Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây
A. Soạn bài Bàn về phép học (ngắn nhất)
Câu 1 :
Mục đích chân chính của việc học: Học để làm người ⇒ để thành người tốt, vì sự thịnh trị của đất nước chứ không vì cầu danh lợi.
Câu 2 :
Phê phán những lối học lệch lạc, sai trái:
– Lối học chuộng hình thức, cầu danh lợi.
– Tác hại: Chúa tầm thường, thần nịnh hót
⇒ nước mất, nhà tan.
Câu 3 :
– Thực hiện chính sách khuyến học: mở thêm trường, mở rộng thành phần người học; tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học.
– Việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng. Tuần tự tiến từ thấp lên cao. Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Học phải kết hợp với hành. Học không chỉ để biết mà còn để làm.
Câu 4 :
Nói về phép học, Nguyễn Thiếp cho rằng học phải theo trình tự trước – sau, thấp – cao: “Lúc đầu học Tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên…”. Nghĩa là người học phải bắt đầu từ những kiến thức có sở, nền tảng. Học rộng là cần thiết song cần phải biết suy nghĩ để thâu tóm những cái tinh tuý, cốt lõi nhất. Đặc biệt, học phải đi đôi với hành, kiến thức trong sách vở phải được thể nghiệm vận dụng vào thực tiễn đời sống: “Theo điều học mà làm”. Có như thế thì người học mới có khả năng lập công trạng thể hiện điều học được thành hành động, giúp cho đất nước “vững yên”, “thịnh trị”.
Ở thời đại nào cũng cần đến sự học chân chính. Đây là phương cách căn bản để phát triển, tiến bộ. Điều Nguyễn Thiếp nói đúng cho mọi thời đại.
Câu 5 :
Củng cố bài học bằng sơ đồ lập luận của đoạn văn:
Luyện tập
Phân tích sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”
Gợi ý
– Học là quá trình tiếp nhận kiến thức và lý thuyết, lý luận.
– Hành là quá trình vận dụng lý thuyết học được vào thực tiễn đời sống và lao động.
– Phương pháp “học đi đôi với hành” chính là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhận thức và hành động của con người vào thực tiễn.
– Nếu chỉ học mà không thực hành sẽ sa vào lý thuyết suông, không thể nắm bắt được ý nghĩa sâu sắc với thực tiễn.
– Học đi đôi với hành thực sự cần thiết và hữu dụng với tất cả mọi người. Giúp ta xác định mục đích học tập đúng đắn và đạt được hiệu quả cao trong công việc.
B. Tác giả
– Nguyễn Thiếp (1723 – 1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
– Quê quán: làng Mật Thôn, xã Ao Nguyệt, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học.
+ Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị.
+ Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn…
C. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã đang lên vua bản tấu này.
– Xuất xứ: Phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung.
– Thể loại: Tấu
+ Là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị.
+ Về hình thức, tấu có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, văn biền ngẫu.
– Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
– Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (Từ đầu đến …điều tệ hại ấy): Mục đích của việc học.
+ Phần 2 (Tiếp đến …xin chớ bỏ qua): Bàn luận về cách học.
+ Phần 3 (Còn lại): Tác dụng của việc học.
– Giá trị nội dung: Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học đặc biệt học phải đi đôi với hành.
– Giá trị nghệ thuật:
+ Bài tấu có cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng.
+ Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục.