử thách đu tới thành công.
Như vậy qua đây ta thấy được nguyên lí tảng băng trôi của Hê Minh uê và tác phẩm ông già và biển cả. Qua tác phẩm này chúng ta không những hiểu được nhưng phần chìm phần nổi của nó mà còn học tập được từ nhà văn lớn ấy lối viết kiệm lời này.
Đề bài: Tóm tắt truyện “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê-minh-uê.
Bài làm
Lão chài Xan-chi-a-gô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển ngoại ô thành phố La-ha-ba-na. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi, đi đi về vế chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông lại ra khơi chỉ có một mình đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi rất nhiều cá. Buông câu từ sáng sớm, mãi đến non trưa phao câu mới động đậy. Cá mắc câu kéo thuyền chạy. Lão gò lưng, gập mình kéo lại. Từ trưa tới chiểu, rồi một ngày một đêm nữa trôi qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu bánh mì vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả nhưng lão không chịu buông tha: “Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!”. Sang ngày thứ 3, cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6 – 7 tấn, dài hơn con thuyền câu của lão độ 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập đuổi theo chiếc thuyền câu, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài dùng mái chèo quật tới tấp vào đàn cá dữ trong đêm tối. Khi lão Xan-chi-a-gô về tới bến, con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Lão nằm vật ra lều ngủ thiếp đi, “mơ thấy đàn sư tử”. Sáng hôm sau, bé Ma-nô-lín chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông lão.
Đề bài: Phân tích hình tượng ông lão trong tác phẩm Ông già và biển cả của Hê-Minh-Uê
Bài làm
Sau 87 (84 + 3) ngày đêm ra khơi đánh cá, ông lão Xanchiagô mới câu được con cá kiếm khổng lồ, nặng độ 6, 7 tấn, dài hơn chiếc thuyền câu khoảng 7 tấc. Đói khát, mệt rã rời, đôi tay bị dây câu do cá kéo cứa rách, ứa máu. Cái giá phải trả cho một chuyến ra khơi thật đáng tự hào. Bạn chài chắc sẽ không chế giễu lão về vận xúi quẩy nữa! Lão càng tự hào về “sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!”
Ở đời có lúc miếng ăn đã kề miệng vẫn còn bị kẻ khác giật mất! Trường hợp lão Xanchiagô mất con cá kiếm quả đúng như vậy. Trên đường giong cá về bến, lão chài lại gặp chuyện chẳng lành. Đàn cá mật đã thục mạng lao vào thuyền lão để đớp mồi. Cảnh “đương đầu với đàn cá dữ” diễn ra vô cùng bi tráng. Lão chài bị bất ngờ, bị động hoàn toàn. Thế và lực quá chênh lệch. Cuộc chiến diễn ra giữa biển đêm. Lão chài chẳng khác nào một kẻ mù giữa vòng vây của đàn cá dữ! Chỉ có một cái chày làm vũ khí. Lão thân cô thế cô, lại bị kiệt sức sau 3 ngày 2 đêm đuổi bắt con cá kiếm mắc câu. Kẻ thù của lão chài là một đàn cá mập đông đảo, khát mồi và cực kỳ hung dữ. Cá lại được màn đêm, được sóng biển che giấu, bất ngờ xuất hiện. Đàn cá biến hóa, lão chài căng mắt nhìn chỉ thấy “những chiếc vi cá mật xẻ dọc ngang trên mặt biển và những đường lân tinh lấp lánh”. Những hàm răng cá mập táp mồi “sần sập”, lưng đàn cá dữ cuộn sóng làm cho “chiếc thuyền câu chòng chành”. Không chỉ con cá kiếm mà ngay cả lão chài cũng sẽ trở thành mồi ngon cho đàn cá dữ đói mồi! Hêminguây đặc tả lưng cá mập đội con thuyền câu đã vẽ nên một cảnh hãi hùng, đầy nguy hiểm!
