Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
– Kim Lân là nhà văn chuyên viết về cuộc sống nông thôn.
– Làng là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm thể hiện tình cảm yêu làng, yêu nước sâu đậm của nhân vật ông Hai, một lão nông hiền lành, chắc phác.
2. Thân bài:
a. Tình yêu làng chợ Dầu tha thiết của nhân vật ông Hai:
* Ông Hai rất tự hào và kiêu hãnh về làng chợ Dầu.
– Tự hào bởi làng ông là làng kháng chiến. Kiêu hãnh vì làng ông to, đẹp, khang trang.
– Dù đã rời làng nhưng ông Hai dường như vẫn:
+ Nghĩ về làng của mình, ông lại nghĩ về những buổi làm việc cùng anh em.
+ Lo lắng và lúc nào cũng nhớ đến làng:“Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá ”.
+ Ở nơi tản cư, ngày nào ông cũng trong ngóng tin tức của làng.
* Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu đi theo giặc:
– Lúc đầu, ông Hai thất kinh, dường như cũng không tin nên hỏi lại. Khi nghe thật rõ thì cổ họng ông nghẹn ứ, giọng lạc hẳn đi. Cảm thấy quá xấu hổ nên đã chép miệng, và đánh trống lảng đi “Hà, nắng gớm, về nào…” thế rồi ông cứ rồi cúi mặt mà đi.
– Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt giàn giụa. Người đọc như nhận thấy được cũng chính tối hôm đó thì trằn trọc mà không sao ngủ được khi biết làng chợ Dầu theo Tây.
– Nhìn dám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi nước mắt cứ chan chứa, thương chúng nó sớm phải mang tiếng là con làng Việt gian.
– Ông Hai khi đã điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông dường như càng lại không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.
– Ông lo lắng, không biết sẽ đi đâu bởi giờ ai cũng khinh bỉ và không muốn chấp chứa chấp Việt gian.
– Mấy ngày chỉ biết luẩn luẩn trong nhà không dám đi đâu. Hễ ai nhắc đến làng chợ Dầu hay từ Việt gian là tim ông giật thót.
– Trong ông, xảy ra cuộc đấu tranh nội tâm kịch liệt, trái tim và lí trí dằn vặt ghê gớm.
* Tâm trạng ông Hai sau khi nghe tin làng được cải chính.
– Mặt ông Hai lúc này đây lại như cứ vui tươi, rạng rỡ hẳn lên.
– Thế rồi khi về nhà, ông hò hởi chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy khắp xóm để loan tin.
– Ông Hai qua nhà bác Thứ và kể chuyện làng của mình.
b. Tình yêu nước sâu đậm trong nhân vật ông Hai.
– Người đọc như cũng nhận thấy được chính tình yêu làng là cơ sở cho tình yêu nước.
– Các chi tiết trong truyện đã nêu chứng tỏ tình yêu làng, yêu nước của nhân vật:
+ Ở nơi tản cư, ngày nào ông cũng đến phòng thông tin nghe ngóng tình hình đất nước. Khoái chí khi biết thành tích chiến đấu và diệt giặc của nhân dân khắp mọi miền tổ quốc
+ Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, ông vô cùng đau đớn. Trong ông xảy ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt. Cuối cùng, dù rất yêu làng nhưng ông quyết đứng về phía đất nước, ủng hộ cách mạng, ủng hộ cụ Hồ.
+ Khi tin làng theo giặc được cái chính thì “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”, vui mừng, sung sướng tột cùng.
+ Làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt, ông vẫn vui, vẫn khoe một cách phấn khởi. Đó vừa là bằng chứng minh oan cho làng ông, vừa là thành tích chống giặc của người làng chợ Dầu mà ông muốn mọi người biết.
– Lúc này đây thì ông và con ông đều ủng hộ cụ Hồ Chí Minh, một lòng đi theo cách mạng.
3. Kết bài
– Nhân vật ông Hai là biểu tượng cho tinh thần yêu quê hương, yêu đất nước.
– Ông có một tình yêu quê hương và đất nước sâu sắc, biểu hiện cho tinh thần của dân tộc Việt Nam.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 1
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều…”
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Từ rất lâu, “quê hương” đã trở thành tiếng gọi thân thương. Đó là đề tài lớn, vượt cả không gian lẫn thời gian để đến với bao triệu tâm hồn yêu văn chương. Quê hương ấp ủ những hình ảnh gắn liền với tuổi thơ đầy ước vọng: là cánh diều no gió vươn cao, là biển lúa vàng óng ánh, là mái đình rêu phong, là hồ sen thơm ngát buổi trưa hè. Khi viết về tình yêu làng xóm, quê hương, nền văn học đương đại cũng không thể nào không nhắc đến Kim Lân – một nhà văn trọn đời gắn tâm hồn chân tình và mộc mạc của mình với làng quê. Tâm hồn ấy được thể hiện sâu sắc qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của tác giả.Kim Lân có một vốn sống cũng như trải nghiệm chân thật đối với nếp sinh hoạt vùng nông thôn, xứng đáng là một cây bút độc đáo về đề tài làng quê Việt Nam. Từng trang viết của nhà văn như được sinh ra từ đồng ruộng đều cay xè mùi khói bếp, thơm thơm mùi lúa chín, ngai ngái cái nghèo đó của mùi rơm rạ hay bảng lảng những cánh cò chao nhịp trên đồng ruộng mênh mông. Điểm đặc biệt là ở các tác phẩm của ông đều kết thúc hướng về ánh sáng của Cách mạng nên không tăm tối như những nhà văn hiện thực đương thời.Làng là một tác phẩm ra đời trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người nông dân. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là ông Hai – một người rất tự hào và yêu mến làng Chợ Dầu của mình. Do chiến tranh nên gia đình ông phải tản cư nhưng ông luôn mong ngóng tin tức về làng. Hình ảnh ông Hai đau khổ khi nghe tin làng theo giặc được miêu tả rất độc đáo. Cuối truyện, ông Hai vui mừng khi nghe tin cải chính rằng làng mình không theo giặc dù cho nhà ông bị đốt trong đám cháy ấy. Ở nhân vật này, ông Hai thể hiện nhận thức của mình, hơn cả là nhận thức chung của giai cấp nông dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ tình yêu làng da diết, nhân vật đã nâng lên thành tinh thần yêu nước mạnh mẽ, hi sinh tài sản riêng để giữ vững lòng trung với Tổ Quốc.
Đến với Làng, người đọc nhận thấy trước hết, ông Hai đã cho thấy tình yêu làng da diết qua hành động khoe làng của mình. Trước Cách mạng tháng Tám, khi nhắc đến làng là ông Hai tự hào về cái “sinh phần” của viên tổng đốc làng ông, nó nguy nga, đồ sộ. Không những thế, ông còn khoe và hãnh diện với mọi người về: “con đường làng trải toàn là đá xanh. Trời mưa, trời gió bão, bùn đi không dính gót. Trong làng, nhà ngói san sát như trên tỉnh”. Sau cách mạng tháng Tám, khi khoe làng, ông còn nhắc đến những ngày cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Điều đó cho thấy rõ ràng trong ông Hai đã có sự thay đổi về nhận thức. Trước đây ông chỉ chú ý đến cái hào nhoáng, bóng bẩy bên ngoài thì giờ đây ông trân trọng những kỉ niệm khi cùng mọi người xây dựng cho làng. Từ hình ảnh khoe làng giàu và đẹp, ông đã thay đổi nhận thức của mình. Làng vẫn giàu và đẹp đó nhưng giờ đây làng rất yêu nước, rất “tinh thần”.Ngoài ra, tình yêu ấy còn thể hiện khi gia đình ông xa làng đi tản cư. Ông nhớ: “Ôi nhớ làng, nhớ cái làng quá”. Điều đó không lạ bởi “làng” là nơi thân thương gắn bó, là nơi chôn nhau cắt rốn gắn với những kỉ niệm sâu sắc của người nông dân. Sự gắn bó ấy làm sống dậy tâm hồn của những sự vật tưởng gần như vô tri vô giác.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Điều khiến người đọc trân trọng và cảm phục đó chính là lòng yêu nước nồng nàn. Mặc dù rất muốn cùng anh em ở lại giữ ngôi làng thân thuộc nhưng vì chính sách của cụ Hồ, ông Hai đành phải làm theo và tự nhủ “tản cư cũng là kháng chiến”. Có thể thấy, ông Hai và những người có suy nghĩ như ông đều tin rằng bản thân mình tuân theo điều lệnh cũng chỉ để phục vụ cho việc kháng chiến diễn ra suôn sẻ. Ấy là một cách nghĩ đơn giản nhưng có lí, có tình. Ở nơi xa quê hương, hình ảnh một ông lão đứng ngóng chờ nghe tin tức kháng chiến thật dễ mến. Mỗi khi có tin báo thắng lợi từ đài phát thanh “ruột gan ông như múa cả lên”, lúc ấy, ông Hai rất vui và hòa cùng tiếng reo với mọi người. Tình yêu làng của ông Hai cũng là tình yêu của biết bao nhiêu con người Việt Nam trong kháng chiến. Chính tình yêu ấy là động lực thôi thúc họ giữ đất, giữ làng, giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc.Tình yêu làng của nhân vật được nhà văn đặt trong tình cảnh éo le đó là khi ông hay tin làng Chợ Dầu “Việt gian theo Tây”. Nghe tin sét đánh ấy, ông Hai bàng hoàng: “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân … giọng lạc hẳn