Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
Đề bài: Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
+ Giới thiệu hình tượng những con người khổ đau, cô độc trong văn học: Xuất hiện không ít trong lịch sử văn chương Việt Nam: Chị Dậu, lão Hạc, …
+ Nhưng có thể, Chí Phèo trong một tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta ngỡ ngàng nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người
II. Thân bài
1. Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện
– Chí Phèo vốn là một người nông dân với nhiều phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính
+ Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.
+ Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.
⇒ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu
– Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:
+ Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ
+ Mong muốn được làm hòa với xã hội, mong muốn có một mái ấm gia đình với Thị Nở ⇒ ước muốn giản dị năm xưa quay trở lại với Chí Phèo
⇒ Bản chất con người Chí luôn là một người lương thiện
2. Chí Phèo là một người cô độc
– Cô độc ngay từ khi sinh ra: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
– Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm vơi hành động đã khiến người ta khó chịu: “Hắn vừa đi vừa chửi…” nhưng đằng sau tiếng chửi đó, Chí Phèo hiện lên là người cô độc
– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
+ Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
+ Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
– Khi thức tỉnh sau khi bị ốm, Chí Phèo cảm nhận và hình dung ra tuổi già của mình với ốm đau và cô độc và nhấn mạnh cô độc là điều đáng sợ hơn cả ⇒ Bản thân Chí Phèo luôn là người cô độc nên mới cô độc đến thế
3. Chí Phèo là một người nông dân phải chịu số phận với nhiều bi kịch
– Bi kịch bị tha hóa: Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau khi ra tù:
+ Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
+ Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực
– Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
+ Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
+ Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
. Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
. Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
+ Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
. Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
. Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người
⇒ Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng
III. Kết bài
– Khái quát những nét tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo
– Khẳng định dù thời gian có trôi qua, hình tượng nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên sẽ vẫn luôn sống mãi trong lòng độc giả: “Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách, vẫn ngày ngày vật lộn giữa trần ai” (Nguyễn Đức Mậu)
B/ Bài văn mẫu
Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 1
BÀI MẪU SỐ 1
Nhắc đến văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, không thể không nhắc đến “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao. Dưới ngòi bút chân thực, sắc sảo của Nam Cao, “Chí Phèo” đã trở thành tác phẩm có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Trong tác phẩm kinh điển ấy, Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật điển hình. Qua đó, gửi gắm giá trị nhân đạo và hiện thực vô cùng sâu sắc.
Hình tượng Chí Phèo được xây dựng với số phận chồng chất bi kịch. Nhưng dù bị tha hóa biến chất vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn, vẫn khát khao được sống làm người lương thiện. Cuộc đời Chí Phèo là những chuỗi dài bi kịch, khổ đau. Đó là cuộc đời của một người nông dân khốn khổ cùng cực bị, bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Bi kịch đến mức sinh ra là con người, nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.
Bi kịch ấy bắt nguồn ngay từ khi Chí Phèo xuất hiện. Không cha không mẹ, Chí Phèo sinh ra “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lươn nhìn thấy, “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”. Sau đó lưu lạc bị đem bán cho bác phó cối. Từ lúc bắt đầu sự sống, Chí đã bơ vơ, không gia đình, không người thân, không nơi nương tựa, vật lộn với cuộc sống mà trưởng thành. Gần hai mươi năm, Chí Phèo lưu lạc, “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”. Đến năm 20 tuổi thì làm canh điền cho Lí Kiến.
Là người nông dân không một tấc đất cắm dùi, sống kiếp làm thuê ở đợ. Bi kịch vẫn không buông tha cho kẻ đã đầy bất hạnh. Chỉ vì một hồi ghen tuông vô lý, Chí Phèo bị Bá Kiến đẩy vào tù. Một lần này mất trọn 8 năm. Để rồi 8 năm sau, nhà tù thực dân nhận vào một anh canh điền hiền lành, chất phác. Trả lại một tên lưu manh, một con quỷ dữ cho làng Vũ Đại.