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một dữ dội. Người đọc có cảm giác là bao nhiêu cá mập ở vùng biển “Giếng Lớn” đã kéo tới bủa vây lấy chiếc thuyền câu. Lão già như bị màn đêm bịt mắt, “vụt nháo nhào lên những chiếc đầu” cá mập. Lão bị động “kháng cự một cách tuyệt vọng với một kẻthù mà lão chỉ nghe bằng tai, bằng cảm giác “Thật bất ngờ cái chày – vũ khí chiến đấu -bị cá dữ ngoạm “giật phắt đi”. Lão Xanchiagô đâu phải là kẻ tầm thường, khoanh tay đầu hàng đàn cá mập! Thành quả lao động được làm nên bằng mồ hôi và máu, không thể nào để đàn cá dữ cướp đi. Nhanh nhẹn và dũng mãnh, lão tháo tay lái làm vũ khí chiến đấu. Cuộc chiến giữa người với đàn cá dữ ngày một trở nên dữ dội quyết liệt! Lão già lấy hết sức bình sinh, nắm chắc tay lái, thẳng cánh, vụt túi bụi ra bốn phía”. Lão chài bị đàn cá mập khép chặt vòng vây! Đàn cá dữ túm tụm lại đằng sau lái, con nọ tiếp con kia. Khi thì cả bầy một lượt, chúng đâm bổ vào xác con cá. Bầy cá dữ khát mồi không chịu rời chiếc thuyền câu “ngoạm xong một miếng quay ra rồi quay trở lại. Xác cá bị rỉa, bị đớp, bị ngoạm. Những mảnh thịt mà đàn cá mập đớp được” lấp lánh dưới nước!
Con cá kiếm khổng lồ thế mà giờ đây chỉcòn một ít thịt dính vào đầu! Con cá cuối cùng xông đến đớp vào đầu cá. Có thể nói đây là một hiệp đấu ác liệt, cá và người đánh giáp lá cà. Lão chài dũng mãnh “hoa cái tay lái lên và quật đúng vào răng hàm cá mập”. Ông lão giáng trả như vũ bão “quật liên hồi hai bận, ba bận, mười bận!”. Bất thình lình chiếc tay lái gẫy rắc, lão dũng mảnh vẫn tiếp tục quật vào đầu cá… vụt nữa làm cho “con cá mập nhả con cá và oằn mình lăn xa”.
Như người lính chiến ngoan cường trên chiến địa, đánh đến giọt máu cuối cùng, bắn đến viên đạn cuối cùng, hết đạn thì dùng lê tử chiến với giặc, lão chài Xanchiagô cũng vậy! Một mình đơn độc chống với đàn cá dữ giữa biển đêm, khi cái chày bịcá mập ngoạm mất, lão bình tĩnh và sáng suốt xử lý tháo ngay tay lái làm vũ khí. Càng đánh càng hăng, lão đã quật tới tấp vào đầu cá dữ, quật mạnh đến nỗi gãy cả mái chèo. Lão đã giáng cho con cá mập sau cùng một đòn chí mạng!
Việc đánh bắt được con cá kiếm nặng 6, 7 tấn là một chiến công! Cuộc đấu với đàn cá dữ không cân sức, thịt con cá kiếm bị đàn cá mập ngoạm sạch, đớp sạch, nhưng lão vẫn còn giữ được bộ xương cá, giữ được con thuyền câu. Câu nói của lão: “Thuyền của mình vẫn tốt nguyên và chẳng sứt mẻ một tẹo nào, trừ chiếc tay lái ra không kể. Cái đó cũng dễ thay!” -điều đó cho thấy, tuy thất trận nhưng lão chài vẫn còn tiềm lực! Nhất định lão lại ra khơi. Giữ vững niềm tin sau chiến bại không phải ai cũng có ý chí ấy! Lúc quật vào đàn cá dữ, ông lão cảm thấy một mùi kì dị trong mồm: “vừa tanh như sắt, vừa ngòn ngọt”. Mùi kỳ dị ấy là máu và cũng là dư vị cay đắng của sự thất bại! Như một sự tổng kết sau trận đánh, lão Xanchiagô nhổ toẹt máu xuống biển và nói: “Cho chúng mày nuốt đi lũ cá mật kia. Nuốt đi để tưởng tượng là vừa giết chết được một con người”. Một cái nhổ toẹt đầy khinh bỉ. Một câu nói vừa giễu cợt vừa thách thức kẻ thù! Trong chiến bại mà lão chài vẫn ngạo nghễ! Đó là tâm thế và bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính. Cảnh “đương đầu với đàn cá dữ” được miêu tả rất sống động.
Lão chài được đặt trong thế đối địch tương phản chênh lệch. Các chi tiết nghệ thuật được khắc họa và tái hiện chủ yếu bằng thính giác, cảm giác, xúc giác… trong biển đêm vô cùng ghê rợn và ác liệt! Người thì máu đầy mồm, cá thì lăn xảvào đớp mồi, bị quật nhừ tử. Lời đối thoại của Xanchiagô với đàn cá mập lúc thì thách thức khinh bỉ, lúc thì thừa nhận thất bại. Vốn liếng còn đó, lão chài rồi lại ra khơi. chỉcó một mình đơn phương độc mã đương đầu với đàn cá mập thế mà sau cuộc chiến, lão chài lại nói: Gió cũng là bạn tốt của ta… đôi khi cũng là bạn tốt… biển cả với những bạn hữu và kẻ thù của ta… “Gió làm căng cánh buồm. Biển có đàn cá dữ, nhưng cũng có cánh chim hiền lành, biển là nơi làm ăn của lão và các bạn chài. Cách nghĩ của lão chài mộc mạc, bình dị nhưng ham sống biết bao.
Ở đời cái đáng sợ là không nhận diện được kẻ thù. Cái đáng sợ nữa không phải là sự thất bại mà là chưa biết tìm ra nguyên nhân thất bại. Ở đây, lão chài Xanchiagô tự nói với mình: “Ta thử nghĩ xem cái gì đã làm cho ta thất bại nhỉ? Không, không có cái gì cả. Ta đã đi xa quá! Đó là phần ngầm của “tảng băng trôi” mà Hêminguây muốn gửi gắm bạn đọc: Mọi khát vọng đều đẹp, đều đáng yêu. Khát vọng quá lớn, vượt xa khả năng hiện thực thì sẽ thất bại. Hình ảnh lão chài Xanchiagô trong cảnh “đương đầu với đàn cá dữ” này cho ta bài học về sức mạnh, khí phách và niềm tin trong lao động và -cuộc sống.
Đề bài: Nêu cảm nhận khi đọc đoạn trích truyện “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê-minh-uê.
Bài làm
Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc trên mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú. Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già và biển cả,v.v… là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
“Ông già và biển cả” là một truyện vừa, kể lại chuyền ông chài Xan-chi-a-gô trong một chuyến ra khơi may mắn đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ. Khi giong thuyền đưa cá về bến thì bị đàn cá mập đuổi theo; lão đã dùng mái chèo, dùng chày chống trả dữ dội. Thuyền cập bến, lão thiếp đi trong căn lều nhỏ. Du khách xúm quanh con thuyền ngắm nhìn con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương với cái đuôi tuyệt đẹp.
Đoạn trích có hai cảnh: 1, cảnh con cá mắc câu vùng quẫy cố thoát trước khi bị phóng lao chết; 2, Cảnh lão chài giong thuyền đưa cá về bến.
Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá “quay tròn” tạo nên những “vòng tròn rất lớn”. Xan-chi-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo”. Có lúc lão “phải dốc sức ra mà níu”, quyết “khuất phục” con mồi. Hai giờ sau, khi con cá “chậm rãi lượn vòng”,các vòng tròn lượn của nó “đã hẹp hơn nhiều”, con cá đang ngoi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài “mồ hôi ướt dẫm… mệt thấu xương”. Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng… “khiến lão sợ”. Lão muốn đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong “Chúa giúp… chịu đựng”.
Khi con cá “quật đột ngột” làm cho sợi dây nẩy mạnh, hình như nó đau quá “cuồng lên”, lão chài bèn vốc ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây lên lưng, lão tự nhủ mình “đứng dậy chiến đấu”.
Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy “một cái bóng đen”,… lão thắc mắc hỏi: “Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: “Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm”. Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn “thân hình đồ sộ và những sọc màu tím trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”.
Cuộc đấu giữa người và cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài “toát mồ hôi đầm đìa”, tự động viên mình: “Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”. Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá “khẽ nghiêng mình”, lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: “Ta đã di chuyển được nó… Ta đã di chuyển đượ nó rồi”. Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão “tâm sự” với tay, với chân, với đầu của mình: “Kéo đi, tay ơi…Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.
Con cá kiếm không chỉ là “đối tượng” săn bắt, không chỉ là “đối thủ” giằng co, mà còn là “bạn”, là “người anh em” đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng “khô khốc”, mệt nhoài, khi đã “đuối sức”, lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”…
Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó “rướn thẳng mình”, lúc thì nó “chầm chậm bơi xa”, cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong không trung”, lúc thì nó “chầm chậm bơi xa”, cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong không trung”, lúc thì nó “bơi nghiêng”, mõm gần chạm tới mạn thuyền trong “cơn hấp hối”. Lão chài buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó. Con cá kiếm bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão và con thuyền”. Đôi tay lão chài “xây xát”; còn con cá “nằm ngửa phơi bụng ánh bạc của nó lên trời”. Biển đổi màu “bởi màu đỏ loang từ tim cá”, làn máu đen sẫm loang ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây. Trên mặt biển, cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng”.
Thành quả lao động đã nắm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời. Lão chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cái mấu đằng mũi thuyên, chuẩn bị dựng cột, giong thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm: “Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”.
Giờ đây, lão chài cảm thấy “khoẻ hơn”, đầu óc “tỉnh táo”. Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cend một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ “Di Maggio vĩ đại sẽ hào về ta hôm nay”. Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị giong thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.
Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão “rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi”. Uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lão giong thuyền êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.
Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta “bỡ ngỡ” nhất là sự đan cài lời độc thoại, độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lồ đã đe lại cho ta nhiểu ấn tượng sâu sắc. Lao động thật sự ỉà bài ca của lòng kiên nhản và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc mà do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại.
Các nhà lí luận thường nói đến “tảng băng trôi”- ý nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm của Hê-minh-uê. “Ông già và biển cá” đem đến vinh dự giải thưởng Pu-lit-ze (1953) cho tác giả, nó là một ẩn dụ ca ngợi ý chí, tính kiên nhẫn, sức mạnh và lòng dũng cảm của con người trong lao động và khám phá thiên nhiên. Nó đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta bao ý nghĩ tốt đẹp về con người và lao động, về con người và thiên nhiên.
Đề bài: Nguyên lí Tảng băng trôi trong tác phẩm “Ông già và biển cả”
Bài làm
Hê-Minh-Uê đã sử dụng một hình ảnh nổi tiếng để nói về phương pháp viết của ông , đó là phương pháp “tảng băng trôi” : 7/8 chìm dưới nước, chỉ 1 phần nổi lên trên cho mọi người nhìn thấy. Hình ảnh ấy chẳng những minh họa cho phong cách Hêminhuây mà nó còn đưa ra một cách tóm tắt yêu cầu đối với một áng văn chương thật sự có giá trị, đặc biệt đối với độc giả của thế kỉ XX.
Truyện đòi hỏi một sự đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Mỗi người đọc theo các cấp độ khác nhau sẽ khám phá được những tảng ngầm của “tảng băng trôi” – tác phẩm văn chương. Hình ảnh này của Hêminhuây thật ra đã được một thuật ngữ lí luận gợi lên : đó là mạch ngầm văn bản.
Dưới vẻ trần trụi , thô sơ, rõ ràng bên ngoài, tác phẩm của ông ẩn giấu những tầng sâu kín, đa nghĩa và đầy chất thơ. Thoạt nhìn , ngôn từ ở đây thường rất ngắn gọn và đơn giản , điều này đặc biệt thể hiện qua 1 loại ngôn từ mà người ta coi là sở trường của ông, ngôn ngữ đối thoại. Người ta ví lối văn chương đối thoại của Hêminhuây với những băng ghi âm hoặc nói đến lối văn điện tín. Đối thoại rời rạc, khó hiểu ấy không đơn giản chỉ hứng thú của nhà văn, mà thường gắn bó với kiểu nhân vật Hêminhuây: họ không trần tình, bộc lộ tâm tư mà thường khi lại giấu kín nó.
Muốn hiểu hết đối thoại của nhân vật Hêminhuây, nhiều khi phải đọc cả những im lặng và nhập hẳn vào văn cảnh của họ nữa. Huống chi nhà văn thường ẩn mình, không giải thích , bình luận nhiều về nhân vật, nên có những câu đối thoại gần như hoàn toàn thuộc về phần chìm của “tảng băng trôi”
Phần nổi của “tảng băng trôi” trong “Ông già và biển cả”
Đó là những gì nhìn thấy được: Văn bản ngắn gọn, đơn giản.
Qua lượng ngôn từ hạn hẹp chuyển tải những lớp nghĩa hết sức sâu xa. Nhà văn Macket nhận xét : “Những gì Hêminhuây viết trong khoảng 100 trang sách đó những nhà văn khác có thể biến thành 1 cuốn tiểu thuyết dày hàng nghìn trang”.
Nhân vật số lượng cũng không nhiều, cũng là tác phẩm đơn giản về hoạt động câu cá cũng là sự giản lược về cốt truyện. Tác phẩm có khoảng 100 trang (khoảng 27000 từ).
Phần chìm của “tảng băng trôi” trong “Ông già và biển cả”.
Các tầng ý nghĩa khai thác được. Theo Lê Huy Bắc có 3 cách hiểu về “Ông già và biển cả”:
Đọc tác phẩm theo triết lí về cái bi đát của các nhà văn hiện sinh. Tác giả dường như muốn khẳng định cuộc đời của con người là một cuộc hành trình mệt nhọc và chẳng bao giờ tới đích nên ông lão dù có câu được con cá kiếm, chiến thắng nó cũng chẳng mang được nó vào bờ.
Khi ông lão mang bộ xương vào bờ, người thấy được giá trị của nó là cậu bé cái mà người hướng dẫn viên du lịch không hiểu được => Cái có giá trị với người này lại trở nên vô giá với người khác. “Không phải tôi không muốn bi kịch hóa cuộc đời nhưng mỗi lần ta yên tâm về một việc gì đấy thì đó là dấu hiệu của 1 dấu hiệu của 1 sự thảm bại”.
Theo cái nhìn tiến bộ của các nhà phê bình Mácxit: “Đây là cuộc chiến của con người chống lại số phận” . Khi con người nỗ lực phấn đấu thì sẽ không bị khuất phục.
Gs. Phùng Văn Tửu nhận xét “Tác phẩm miêu tả cuộc vật lộn gay gắt của con người vs thiên nhiên đầy chân thực từ đó nâng lên thành tầng ý nghĩa thứ 2: nêu bật cái quyết liệt, tàn bạo của đời sống và khả năng chống trả của con người”
Đặng Anh Đào nhận định “Santiago giống như bức tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện đại trên thế giới này”
Phong Lê lại đánh giá “Ông già và biển cả” ở góc độ tố cáo hiện thực xã hội, xem ông lão như 1 người lao động cực nhọc, vất vả.
Con cá kiếm là thành quả lao động nhưng lại bị bọn cá mập cướp đi (bọn cá mập đồng nghĩa vs bọn tư sản bóc lột người lao động) : “Ta có thể thấy đâu đó thấp thoáng bóng dáng 1 xã hội loài người đầy rấy những bất công trong loài người với nhau. Trong xã hội ông già đang sống, đất liền kia cũng có bao nhiêu đàn cá mập hung hãn và tham lam không kém. Nó đang ngồi dưng ăn bám, cướp không bao nhiêu của cải, mồ hôi nước mắt của người dân lao động.
Đọc tác phẩm từ góc độ mĩ học
Theo Lê Huy Bắc: Ông lão là nhân vật đẹp (đẹp ở cả ý chí và khát vọng) => Bi kịch của cái đẹp: Sự nỗ lực đó không đem lại kết quả gì cả, con cá kiếm rõ ràng là 1 đối thủ đẹp của ông lão cuối cùng cũng bị chính ông lão tiêu diệt và trở thành chiến tích thảm thương vì không ai hiểu giá trị của nó.
Hành động đuổi theo con cá là hành động thể hiện khát vọng của con người vươn đến cái đẹp, cái lớn lao hơn mặc cho kết quả lại là 1 bi kịch. “Cái tốt đẹp chẳng bao giờ bền lâu”
So sánh công việc câu cá với nghề viết văn ta cũng thấy được sự tương đồng giữa chúng:
Câu cá cần sức lực, viết văn cần công lao. Mục đích hướng đến 1 bên là câu được cá, kiếm được tiền còn bên kia là phấn đấu hoàn thành tác phẩm tuyệt vời. Lão đánh cá kì vọng vào 1 con cá lớn, còn nhà văn chờ đợi 1 tác phẩm hay , có giá trị. Đôi khi kết quả mang về lại là một bộ xương khô hay 1 tác phẩm không như ý muốn. Bộ xương cá cũng có người hiểu được (cậu bé Mandoli ) cũng có người không (người hướng dẫn du lịch) và công việc viết văn cũng vậy: số người hiểu được đón nhận tác phẩm đôi khi không nhiều bằng số người không hiểu, thờ ơ.
Những yếu tố hỗ trợ cho nguyên lí “tảng băng trôi”
Độc thoại: Tác giả nhường lời cho nhân vật để khắc họa hình tượng nhân vật ngoài biển khơi, thủ pháp nhường lời cho nhân vật. Khi lời độc thoại lấn át lời kể có nghĩa là tác giả để nhân vật tự lên tiếng, tự bộc lộ. “Lão tự nhủ, lão nghĩ, lão cho rằng…..” người kể chuyện tỏ ra lạnh lùng, khách quan, không lồng vào đó dòng suy nghĩ nào mà đánh giá, nhận xét chuyển sang phía người đọc.
“Cái đẹp thì chẳng bao giờ tồn tại được lâu”
Nghĩa đen: con cá quá lớn không thể mang lên thuyền và rồi bọn cá mập cũng xơi mất.
Nghĩa bóng : Khi ôm ấp khát vọng quá lớn thì khó có thể thực hiện được.
Đối thoại: Trong tác phẩm lời đối thoại rất ít.
Hình tượng nhân vật: 2 nhân vật chính trái ngược nhau
Ông lão: vừa là người chiến thắng, vừa là kẻ thua cuộc.
Cậu bé Mandoli: gắn với quá khứ đẹp đẽ của ông lão, gợi nhớ về thời trai trẻ của ông lão mạnh mẽ, sôi nối => là sự tiếp nối của ông lão .