đi”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Cái tin ấy được những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Sự đau đớn thể hiện rõ qua nét mặt, cử chỉ, giọng nói của ông lão. Không đau đớn và bàng hoàng sao được vì sâu thẳm trong con tim ông làng Chợ Dầu là làng anh hùng, làng của kháng chiến và cách mạng. Thế mà giờ đây, tất cả niềm tin, hi vọng, niềm tự hào đã hoàn toàn sụp đổ trong ông. Vì vậy mà trên đường về nhà “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông xấu hổ không dám nhìn ai, ông tự vấn lương tâm của chính mình. Còn gì chua chát, đau đớn hơn khi giọng nói của người đàn bà cho con bú vẳng vọng theo: “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn tha. Còn cái giống Việt gian bán nước chỉ cho mỗi đứa một nhát.” Tình yêu làng bị sụp đổ, tình cảm của ông bị tổn thương. Và chỉ có tình yêu sâu nặng với quê hương của mình, con người ta mới thấy nỗi đau đớn ấy mà ông Hai là một ví dụ điển hình. Còn gì đớn đau hơn khi lòng tự tôn của mình lại bị một sự thật bẽ bàng làm cho sụp đổ. Còn gì đớn đau bằng cái nỗi đau về nơi mình luôn tự hào lại là nơi mình phải hổ thẹn?
Sự uất ức đến căm giận theo đuổi ông mãi khi về tận nhà. Lúc ấy, nước mắt ông lão giàn ra, ông rít lên những tiếng kêu đau đớn, nhục nhã. Đồng cảm với nhân vật ấy, người đọc như cảm nhận sự đau đớn, hổ thẹn và uất ức theo từng cử chỉ, từng hành động của ông. Có lẽ đây là đoạn miêu tả nội tâm độc đáo nhất, thành công nhất của nhà văn. “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng xé trong đầu ông Hai. Nếu không yêu làng đến thế thì ông không đau đớn, tủi nhục đến vậy. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ vực giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Tác giả đã để cho nhân vật trải qua từng cung bậc tâm lí, đẩy lên cao trào rồi bật ngược như vỡ òa ở phần sau. Ngẫm kĩ, ta thấy đối với người nông dân chất phác, tay lấm chân bùn thì cái tin làng theo giặc quả thật là cú sốc to lớn, là điều đau đớn và nặng nề mà họ phải chịu đựng.Từ đau đớn, nhục nhã, tâm trạng ông Hai chuyển sang lo lắng, sợ hãi: “Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng … Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.”. Nỗi ám ảnh, day dứt nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông cảm thấy như mình mang nỗi nhục của tên bán nước Việt gian theo Tây. Từ chỗ một con người sống cởi mở, niềm nở, ông trở thành người khép nép, lo lắng.
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Ông đau khổ không phải vì bị đuổi đi mà đau khổ vì lí do bị đuổi. Có lúc ông lại nghĩ đến việc về lại làng nhưng lại nghĩ: “Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.”, là cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin về Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Đó là cả một nhận thức lớn trong tâm hồn của người nông dân. Với một người chỉ qua lớp bình dân học vụ, chỉ biết vài con chữ nhưng mỗi sáng vẫn đọc to từng chữ trên báo, vẫn hòa cùng mọi người bàn tán về tình hình, ta thấy tinh thần ấy thật đáng quý.Thật khó để ông đi đến lựa chọn: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy thể hiện tấm lòng son sắc của ông dành cho quê hương, đất nước, qua đó ông đưa ra quyết định, thà không quay về làng cho thấy sự kiên quyết trong cách nghĩ, cách sống của ông Hai. Niềm mơ ước lớn lao nhất của ông chính là được quay về làng thăm lại anh em, đồng chí. Vậy mà giờ đây, ông không những buộc phải bỏ làng mà còn thù làng. Chắc chắn, để đi đến quyết định này, nhân vật cũng khổ tâm và đau đớn hơn cả. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn. Người nông dân trong văn của Kim Lân là như thế, yêu ghét rõ ràng, rạch ròi.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Ông Hai trò chuyện với đứa con út (thằng cu Húc), giúp ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu (nhà ta ở làng Chợ Dầu), bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ (chết thì chết có bao giờ dám đơn sai). Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng. Đau khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.Cuối truyện, gương mặt buồn thiu ngày nào bỗng vui mừng, rạng rỡ hẳn lên. Lúc ông Hai nghe tin cải chính làng không theo giặc, đi đến đâu ông cũng bô bô: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Toàn là sai sự mục đích cả. Láo. Láo hết”. Hành động thì “múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”. Thật ngạc nhiên khi nhà cửa ông bị đốt, khi ngôi làng thân thương của ông bị đốt, ông lại tỏ vẻ vui mừng, đi khoe với mọi người sự mất mát ấy. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Phải chăng, niềm hạnh phúc to lớn hơn đằng sau ấy là một tấm lòng yêu nước trong sạch, kiên định theo chính sách của cụ Hồ?