Nhà tù tối tăm u ám ấy đã hủy hoại cả nhân hình của một con người. Chí Phèo đi “biệt tăm”, bỗng “lù lù lần về” với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Trên người chỉ độc quần nái đen, cái áo tây vàng, ngực và tay chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy… Chí Phèo từ nhà tù trở ra đã mang trên mình ngoại hình đầy dữ tợn. Không dừng lại ở đó, hành động và tính cách của Chí cũng thay đổi. Chí nồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt, Chí xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ. Đây có lẽ là thay đổi cả làng Vũ Đại không ai ngờ đến được, dữ dội và tha hóa.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo để thấy được bi kịch tha hóa của người nông dân nghèo
Những ngày sau đó, Chí Phèo vẫn vô cùng ngang ngược và dữ dội. Chí nhận ra Bá Kiến chính là kẻ đã đẩy mình đến bước đường này. Nhưng, không được bao lâu, thủ đoạn của kẻ được xưng “Bá Kiến” đã làm Chí Phèo thay đổi. Một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá khiến “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Bằng rượu, thịt và tiền, Bá Kiến cứ thế ru ngủ hận thù của Chí. Từ đó, Chí Phèo rơi vào tình trạng lạc hướng, tiếp tục rơi vào bẫy rập mà Bá Kiến đã giăng sẵn, Chí trở thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.
Bá Kiến biến Chí Phèo thành công cụ đòi nợ đáng sợ của mình. Chí Phèo lần nữa để mình trượt dài vào bi kịch, bán mình cho quỷ dữ. “Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Không còn làm ruộng chất phác, hắn đâm thuê chém mướn, đắm chìm trong những cơn say. Nhân tính trong Chí biến mất dần, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.
Cuộc đời Chí dường như cứ thế bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị biến chất. Xã hội ruồng bỏ hắn, tất cả dân làng đều sợ hắn. Họ “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Khi Chí Phèo chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, chẳng thèm nghe. Chí chửi đời, chửi người nhưng chẳng khác nào “những người say rượu hát”, không ai đáp lại, không ai lắng nghe. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Một người như thế bỗng chốc trở nên vô hình giữa làng Vũ Đại. Cả xã hội ấy dứt khoát cư tuyệt nhìn nhận Chí như một con người. Sau này, đến khi trang truyện đã khép lại, hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” vẫn là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về bi kịch của con người bị gặm nhấm trong cô đơn tuyệt vọng.
Tưởng chừng cuộc đời Chí Phèo sẽ trôi đi trong đơn độc như thế. Nhưng không, một gã rẽ đã bất ngờ xuất hiện trong cuộc sống u ám đầy men say của Chí. Đó là cuộc tương ngộ giữa “con quỷ dữ” và người đàn bà “xấu ma chê quỷ hơn” làng Vũ Đại. Chí gặp Thị Nở. Sau một đêm ăn nằm với nhau, Chí Phèo ốm. Chính khi đó, người đàn bà xấu xí ngẩn ngơ kia đã mang đến cho Chí sự ấm áp giản dị, chân thành. Thị Nở chăm sóc Chí, nấu cho hắn một bát cháo hành. Chỉ một bát cháo hành bình đạm đã khiến Chí Phèo thay đổi.
Cả cuộc đời đầy rẫy tủi hờn và bi kịch, lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc. Lần đầu tiên hắn được “một người đàn bà cho”, không phải cướp, không phải dọa. Cũng không phải rạch mặt ăn vạ. Cũng chính người đàn bà xấu xí ấy đã nhận ra bản tính lương thiện bị chôn vùi. Trong cái nhìn của Thị, Chí Phèo ăn cháo lại hiền lành như vậy. “Ôi sao mà hắn hiền…”.”hắn cười nghe thật hiền…”. Có lẽ Thị Nở là người duy nhất cảm nhận được sự hiền lành của Chí Phèo dưới nhân dạng đã bị hủy hoại của hắn.