Tính biểu tượng:
Ông lão Santiago: ( Sant – ông thánh -> gợi liên tưởng đến chúa Giesu :tay chân trầy xước, rướm máu, lúc thuyền lên bờ ông lão tháo cột buồm nặng nhọc vác trên vai giống biểu tượng chúa trên thánh giá): Ông lão là biểu tượng của con người phi thường chống lại định mệnh.
Con cá kiếm : tượng trưng cho những khó khăn , thử thách của con người, của tự nhiên; Nó là thành quả lao động của con người, là khát vọng lí tưởng của con người, đồng thời là biểu tượng của cái đẹp.
Đàn cá mập: tượng trưng cho những khó khăn, thử thách ngáng trở con đường vươn đến lí tưởng của con người. Nó là biểu tượng của cái xấu, cái tồi tệ, cái đáng lên án. Bọn tư sản chỉ biết cướp bóc không thành quả lao động của người lao động nghèo.
Biển: Một môi trường đầy khó khăn, thử thách. Biển là mẹ thiên nhiên kì vĩ, chứa đựng những khát vọng lớn lao của con người.
Đề bài: Ý nghĩa “Nguyên lý tảng băng trôi” qua đoạn trích” Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê.
Bài làm
Ơ-nít Hê-minh-uê là nhà văn Mĩ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây góp phần đổi mới lối viết truyện và tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới. Phong cách của ông giản dị, trong sáng và ẩn chứa nhiều triết kí sâu xa về thế giới tự nhiên, con người, chất liệu sống ấm áp kết hợp với thủ pháp độc thoại nội tâm, tình huống biến hóa căng thẳng, đa thanh, đa nghĩa mà ông gọi là nguyên lí tảng băng trôi.
Đoạn trích “Ông già và biển cả” kể chuyện ông già chinh phục con cá kiếm trên biển cả mênh mông. Câu chuyện thật đơn giản nhưng lại gợi mở nhiều tầng ý nghĩa cho người đọc. Người đọc tự suy ngẫm để rút ra hàm ý sâu sắc sau câu chữ và đồng sáng tạo với nhà văn.
Lớp nghĩa thứ nhất là một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, hẹp nhất trong đời đi câu của ông già và cuộc hành trình nhọc nhằn, dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô tình. Đó là một phần nổi của nguyên lí.
Ở lớp nghĩa thứ hai, chuyện ông già và con cá kiếm không đơn thuần là mối quan hệ giữa một ông lão đi câu với một con mồi mà qua lối độc thoại có tính đối thoại giữa ông già và con cá kiếm, người đọc có thể nhận thấy mối quan hệ lớn hơn: Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên luôn là đối thủ xứng đáng, đó là cuộc chiến không cân sức. Nhưng dù thiên nhiên có hung dữ tới đâu thì con người nhỏ bé, giày ý chí kia vẫn có thể giành để chiến thắng.
Hình tượng ông già chinh phục con cá là biểu tượng của người anh hùng trên biển cả thôi không khát vọng, ngược lại hình tượng con cá kiếm cũng là biểu tượng kì vĩ cho cái đẹp, cho sức mạnh man dại của tự nhiên. Chiếm lĩnh được nó, con người không chỉ có sức mạnh mà còn có trí khôn, lòng quả cảm mới có thể giành chiến thắng.
Ở lớp nghĩa thứ ba, tùy thuộc vào người đọc đồng sáng tạo, có thể suy rộng ra, đó cũng là thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc theo đuổi ước mơ sáng tạo, rồi trình bày trước mắt người đời, cũng gặp biết bao sóng gió, cam go như hình tượng ông già đối mặt với biển cả, biển đời. Và trên đường đời của bất cứ ai, người ta đều phải trả giá cho sự thành bại của mình. Nhưng cho dù ở bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi khát vọng.
Với lớp nghĩa thứ hai và thứ ba này chính là bảy phần chìm trong nguyên lí tảng băng trôi mà nhà văn gửi gắm đến tác phẩm. Người phương Đông gọi đó là tính hàm súc, hàm ẩn, ý tại ngôn ngoại trong văn chương.