Ông lấy làm vui mừng trước sự mất mát ấy vì cớ gì? Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng Chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Đối với những nông dân thật thà, chất phác thì họ thà hi sinh những ruộng nương, nhà cửa chứ nhất định không chịu làm nô lệ, không chịu cảnh mất nước.Nhà thơ Anh Byron đã từng viết: “Kẻ nào không yêu quê hương, đất nước thì họ chẳng có thể yêu gì cả”. Tinh thần yêu nước của ông Hai đã bừng sáng cao hơn cả tình yêu ngôi làng thân thương của mình. Sự nâng cao tình cảm ấy là nét đáng quý trong tâm hồn của nhân vật – một con người yêu nước, yêu làng.Tác phẩm khép lại nhưng tinh thần, vẻ đẹp của nhân vật ông Hai, của người nông dân thì để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên. Ông đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu đất nước và gắn bó với kháng chiến. Bởi vậy mà truyện ngắn “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.Nhà văn Kim Lân đã thật khéo léo xây dựng hình tượng nhân vật, một lão nông dân nghèo khổ nhưng tình cảm mà ông dành cho làng, cho nước thì vô cùng sâu đậm, nồng nàn. Ông Hai là biểu tượng cho người nông dân trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp kiên định và một lòng yêu nước tha thiết. Sự thành công của truyện có lẽ do sự am hiểu gần gũi giữa nhà văn và đời sống nông thôn Việt Nam. Đi từ cách nghĩ đến hành động, những màn đánh vào tâm lí người đọc qua những lời lẽ của nhân vật làm cho tác phẩm dễ hiểu và dễ đồng cảm nơi độc giả. Khi đọc Làng, ít nhiều sẽ có người tin rằng đó phải là một nhân vật ông Hai đời thường bước vào trang văn của Kim Lân không phải là truyện ở dạng hư cấu. Nét tạo hình và miêu tả tâm lí được xây dựng một cách đặc sắc. Tác giả để nhân vật yêu làng, làm bước đòn bẩy để bật lên tinh thần yêu nước mạnh mẽ, nồng nàn. Nghệ thuật đòn bẩy đã được cài sẵn khéo léo cộng với cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giọng văn giản dị đã tạo nên nét nghệ thuật hấp dẫn cho tác phẩm.
Tóm lại, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, kết hợp vài yếu tố bất ngờ, nhà văn Kim Lân đã kể một cách trọn vẹn câu chuyện về tình hình làng quê và tâm hồn nông dân Việt Nam trong thời buổi kháng chiến đầy khó khăn. Qua tác phẩm Làng nói chung và nhân vật ông Hai nói riêng, ta thấy tình yêu làng thống nhất cùng với tình yêu quê hương đất nước. Đồng thời, ngay cả bản thân tác phẩm còn gửi đến người đọc một thông điệp sâu sắc về lẽ sống cao đẹp, một lẽ sống mà ngay khi con người còn tồn tại trên thế gian này, hãy biết yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên, hãy biết trân trọng và luôn tin tưởng về một tương lai tươi sáng…
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 2
Kim Lân là một tác giả với rất nhiều tác phẩm viết về người nông dân và nông thôn Việt Nam. “Làng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong phong cách văn của ông. Truyện được sáng tác vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới nổ ra được một thời gian ngắn. Truyện viết về tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân Việt Nam đi tản cư trong những ngày đầu kháng chiến. Nhân vật chính của truyện là ông Hai: trong ông Hai có hai thứ tình cảm là tình yêu và tình yêu nước hòa quyện với nhau.
