Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
Đề bài: Cảm nhận những cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác qua bài thơ “Viếng lăng bác” của Viễn Phương.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác
– Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận, trích dẫn nhận định từ đề bài.
II. Thân bài
– Cảm hứng chủ đạo bao trùm toàn bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn pha lẫn nỗi xót xa khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác.
– Cảm hứng ấy chi phối giọng điệu bài thơ: đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng khi ở lăng. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau xen với niềm tự hào.
1. Khổ thơ đầu: cảm xúc của người con miền Nam lần đầu ra viếng lăng Bác
– Chỉ gói gọn trong một thông báo ngắn ngủi nhưng xúc động đã diễn tả được tâm trạng cảu người con từ chiến trường miền Nam ra thăm lăng Bác
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
– Hình ảnh hàng tre là hình ảnh đầu tiên gây nhiều ấn tượng với tác giả: đây là hình ảnh thân thương, gần gũi với hình ảnh người làng quê đất nước Việt Nam
+ Cây tre trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên trung và thẳng thắn của dân tộc
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
+ Cây tre là minh chứng sinh động hùng hồn cho phẩm cách của con người Việt Nam
2. Hai khổ thơ tiếp theo: Cảm xúc của tác giả khi hòa cùng dòng người vào viếng lăng
– Cặp hình ảnh sóng đôi: một hình ảnh ẩn dụ và một hình ảnh thực
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
– Hình ảnh thực chỉ mặt trời trong tự nhiên, rực rỡ vĩnh hằng ngày ngày vẫn đi qua trên lăng
+ Hình ảnh ẩn dụ: Mặt trời- Bác, nguồn sáng vĩnh hằng soi đường chỉ lối cho dân tộc
+ Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp, ấn tượng sâu xa, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác
– Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên sự bồi hồi, xúc động trong lòng tiếc niềm thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ nhung
+ Bảy mươi chín mùa xuân chỉ sự tận hiến của Người dành cho sự nghiệp cách mạng để làm nên mùa xuân tự do, độc lập cho đất nước, con người
– Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
+ Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: ánh trăng (hình ảnh ẩn dụ)
– Những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng với Bác từng vào thơ, trong nhà lao, trên chiến khu, giờ đây lại xuất hiện soi sáng giấc ngủ cho người
+ Hình ảnh vầng trăng “dịu hiền” gợi lên tâm hồn cao đẹp, nhân cách thanh cao của Người
– Tâm trạng xúc động của tác giả được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”
+ Bác dù đã ra đi nhưng hóa thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi với sự nghiệp giải phóng dân tộc
+ Nỗi đau quặn thắt trong tâm tưởng được cụ thể hóa “ Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
3. Khổ thơ cuối: Niềm xúc động, quyến luyến khi phải rời lăng Bác
– Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở bên lăng của Người mãi
+ Tác giả biết tới lúc phải trở về nên trong lòng dâng trào cảm xúc bịn rịn, nghẹn ngào
+ Nhà thơ mong muốn hóa thân vào cảnh vật bên lăng Bác: muốn làm con chim, muốn làm cây tre, đóa hoa
+ Điệp từ “muốn làm” diễn tả trực tiếp và gián tiếp tâm trạng và dòng tâm sự tự nguyện của tác giả
+ Hình ảnh cây tre mang ý nghĩa khẳng định phẩm chất kiên trung, vững chãi của con người Việt Nam
III. Kết bài
– Bài thơ chính là tâm trạng xúc động, tràn đầy sự biết ơn, lòng thành kính của nhà thơ khi viếng lăng Bác.
– Bài thơ có nhịp điệu phù hợp với nội dung tình cảm, vừa tha thiết, sâu lắng, vừa tự hào, xót xa, thể hiện chân thực cảm xúc khi vào lăng viếng Bác
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm Lăng Bác – mẫu 1
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ, Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc dộng tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viền Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm. Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam”
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con”. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như ‘là cha, là bác, là anh”. Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mờ bài thơ rộng hơn. xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới dất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quí. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vần hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một “‘mặt trời trong lăng” rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bàng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo cùa tác giả. Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lãng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc dời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. “Dâng bẩy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người. Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nẳm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã thế hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tường kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng là là vậy. “Mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ. cao siêu của con người và sự nghiệp cùa Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim dâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Còn đứng trong lãng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa. để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “mơ về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã “trào nước mắt”, luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam .bày tỏ niểm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Từ ngữ “muốn làm” được lặp di lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngú của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:
“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên người một chút.”