Cũng chính sau cuộc tương ngộ với Thị Nở, tâm lý của Chí Phèo đã có bước chuyển biến bất ngờ. Linh hồn của một kẻ của một kẻ đã bán mình cho quỷ dữ thức tỉnh. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy và nghe thấy những âm thanh thuộc về cuộc sống. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá… Lòng hắn lao xao buồn “chao ôi là buồn!”.
Lương tâm của một kẻ đã từng khiến bao người tan cửa nát nhà bị lay động. Kí ức những ngày xưa trở về trong tâm trí. Hắn nhớ lại ước mơ bình dị xa xưa về “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng nhớ càng lo âu, càng buồn. Ngần ấy năm, có lẽ cũng là lần đầu tiên hắn sợ, sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Con người đã từng bất chấp làm tổn thương cả mình, vậy mà biết sợ hãi, biết lo âu. Vừa húp cháo hành vừa nhìn Thị Nở, hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa.
Đến đây, người đọc phát hiện ra, trong sâu thẳm con người Chí Phèo, bản tính lương thiện đã bị vùi lấp. Nhờ có tình yêu thương, sự thừa nhận và săn sóc của Thị Nở, bản tính ấy mới thức dậy. Đây là cái nhìn sâu sắc đầy nhân đạo của Nam Cao đối với những người nông dân nghèo khổ, lương thiện nhưng bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa.
Để rồi khi linh hồn đã thực sự thức tỉnh, Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khát khao được hòa nhập lại với cuộc sống, được “mọi người nhận lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Câu nói với Thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” không chỉ gửi gắm khát khao có một gia đình mà còn có cả khát khao được làm người, được sống là một con người bình thường. Câu trả lời của Thị Nở chính là quyết định có đồng ý cho hắn làm người hay không.
Song, bi kịch một lần nữa kéo Chí trượt dài trong đau đớn. Bởi những lời đay nghiến cay nghiệt của bà cô, Thị Nở gạt tay Chí. Hắn rơi xuống vực sâu, quằn quại trong bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn. Hắn “ngẩn người” nhìn và nghe Thị nói. “Sửng sốt” đứng lên gọi Thị, đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị gạt ra và dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”. Hắn dùng mọi cách để níu kéo Thị Nở, như níu kéo sợi dây duy nhất kết nối với cuộc sống con người. Nhưng không được.
Chí Phèo vật vã trong sự tuyệt vọng. Hắn lại lấy gạch đập đầu ăn vạ, lại uống, “càng uống càng tỉnh ra”, càng thấm thía nỗi đau giày xéo tâm hồn mình. Hắn đã dứt khoát bị cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức”. Không còn giọt nước mắt hạnh phúc ươn ướt khi được Thị Nở chăm sóc, đây là giọt nước mắt của nỗi đớn đau cùng cực. Chí Phèo đưa ra một quyết định.
Chí mang một con dao ở thắt lưng, lần thứ ba đến nhà Bá Kiến. Không rạch mặt ăn vạ, không đòi tiền, hắn đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Ở chính nơi khởi nguồn của những vết rạch sâu trên mặt mình, hắn nói: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…”. Lời nói ấy ẩn sâu những nỗi đau uất nghẹn, cũng là lời lẽ đanh thép vạch trần tội ác của tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến. Nó chất chứa nỗi bi thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí tự tay kết liễu kẻ đã làm đã hủy hoại cuộc đời mình. Đồng thời cũng tự kết liễu chính mình. Hắn không muốn làm quỷ dữ, không muốn tiếp tục cuộc sống đầy bi kịch, tội lỗi nữa. Chí Phèo đã chết trong quằn quại. Chết trong tiếng kêu uất hận, đầy xót và ám ảnh, chết trên ngưỡng cửa để trở về cuộc đời.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh từng nói “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” Chí Phèo chính là nhân vật điển hình mà Nam Cao xây dựng. Hắn là hình tượng đại diện cho những người nông dân trong xã hội đương thời, bị xã hội chèn ép đến cùng cực, trở thành kẻ lưu manh, tha hóa. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo chính là bản án đanh thép, kết tội xã hội tàn bạo đã nhẫn tâm đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm u ám. Nhẫn tâm cướp đoạt của họ cả diện mạo lẫn linh hồn.
Hình tượng Chí Phèo và truyện ngắn cùng tên đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và phong cách văn chương độc đáo, Nam Cao đã ghi dấu trong lòng người đọc những ấn tượng vô cùng khác biệt. Để đến khi trang văn khép lại, người ta vẫn nhớ mãi hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi, xót xa đầy ám ảnh.
Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 2
Trước cách mạng tháng tám, số phận của người nông dân luôn là đề tài đặc biệt được các nhà văn quan tâm khai thác. Nếu như Ngô Tất Tố phát hiện ra cái đẹp, sức sống tiềm tàng của người nông dân, Vũ Trọng Phụng chỉ nhìn thấy cái xấu xa của họ thì đến Nam Cao là một người đến sau nhưng ông đã khai thác được mặt khác của người nông dân đó là bản chất lương thiện và bi kịch bị tha hóa. Nhân vật Chí Phèo chính là bản vẽ tổng quát nhất của Nam Cao khi viết về người nông dân. Đây đồng thời cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng biết bao thế hệ bạn đọc.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng tiếng chửi của Chí Phèo, hắn chửi trời, chửi đời, chửi dân làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại, hắn lại chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo” . Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược về quá khứ, Nam Cao đã cho thấy số phận bất hạnh của Chí Phèo, đẻ ra là một đứa trẻ mồ côi, bị mẹ bỏ mặc ở lò gạch cũ, Chí may mắn được ông thả ống lươn nhìn thấy và nhặt về. Chí bị trao tay qua nhiều người, ban đầu là bà góa mù, rồi đến bác phó cối, khi bác phó cối mất, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của xóm làng. Từ nhỏ Chí đã sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương, nhưng bản thân Chí vẫn là con người lương thiện. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống mình, Chí yêu lao động và có những mơ ước thuần phác, hồn hậu: lấy vợ, sinh con, chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, để được chút vốn liếng sẽ mua ruộng để làm. Không chỉ vậy, Chí còn là người có lòng tự trọng, bóp chân cho bà ba hắn chỉ thấy nhục hơn là thấy thích. Ai có thể ngờ rằng một con người lương thiện đến vậy có thể tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo nguyên nhân trực tiếp là Bá Kiến, sự ghen tuông khiến Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân với sự tàn bạo, tra tấn dã man cả về thể xác và tinh thần đã biến Chí Phèo trở thành kẻ mất cả nhân hình và nhân tính. Ngày ở tù về Chí trông như thằng “săng đá” răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, xăm trổ toàn thân, … khiến cho ai cũng phải khiếp sợ. Người đọc vừa ngỡ ngàng, vừa đau đớn, anh Chí của ngày xưa đâu? Nhà tù thực dân có sức phá hủy nhân hình, nhân tính của con người ghê gớm đến vậy sao? Bi kịch chồng lẫn bi kịch, Chí trở về con bị chính kẻ thù của mình là Bá Kiến dụ dỗ, dùng những lời ngon ngọt làm lu mờ nhận thức của Chí. Trong cơn say triền miên, Chí chính thức trở thành tay sai cho Bá Kiến, đòi nợ, chém giết thuê. Bất cứ việc gì Bá Kiến sai Chí đều thực hiện. Có lẽ cuộc đời của Chí sẽ chấm dứt từ đây, từ giờ cho đến lúc chết Chí Phèo chỉ còn là tay sai của Bá Kiến, của xã hội thực dân.