Truyện lấy bối cảnh là những ngày hào hứng, sôi nổi, khẩn chương kháng chiến của nhân dân ta. Ông Hai là một người ở làng Chợ Dầu, có tình yêu làng sâu sắc, đặc biệt. Tác giả đã đặt ông vào hoàn cảnh phải rời làng đi tản cư, theo lệnh của cụ Hồ. Mặc dù rời xa làng nhưng không phải bỏ tất cả ở lại. Ông mang theo tình yêu làng đến nơi tản cư, ông hào hứng khoe về làng của mình cho mọi người ở đó nghe. Đặc biệt thông qua tình huống: ở nơi tản cư ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc. Từ tình huống đó, tác giả diễn tả tình yêu làng, yêu nước của ông Hai nói riêng, của người dân nói chúng trong những ngày đầu kháng chiến.Giống như tất cả những người nông dân khác, ông Hai là một người yêu làng. Tình yêu làng ở ông Hai vừa rất chung rất tiêu biểu cho nét tâm lý của người dân quê, lại vừa rất riêng, rất độc đáo. Ông Hai yêu làng mình bằng một tình cảm đặc biệt gần như là máu thịt. Với ông cái làng Chợ Dầu không đâu bằng, ông khoe tất cả những gì của làng Chợ Dầu: đường làng lát toàn đá xanh, nhà mái ngói san sát… Sau Cách mạng Tháng Tám, tình yêu làng của ông có sự chuyển biến rõ rệt. Trước kia ông hãnh diện về làng ông giàu có to đẹp, sau cách mạng ông tự hào về những cái khác: phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những ngày đào đường đắp ụ… Tự hào luôn cả cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi và cái chòi phát thanh. Trong mắt ông Hai cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Có thấy được tình yêu làng đã biến thành một niềm say mê của ông Hai thì mới hiểu được tâm trạng của ông trong hoàn cảnh phải rời làng đi tản cư. Ông luôn khổ tâm day dứt nhớ làng, nhớ anh em đồng chí ở lại và khao khát muốn được quay trở về làng để kháng chiến. Xa làng, ông Hai lúc nào cũng trông ngóng tin tức, dõi theo diễn biến ở làng Chợ Dầu. Quả thật số phận và cuộc đời ông Hai đã thực sự gắn bó với những buồn vui của làng.
Chính Cách mạng và cuộc kháng chiến chống Pháp đã khơi dậy ở ông Hai và những người nông dân tình cảm yêu nước hoà nhập thống nhất với tình yêu làng quê thành một thứ tình cảm cao cả rộng lớn nhất. Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng Chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư đi qua làng ông. Tin dữ đến với ông Hai trong những phút giây ông vô cùng sảng khoái, sung sướng vì nghe được nhiều tin kháng chiến của quân và dân ta khắp mọi nơi dội về. Nghe được tin làng Chợ Dầu Việt gian theo giặc ông Hai bàng hoàng đến sững sờ: “Cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không đến thở được. Một lúc lâu ông lão mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. Nhưng những người tản cư đã kể quá rành rọt lại khẳng định họ vừa ở dưới lên làm ông Hai không thể không tin. Ông cảm thấy đau đớn nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình đã theo giặc làm Việt gian. Bao nhiêu điều tự hào trước đây giờ sụp đổ. Từ lúc ấy trong tâm trí ông cái tin dữ ấy xâm chiếm. Lúc nào ông cũng luôn nơm nớp lo sợ tưởng người ta bàn tán chuyện ấy. Ám ảnh nặng nề trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên trong lòng ông với đau đớn tủi nhục vì lành trở thành đối địch. Ra đường nghe tiếng chửi bọn Việt gian, “ông cúi gầm mặt mà đi”. Về nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”. Tình yêu làng và tình yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm căng thẳng ở ông Hai. Ông dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi mụn chủ nhà đến đuổi gia đình ông đi vì không muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian, ông rơi vào bế tắc tuyệt vọng không biết đi đâu nhưng quyết không về làng vì ông nghĩ: “về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Mâu thuẫn và tình thế của nhân vật đòi hỏi phải được giải quyết và ông Hai đã lựa chọn hướng giải quyết theo cách của ông. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn tình yêu làng quê. Dù xác định như vậy nhưng ông Hai vẫn không dứt bỏ được tình cảm đối với làng Chợ Dầu nên càng day dứt. Phải am hiểu sâu sắc tâm lý của người nông dân Kim Lân mới diễn tả được đúng tâm trạng của ông Hai như vậy.