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền dược cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam bộ nói riêng cùa dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.
Cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm Lăng Bác – mẫu 2
Sự vĩ đại, công lao to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cả đời nhân dân ta vẫn luôn ghi nhớ, biết ơn. Viết về đức tính, tấm lòng của Bác là một mảng đề tài lớn trong sáng tác thơ ca. Và ngay cả khi Bác mất đi, nỗi tiếc thương vô hạn, đã dấy lên niềm biết ơn, kính trọng sâu sắc với Bác. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ được làm trên mạch cảm xúc ấy.
Trước sự ra đi của Bác, Tố Hữu đã từng thốt lên vô cùng đau đớn:
Bác đã xa rồi sao Bác ơi
Mùa thu đang nắng, đẹp xanh trời
Dù Viễn Phương không viết bài thơ ngay thời điểm Bác qua đời, nhưng cảm xúc vẫn vẹn nguyên, mãnh liệt. Tác phẩm được viết vào năm 1976, khi đất nước đã giải phóng, và lăng chủ tích Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Là một người con của miền Nam, tác giả cũng có một mong muốn mãnh liệt được ra thăm vị cha già của dân tộc khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Bởi vậy, bài thơ là cảm xúc chân thành, tha thiết, đầy xúc động tác giả dành cho Bác. Từ miền Nam xa xôi, Viễn Phương không quản ngại khó khăn để ra gặp Người. Lời thơ thân mật, gần gũi, như đứa con trở về thăm cha:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn, nhưng ẩn chứa trong đó biết bao nỗi niềm và cảm xúc của tác giả. Từ cực Nam của tổ quốc, Viễn Phương ra Hà Nội không chỉ để chiêm ngưỡng công trình kiến trúc nơi Bác yên nghỉ mà đó là hành trình về với người cha, hành trình trở về nguồn cội của chính mình. Tiếng con nghe sao thiêng liêng và ấm áp quá, nó cho thấy mối quan hệ thân mật, gần gũi mà cũng rất đỗi thành kính, thiêng liêng. Và qua đó cũng diễn tả nỗi xúc động sâu sắc của tác giả sau bao năm xa cách được trở về thăm Người. Cái hay, cái đẹp của khổ thơ không chỉ dừng lại ở lớp ngôn từ bình dị, mà còn ở những hình ảnh rất đỗi thân thương: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”. Hàng tre xanh ấy chính là tượng trưng cho làng quê, cho con người Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó. Cảm xúc trào dâng, khiến ông bật lên tiếng cảm thán đầy cảm xúc “ôi” chất chứa lòng tự hào. Dân tộc ta trải qua “bão táp mưa sa” – chiến tranh liên miên, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng vẫn “đứng thẳng hàng” – họ những con người kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử thách. Đúng như Nguyễn Duy đã từng khẳng định: “Thân gầy guộc lá mong manh/ Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”. Đồng thời những hàng tre này, cũng như vòng tay của quê hương, những đứa con đang ngày đêm canh gác giấc ngủ cho Người. Đứng trước lăng Bác, Viễn Phương càng cảm nhận rõ hơn nữa sự vĩ đại của người:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Hình ảnh mặt trời trong câu thơ đầu là mặt trời thực, là nguồn gốc sự sống của vạn vật. Nhưng hình ảnh mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ – ẩn dụ cho Bác. Bác là nguồn sống, đem đến ánh sáng cho dân tộc. Dưới sự dẫn dắt của Bác, đất nước đã được giải phóng, dân tộc được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc. Bởi vậy, Bác chính là mặt trời của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Đồng thời mặt trời mang trong mình hơi ấm, cũng như Bác mang trong mình tình yêu thương bao la với dân tộc: “Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng” (Đêm nay Bác không ngủ – Minh Huệ). Trước sự vĩ đại của Người, ngày ngày những người con Việt Nam vẫn lặng lẽ đến bên và kính dâng lên tình cảm, sự trân trọng, kính yêu: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Dòng người trĩu nặng nhớ thương, từ khắp mọi miền đất nước vẫn tề tựu về đây, theo dòng người vào thăm lăng Bác. Bằng sự quan sát tinh tế, tác giả đã tạo ra hình ảnh ẩn dụ đặc sắc: tràng hoa. Tràng hoa từ khắp mọi miền tổ quốc, kính dâng lên người với lòng biết ơn vô hạn. Hình ảnh thơ đã biểu lộ tấm lòng thành kính không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là của nhân dân đối với Bác.