Nam Cao khác so với những nhà văn trước đó là ở chỗ ông đã chỉ ra con đường người nông dân bị lưu manh hóa. Các tác phẩm trước mới chỉ miêu tả đời sống bí bách, túng quẫn bị đẩy đến bước đường cùng của người nông dân (Tắt đèn – Ngô Tất Tố; Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan). Còn Nam Cao đã tiến một bước xa hơn: ông khẳng định bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng vốn có của họ, đồng thời nêu lên nguyên nhân, con đường tha hóa chính là do nhà tù thực dân, bọn cường hào ác bá đã nhào nặn những người nông dân lương thiện trở thành những con quỷ dữ, bị cả xã hội xua đuổi.
Nhưng cái hay trong tác phẩm Nam Cao chính là liên tục tạo ra những khúc rẽ, những biến cố giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng rằng sẽ chìm trong bế tắc, sẽ mãi mãi không nhận ra kẻ thù của mình cho đến ngày Chí gặp thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một luồng gió mới đến với cuộc đời chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, trận cảm đã làm hắn yếu đi nhiều, đây cũng là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh. Hắn nghe những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ và hắn chợt thấy nhớ về ngày xưa, về những mơ ước rất đỗi dung dị của mình. Nhìn lại thực tại hắn chẳng có gì ngoài những vết sẹo chằng chịt trên mặt, nhận ra mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Trong dòng suy nghĩ miên man, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời chỉ có chém giết và ăn vạ chị được người ta cho bát cháo hành, chí đường người ta yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Câu hỏi ấy vang lên làm ta không khỏi nhức nhối, thương cảm cho số phận của Chí. Hắn cầm bát cháo Thị Nở cho bằng đôi mắt thật hiền, cảm động, đôi mắt hắn ươn ướt vì sự biết ơn. Cùng với năm ngày chung sống cùng thị Nở trong hắn lại trỗi dậy khao khát về một cuộc sống khác, hắn khao khát được làm hòa với mọi người biết bao. Mong mỏi được làm người lương thiện, nhân tính trong Chí đã trở về: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Năm ngày đó như ánh nắng rực rỡ làm bừng sáng quãng đời đen tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống rượu cho thật ít, để tỉnh tạo tận hưởng hạnh phúc, để được say trong men tình. Lần đầu tiên sau khi ở tù về Chí Phèo mới có lại mục đích và lí tưởng sống. Đó là những mong ước giản dị mà bất cứ ai cũng nâng niu, trân trọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi những bi kịch. Thị Nở từ người cứu vớt lại trở thành người chối tự quyền làm người và hạnh phúc của Chí Phèo, chỉ vì bà cô không cho phép lấy một kẻ chỉ có chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Bà cô chính là đại diện cho những hủ tục của xã hội đương thời, đẩy Chí đến bi kịch của sự tuyệt vọng. Chí Phèo uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng nhận ra số phận nghiệt ngã của bản thân. Chí xách dao định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà “nó”, nhưng bước chân lại hướng về nhà Bá Kiến. Chí Phèo dõng dạc đòi lương thiện, nhưng bản thân hiểu rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?” Và hắn rút dao giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của cả hai quá đỗi bất ngờ. Chí giết kẻ thù của mình, kẻ cướp đi người nông dân lương thiện, và tự giết chết thân xác của một thằng tha hóa, giữ lại cho mình phẩm chất lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là hệ quả tất yếu nhưng cũng không khỏi làm cho ta thương xót, đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường tha hóa phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Đồng thời với nhân vật Chí Phèo tác giả cũng lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến độc ác, bất nhân đẩy con đường đến bước đường cùng. Không chỉ vậy, ông còn thể hiện cái nhìn tin yêu vào bản chất lương thiện của những người nông dân.
Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 3
Nam Cao là cây bút xuất sắc viết về đề tài người nông dân trong đó “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác. Nhân vật chính cùng tên với tác phẩm là một kẻ lưu manh tha hóa nhưng sâu thẳm trong bản chất lại là người lương thiện. Chí Phèo là hình tượng nhân vật độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam hiện lên với ngoại hình, tính cách và tâm lý để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Viết về người nông dân Nam Cao thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm họ càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp tàn nhẫn, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị đày đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường và Chí Phèo chính là một trong những nhân vật tiêu biểu đại diện cho số phận người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo được tác giả Nam Cao khắc họa với ấn tượng đầu tiên mở đầu cho tác phẩm là tiếng chửi hé mở cho người đọc thấy sự bất hạnh của nhân vật. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi” Chí Phèo chửi ai? Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng trời có hề gì, đời chẳng là ai, cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”, rồi hắn chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi chết mẹ đứa nào đẻ ra hắn nhưng cũng không ai đáp lời ngoài mấy con chó. Đối tượng chửi của Chí Phèo cứ thế thu hẹp phạm vi dần. Tiếng chửi ấy cho thấy sự bế tắc và tuyệt vọng nơi Chí. Lúc say cũng là lúc tỉnh táo nhất, không phải hắn hửi trong men rượu mà chửi rất tỉnh. Bởi Chí có tỉnh mới chọn đối tượng chửi logic và thấm thía nỗi thống khổ của bản thân mình. Chí bị cô lập, bị mọi người khinh rẻ, né tránh nếu có ai chửi nhau cùng hắn thì đó còn được gọi là giao tiếp dù cho chẳng hay ho gì nhưng có còn hơn không. Tuy nhiên hiện thực nghiệt ngã và đi ngược lại với mong muốn của hắn cả dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi Chí là người, tuyệt nhiên không một ai thu nhận hắn vào xã hội chung mà coi hắn là con quỷ dữ.
Chí Phèo là thằng lưu manh tha hóa bị mất hết nhân hình và nhân tính. Về ngoại hình Nam Cao khắc họa hắn “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo hiện lên với vẻ bề ngoài đúng chất thằng đầu bò, lưu manh, côn đồ khiến cho mọi người đều xa lánh hắn. Chí không còn là anh canh điền hiền lành giờ đây nhân tính của hắn cũng đã bị biến dạng méo mó. Vừa về làng hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều, say xỉn rồi xách vỏ chai đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi lại danh dự và nhân phẩm đã bị cụ Bá tước đoạt.
Năm ấy nếu không phải Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí vào tù vì sự ghen tuông vô cớ với Chí Phèo về bà ba thì có lẽ bây giờ hắn không thành ra như vậy. Lần thứ hai hắn đến nhà cụ bá với vẻ mặt hiền lành gãi đầu gãi tai đòi đi ở tù, xin cụ cho vào tù sống nhưng thực chất là đòi miếng cơm tấc đất để mưu sinh. Đây là một nhu cầu chính đáng nhưng một lần nữa Bá Kiến lợi dụng nó để biến Chí thành tay sai, tên đòi nợ thuê cho hắn. Như vậy chế độ hà khắc của nhà tù phong kiến thực dân đã biến Chí Phèo từ một người hiền lành thành kẻ lưu manh, nay trở về để cho thế lực hắc ám như Bá Kiến hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến Chí thành con quỷ dữ sống với kiếp thú vật độc ác.
Chí kể từ đó trượt dài trên cái dốc tha hóa, chìm đắm trong men say triền miên “Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo để nhớ rằng hắn có mặt ở đời”. Hắn là con quỷ dữ ở làng Vũ Đại “phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện” Chí Phèo đích thị đã không còn là người nữa hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người ta sai bảo trong lúc hắn say. Hắn mưu sinh chỉ bằng một nghề cướp của giết người, rạch mặt ăn vạ cuộc đời của một con người nhưng lại đội lốt quỷ ác.