Đoạn truyện bộc lộ một cách cảm động tâm trạng của ông Hai là đoạn ông trò chuyện với người con út. Trong tâm trạng dồn nén vì bế tắc, ông chỉ còn biết trút bỏ nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con còn ngây thơ: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu. Ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Những lời tâm sự ấy thực chất là những lời ông tự nhủ với chính mình, khẳng định tình yêu sâu lặng với làng. Đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung, trung thành với cách mạng và biểu tượng là cụ Hồ. Tình cảm ấy rất sâu lắng, bền vững, thiêng liêng: “Chết thì chết chứ bao giờ dám đơn sai”. Lòng yêu nước của ông Hai được biểu hiện rõ hơn khi nghe tin cải chính là làng bị giặc tàn phá vì không theo Tây. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến, thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết. Ông reo lên: “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông ạ. Đốt nhẵn”. Đây quả là niềm vui kỳ lạ. Niềm vui mừng này thể hiện một cách đau xót và cảm động tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những người nông dân và nhân dân ta thời bấy giờ, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước và trên hết là Tổ Quốc, vì Tổ Quốc họ sẵn sàng hi sinh cả tính mạng và tài sản của mình.
Truyện ngắn “Làng” đã rất thành công khi miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai từ một tình huống có tính bất ngờ, căng thẳng, thử thách. Nội tâm nhân vật được miêu tả cụ thể gợi cảm và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh day dứt. Ngôi kể mang đậm sắc thái nông thôn, góp phần khắc hoạ tính cách điển hình của nhân vật. Có được thành công này vì Kim Lân Không chỉ là một cây bút truyện ngắn vững vàng, đặc sắc mà còn rất am hiểu gắn bó với người nông dân ở nông thôn Việt Nam. Từ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai, nhà văn ca ngợi tình cảm yêu làng yêu nước bền chặt sâu sắc trong ngày đầu kháng chiến. Nhân vật ông Hai trở thành nhân vật điển hình của người nông dân Việt Nam.Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Qua việc xây dựng nhân vật ông Hai, nhà văn đã giúp ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha cao cả.
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 3
Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” được sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhân vật chính là ông Hai, một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu. Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi ” nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: “cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”. Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ dàn ra “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi…
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn… Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ …
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 4
Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.” – dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.
Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn tù chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá xanh… Sau cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ… Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diết đến vậy.Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thắng?” Câu nói ấy cho thấy ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi ” cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàng, sững sờ đến tê dại cả người, và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xot, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau đớn nhất lúc này chính là ông không thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tội nghiệp, ông dã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thể hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố độc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai- một lão nông chân quê.
Nỗi đau đớn dường như đã chuyển thành nỗi sợ hãi. Tâm trí ông như bị ám ảnh khiến ông cả ngày chỉ dám quanh quẩn trong nhà, ông trở nên nhạy cảm với những gì mà ông cho rằng có liên quan đến cái tin dữ kia: “cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà nín thít”. Lúc bị mụ chủ nhà đuổi, tâm can ông giằng xé với ý nghĩ: “hay là quay về làng”. Nước mất thì nhà tan, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. nhận thức được điều đó nên dù rất đau đớn, xong ông vẫn đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Đây quả là một quyết định táo bạo, tiến bộ của người nông dân. Tình cảm của họ đã vượt qua lũy tre làng để đến với dân tộc, với cách mạng.Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không biết phải tâm sự với ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đây là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chơ Dầu- ngôi làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?Đến khi tin làng chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu kiên cường. Ông Hai đã quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê- tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát:
“Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư giang khúc như hình con long”.
Thế nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng tám, tình yêu làng mới hòa quyện sâu sắc, thống nhất với tình yêu đất nước, niềm tin lãnh tụ và ủng hộ cách mạng.Nhân vật ông Hai để lại ấn tượng trong lòng người đọc bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Chính tình huống ấy bộc lộ rõ nội tâm của ông. Tình yêu làng bông trở nên mâu thuẫn với tình yêu đất nước, một tình cảm vốn là cội nguồn, một tình cảm tuy mới hình thành nhưng lại sâu nặng khiến cho ông không thể dứt bỏ. Cũng từ đây những suy nghĩ đa chiều được miêu tả rõ, góp phần thể hiện chủ đề truyện.Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước mộc mạc chân thành nhưng sâu nặng của những người nông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn tài ba.