Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Đề bài: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
…..
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
A/ Dàn ý chi tiết
A. Mở bài:
– Nói đôi nét về tác giả Tố Hữu và những sáng tác của ông.
– Nêu nhận định trong thơ Tố Hữu đậm chất dân tộc.
B. Thân bài:
Nói qua về phong cách nghệ thuật cũng như đôi nét về thơ ca của Tố Hữu.
1. Giải thích như thế nào được gọi là tính dân tộc
– Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
– Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
2. Những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ ca Tố Hữu
– Tố Hữu là người sử dụng một cách điêu luyện các thể thơ dân tộc.
+ Thể loại lục bát được tác giả sử dụng thành công và được coi là thể loại sở trường của Tố Hữu. Trong cuộc đời cầm bút của mình, Tố Hữu đã có nhiều bài lục bát xuất sắc như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú, Bài ca quê hương.
+ Tố Hữu còn sử dụng thuần thục ngoài lục bát còn có thể song thất lục bát. Bài thơ dài Ba mươi năm đời ta có Đảng làm người đọc nhớ đến những câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca.
+ Tố Hữu còn sử dụng thành công các thể thơ bảy chữ và bốn chữ như: Bác ơi! Theo chân Bác hoặc Lượm, Voi.
– Tố Hữu là người có biệt tài trong việc sử dụng những hình tượng quen thuộc trong thơ ca dân tộc.
+ Nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
+ Trong thơ Tố Hữu, ta thường gặp những hình ảnh bình dị, ấm áp tình đời:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
hoặc:
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
+ Nhiều khi, tác giả Tố Hữu như đã tạo ra được nhiều câu thơ đẹp lộng lẫy như những áng thơ cổ điển (Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du). Nếu nói hơi thở của văn học dân gian đậm nét sẽ khiến thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển thì chất bác học của thơ cổ điển đã góp phần tạo nên sự sang trọng cho những câu thơ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
– Âm điệu thơ
+ Có thể dễ dàng nhận thấy thơ Tố Hữu đầy nhạc. Đó vừa là nhạc của thơ, vừa là nhạc của cõi lòng:
Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát.
+ Thơ Tố Hữu sáng tạo trong việc ngắt nhịp để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ
+ Lại có khi, Tố Hữu tạo nhạc bằng cách gieo vần, sử dụng từ láy:
Nỗi niềm chi rứa Huế ai
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên.
+ Đọc thơ Tố Hữu, ta thường nghe giọng Huế ngọt ngào. Đây là điều mà Hoài Thanh đã nhận ra sớm nhất khi ông khẳng định thơ Tố Hữu là tiếng thơ đầy “tình thương mến”:
Huế ai, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi
C. Kết luận
– Không có một nhà văn, nhà thơ đích thực nào lại từ bỏ đi quá khứ, từ bỏ truyền thông văn hóa của dân tộc vì từ bỏ văn hóa dân tộc cũng có nghĩa là từ bỏ nguồn sữa quý báu nuôi dưỡng hồn thơ mình. Như nhà thơ Hen-rich Hai-nơ đã có lần nói rất hay rằng, nếu nhà thơ xa rời hiện thực thì anh ta sẽ “lơ lửng trên không” tựa như Thần Ang-tê bị nhấc khỏi thần Mẹ Đất. Và cũng có thể nói về số phận nhà thơ như thế nếu từ bỏ truyền thống văn học quý báu của ông cha.
– Trên con đường sáng tạo nghệ thuật thì người nghệ sĩ luôn luôn được ví von với hình ảnh con ong cần mẫn vậy. Tố Hữu cũng đã tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của dân tộc và việc tiếp thư truyền thống còn gắn liền với sự sáng tạo không mệt mỏi. Chế Lan Viên cho rằng, Tố Hữu đã khéo léo kết hợp được “cái hơi dân tộc” với “màu sắc hiện đại” để tạo nên sự kết tinh mới cho thơ ông. Và có thể nói tính dân tộc đã tạo lên một Tố Hữu thành công.
Bài văn mẫu
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc trong bài thơ Việt Bắc – mẫu 1
Đã hơn sáu mươi năm kể từ khi bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ra mắt bạn đọc. Sáu mươi năm! Dòng thời gian dài đằng đẵng đó đủ để nước chảy đá mòn, đủ để một mái tóc xanh ngả màu tiêu muối, đủ để ta lãng quên một con người, một tác phẩm văn chương. Nhưng với “Tây Tiến” thì không, thi phẩm vẫn vượt lên sự cản phá của thời gian, vượt qua “eo xèo” của dư luận để ngày càng tỏa sáng trong trái tim bạn yêu thơ Việt Nam. Đọc “Tây Tiến”, người ta cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng của người lính Tây Tiến và vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây…Tất cả những vẻ đẹp đó, hòa quyện trong nỗi nhớ “chơi vơi” của nhân vật trữ tình. Bằng ngòi bút lãng mạn, tài hoa của mình, Quang Dũng đã tái hiện nỗi nhớ ấy một cách sâu sắc và thấm thía:
” Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
……….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Đoạn trích nằm ở đầu bài thơ, thể hiện sâu sắc tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc và những người đồng đội.