Chí Phèo sau bảy tám năm đi biệt bỗng hắn trở về làng sống trong những ngày tháng đen tối, sống không bằng đã chết, thân hình bị biến dạng, nhân tính bị bóp méo, linh hồn bị quỷ dữ cướp mất. Chí bị đẩy đến tận đáy cùng của xã hội, rơi vào tình cảnh bi thảm. Chắc hẳn Nam Cao cũng rất đau lòng khi buộc phải để cho nhân vật của mình chịu đựng biết bao bất hạnh, đắng cay nghiệt ngã nhưng tránh sao được hiện thực khắc nghiệt. Hoàn cảnh Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, lương thiện và cam chịu nhưng khi bị chèn ép đến đường cùng họ buộc phải vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống. Chí Phèo cũng vậy bản chất thật sự con người hắn là lương thiện. Điều đó được thể hiện trước đây hắn là anh canh điền chất phác, vốn hiền lành và có lòng tự trọng. Khi hắn bị bà ba vợ thứ ba của Bá Kiến bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa “hắn thấy nhục hơn là thích”, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Chí có nhân cách của người bình thường khi phải làm một việc không chính đáng hắn cũng biết lo sợ, biết run, biết là mình bị xúc phạm đến lòng tự trọng. Ngày xưa ấy hắn cũng đã từng có một thời mơ ước cuộc sống bình dị về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Anh Chí ngày ấy hiền như cục đất, bản tính đáng được yêu thương và trân trọng nhưng hiện thực đã đẩy anh đến đường cùng.
Con người lương thiện trong Chí thực sự trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp thị Nở cảm nhận được tình người trong bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị hắn muốn hoàn lương, muốn sống đúng nghĩa là con người. Hắn đã ngạc nhiên và cảm động biết bao trước hành động ân cần, săn sóc của thị. Lần đầu tiên giọt nước mắt tình người chảy ra, trái tim sắt đá bao năm nay được yêu thương trở lại. “Hắn thèm lương thiện hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Hắn khao khát được hòa nhập với mọi người, hắn đặt niềm tin vào thị, hắn tin thị có thể giúp mình. Nhưng bi kịch một lần nữa lại ập đến Chí Phèo sau năm ngày sống hạnh phúc với thị tưởng chừng sóng gió đã ngừng vậy mà Chí lại bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô thị Nở cũng như của toàn xã hội. Chí Phèo không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết ám ảnh với tiếng kêu đòi làm người lương thiện thống thiết trong khổ đau “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí đã thực sự thức tỉnh và hồi sinh để nhận thức giá trị bản thân. Bản chất lương thiện trong người Chí không bị mất đi mà chỉ bị khuất lấp chỉ cần có cơ hội là trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Chi tiết ấy cho thấy nét độc đáo riêng biệt: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện ra và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay khi trong họ bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Chí Phèo là nhân vật đại diện cho người nông dân Việt Nam sống trong chế độ phong kiến nửa thuộc địa tàn ác. Nhân vật Chí Phèo được khắc họa rất sinh động với lối trần thuật linh hoạt giọng điệu của tác giả và các nhân vật khác được đan xen, phối hợp với nhau, nghệ thuật điển hình hóa nhân vật được sử dụng thành công làm nên một nhân vật Chí Phèo có một không hai trong lịch sử văn học, khái quát được cả một hiện tượng trở thành quy luật xã hội: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”
Như vậy bằng tài năng của nhà văn chân chính, Nam Cao đã để lại cho nền văn học dân tộc một kiệt tác nghệ thuật và một hình tượng nhân vật độc đáo. Trang văn đã khép lại nhưng tiếng kêu thống thiết của Chí vẫn khiến cho độc giả phải suy tư, trăn trở về bản chất tốt đẹp trong con người.
Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 4
Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.
Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.
Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lưng lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.
Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn – một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.