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này.
Nỗi nhớ về miền đất, đoàn quân mình đã gắn bó đã được nhân vật trữ tình thể hiện ngay ở hai câu thơ đầu tiên:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Dòng sông là một tín hiệu nghệ thuật rất hay đi vào trong văn chương, biểu tượng cho sự lưu giữ những kỉ niệm khó phai. Bài thơ viết về Tây Tiến nhưng lại bắt đầu bằng hình ảnh sông Mã. Bởi đó là dòng sông chảy dọc miền đất Tây Bắc, là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Sông Mã đã trở thành một chứng nhân lịch sử, một người bạn lớn chia sẻ vui buồn và hơn thế, dòng sông ấy cũng bao lần tiễn đưa người lính về với đất mẹ yêu thương. Phải chăng, nó đã trở thành dòng sông cảm xúc chở nặng những nỗi niềm đầy vơi của lòng người? Hình ảnh sông Mã đồng hiện với Tây Tiến và đặt ở giữa là “xa rồi”, vừa có ý nghĩa với Tây Tiến, vừa có ý nghĩa với sông Mã, và vì “xa rồi” nên trong lòng nhân vật trữ tình thức dậy nỗi nhớ. Sự đồng hiện của sông Mã với Tây Tiến đã hé lộ một cấu tứ: nỗi nhớ về thiên nhiên (vùng đất Tây Bắc) luôn gắn liền với nỗi nhớ về đồng đội. Điệp từ “nhớ” đứng ở đầu mỗi vế trong câu thơ thứ hai cộng hưởng với “chơi vơi” tạo thành một kết hợp đầy ấn tượng. Nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ bâng khuâng, khó tả bởi nó diễn đạt nhiều cảm xúc cung bậc. Âm “ơi” là âm mở, mang âm hưởng vọng dài, lan tỏa. Âm “ơi” bắt đầu từ câu thứ nhất trải dài xuống câu thứ hai như tiếng gọi vọng ra từ những vách đá của núi rừng Tây Bắc, vọng ra từ cõi nhớ ngàn trùng của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ vừa trải khắp bao la rừng núi vừa cuộn xoáy trong lòng người. Câu thơ đọc lên thấy nhẹ tênh mà bồng bềnh, vương vấn, lan tỏa theo thời gian, không gian như muốn nhấc bổng nhân vật trữ tình ra khỏi thực tại, lơ lửng trong nỗi nhớ thường trực, da diết khôn cùng. Nỗi nhớ ấy, tiếp tục được đánh thức qua những địa danh thân thiết: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông. Đó không phải là những tên gọi vô hồn mà gắn bó với tác giả. Nó gợi ra sự hoang vu, xa vắng của vùng đất Tây Bắc-nơi những người lính Tây Tiến đi trong sương, chìm lấp trong sương. Nỗi nhớ còn dựng kỷ niệm thành bức tranh Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ để tôn lên bức chân dung người lính Tây Tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao,ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Cái hùng vĩ của cảnh vật được tô đậm thêm ở những hình ảnh miêu tả đầy ấn tượng. Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” đã sử dụng những vần trắc liền nhau như đoạn đường gồ ghề, lên dốc xuống đèo trên đường hành quân của người chiến sĩ. Đường hành quân vất vả như đường lên đến tận trời, khiến cho thiên nhiên cùng với con người tạo ra một hình ảnh thật thú vị “súng ngửi trời”. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh tinh nghịch theo kiểu lính, vừa giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội làm họ không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức. Lúc này đây, thiên nhiên không còn là đối tượng để ngắm nhìn nữa mà là đối thủ “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”.
Bốn câu thơ là sự kết hợp tuyệt vời giữa vần điệu với nội dung. Sự thay đổi bằng-trắc linh hoạt như những chặng đường hành quân lên thác xuống ghềnh đầy gian khổ. Ở đó, sau những vất vả, có lúc tâm hồn con người được hòa vào những khoảnh khắc thật đẹp “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng từ trên núi cao nhìn xuống, giữa khoảng mênh mông bao la, khi cơn mưa xa khơi làm cho mọi thứ hiện ra vừa hư vừa thực thì “nhà ai” gieo vào lòng người chiến sĩ có lẽ không phải nỗi băn khoăn mà là một lời tán thưởng cho những gì đang diễn ra trước mắt. “Thi trung hữu họa”, bức tranh thiên nhiên được nhìn từ nhiều góc độ và mỗi góc nhìn là một ấn tượng vẻ đẹp khác nhau. Hành trình theo nỗi nhớ của nhà thơ, dường như người đọc cũng đang tham gia vào những vất vả của con người trong ký ức, vui với niềm vui mà họ có được.
Bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ thể hiện sự hi sinh bi tráng của người lính trên chặng đường hành quân đầy chông gai, khó khăn nguy hiểm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. Cách nói giảm, nói tránh về cái chết, vừa xót xa vừa ngạo nghễ, cứ như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Để tăng thêm sự bi tráng cho sự hi sinh, Quang Dũng đã điểm tô vào bức tranh thiên nhiên với âm thanh ghê rợn. Tất nhiên là đằng sau đó có hiểm nguy, có đe dọa đến tính mạng nhưng dưới cái nhìn của những chàng trai gan dạ không kém phần tinh nghịch thì chỉ là “gầm thét”, “trêu người” mà thôi.
Không chỉ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc, cuộc sống của người dân nơi đây cũng xuất hiện với một vài hình ảnh chấm phá, thoáng qua nhưng gợi rất nhiều. Sau âm thanh ghê rợn của “thác” và “cọp” thì đột ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp về nghĩa tình dân quân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chi tiết “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi” là hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi ra cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc. “Mai Châu” đứng đầu dòng thơ thanh nhẹ như ủ sẵn trong đó một mùi hương gợi ra miền đất lành. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình không chỉ dừng lại ở thiên nhiên thơ mộng hùng vĩ, ở người lính Tây Tiến lạc quan giữa núi rừng khắc nghiệt mà còn ở sự gắn bó ấm áp với con người Tây Bắc.
Lính Tây Tiến nay đã “xa rồi” nhưng có bao giờ quên được “Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” ấy? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca. “Mùa em” có phải chăng là để nói đến mùa thiếu nữ với vẻ đẹp e ấp, duyên dáng đã để lại trong lòng người lính trẻ bao niềm thương nỗi nhớ. Có lẽ vì vậy mà điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp, tươi vui. Mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi, thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.
Đoạn thơ đã để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật như sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị.
Nỗi nhớ là hạt nhân xuyên suốt trong cảm xúc để nhân vật trữ tình hồi tưởng lại kỉ niệm với binh đoàn Tây Tiến, những kỉ niệm như những đợt sóng từ quá khứ ào ạt tràn về dâng đầy tâm tưởng. Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện một cách rung động nỗi nhớ của tác giả về miền Tây Bắc và những người đồng đội trong kháng chiến chống Pháp.
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc trong bài thơ Việt Bắc – mẫu 2
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: ” Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy “chơi vơi” kết hợp với hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả không gian ” Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Câu thơ có bảy từ thì có hai từ “nhớ”. Điệp từ “nhớ” như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là ” Nhớ Tây Tiến”. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả trở thành kỷ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với “Tây Tiến” người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ “chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “Mai Châu”. Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày “lấp” cả đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ “mỏi” như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong ” sương lấp” thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói “hoa nở” mà “hoa về” không nói sương mà là “đêm hơi” như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành ‘xa khơi”. Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng nhớ đến âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh “súng ngửi trời” tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ “không bước nữa” để rồi “bỏ quên đời” như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ , có những lúc đồng đội hy sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi”là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm “nếp xôi” hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến . Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi trán. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ “Tây Tiến” dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc trong bài thơ Việt Bắc – mẫu 3
Ai đã từng là người lính, ai đã từng đi qua một thời trận mạc trong lòng thường lưu giữ những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm ấy thao thức và sống dậy mỗi khi nhắc nhớ. Quang Dũng cũng vậy. Những năm tháng gắn bó với binh đoàn Tây Tiến anh hùng của người lính – nhà thơ này đã thôi thúc ông viết Tây Tiến – một bài thơ với những vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực khốc liệt. Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…
..,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, đê thành nỗi nhớ và tiếc nữa. Những tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc.Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.”. Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kỳ vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật chơi vơi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi… Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài cái tình ấy trong câu thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!”.
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như một chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh đoàn quân mỏi giữa Sài Khao sương lấp – rất ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, đêm hơi… khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:
Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận.
Còn với Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Ta cũng thấy hiển hiện một lộ trình đầy gian lao, đầy bất ngờ, khi Quang Dũng viết: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh “Heo hút cồn mây, súng ngửi trời“ thì câu thơ không phải chỉ diễn tả bước gian lao trên đường hành quân đánh giặc mà ta còn thấy cả chất của lính, tính của lính qua sự liên tường bất ngờ mà thú vị: súng ngửi trời.
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, thế mà hình ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như tạo nên thế cân bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi’. Bên cái hiểm trờ dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt đã thành rất đỗi tài hoa trong bút pháp thể hiện:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến gian lao mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.