Tiến vào trong lăng thời gian như ngưng đọng. Bác nằm trong giấc ngủ bình yên sau những năm tháng hoạt động cách mạng và bên cạnh Bác luôn có người bạn hiền kề cận – ánh trăng. Đồng thời ánh trăng đó cũng cho thấy lối sống thanh cao, nhân cách trong sáng trong cả cuộc đời của Bác. Tròng niềm xúc động vô hạn, Viễn Phương thốt lên đầy đau đớn: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Vẫn biết Bác đã hóa thân vào dáng hình, xứ sở trường tồn cùng đất nước, nhưng nỗi đau trước sự ra đi của Bác vẫn làm nhà thơ đau nhói, đó là nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Ấy là nỗi đau quá lớn, nghẹn ứ không thể nói thành lời của triệu con tim Việt Nam. Thời khắc ở bên Người quả là quá ngắn ngủi, chẳng mấy chốc đã đến giờ phút chia xa. Nghĩ đến việc mình sẽ phải trở về miền Nam, phải xa người nhà thơ không thể kìm nén nổi nỗi xúc động mà biểu lộ ra ngoài:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Câu thơ như một lời giã biệt, mà lắng sâu tình cảm. Nhứng giọt nước mắt trào dâng, lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi bác yên nghỉ. Mặc dù lưu luyến, không muốn rời xa, nhưng bản thân ông cũng hiểu rằng đã đến lúc phải trở về miền Nam. Và đến lúc này ông dấy lên một ước nguyện chân thành tha thiết:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Điệp ngữ muốn làm kết hợp với các hình ảnh: con chim, đóa hoa, cây tre đã thể hiện nguyện ước chân thành, mãnh liệt của ông. Đó là những sự vật hết sức gần gũi, thân thuộc. Và đặc biệt, ông muốn làm cây tre trung hiếu để nhập vào hàng tre quanh lăng Bác canh giữ giấc ngủ ngàn năm cho Người. Đồng thời hình ảnh này cũng thể hiện niềm kính yêu, lòng biết ơn vô hạn tác giả dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cả bài thơ là nỗi xót thương sâu sắc của Viễn Phương khi đến thăm lăng Bác. Nhưng đằng sau đó ta còn thấy tấm lòng thành kính, tự hào trước công lao vĩ đại của Người đối với dân tộc Việt Nam. Cùng với đó là sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ,… giọng điệu đầy trữ tình đã tác động sâu sắc đến tâm khảm bạn đọc.
Cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm Lăng Bác – mẫu 3
Trong niềm vui lớn của cả đất nước ngày đại thắng 30-4-1975, mọi người chợt nhận ra một điều thiếu vắng không thể bù đắp được: không có Bác Hồ trong cuộc vui lớn này. Ôi, hơn ai hết, lẽ ra phải có Bác trong ngày họp mặt hôm nay, ngày hội mà chính Bác là người chuẩn bị, mơ ước và dõi theo nó trong hơn nửa thế kỉ của cuộc đời vĩ đại của mình! Đau nhất là nhân dân miền Nam, những người đã ao ước và đổ máu của mình cho mau chóng đến ngày gặp Bác.
Chính trong tâm trạng ấy mà nhà thơ Viễn Phương từ thành phố Sài Gòn giải phóng, thành phố Hồ Chí Minh tâàn yêu, ra thăm lăng Bác và trở về với bài thơ “Viếng lăng Bác”. Nỗi niềm của nhà thơ, chân thành và xúc động, đã bắt gặp nỗi niểm chung của mọi chúng ta. Viếng lăng Bác ư? Không, hình như đây chính là đến với Bác, đến thăm Bác. Bác đã mất ư? Không phải đâu, Bác đang sống, Bác đang ngủ đó thôi mà! Tưởng như Bác đang nhìn thấy mọi người từ xa, nhà thơ thầm đặt tay lên ngực mình, tự giới thiệu với Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.”
“Con ở miền Nam” mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Con ở tự miền Nam đây Bác ơi! Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo để trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác ơi! Con ở tự miền Nam đây Bác ơi! Miển Nam với nỗi đau mất Bác, nỗi đau không đón từng bước chân Bác sau ngày thắng lợi đây Bác ơi! Trong làn sương mờ của một ngày thu Hà Nội, đến với Bác, sao như là trở lại một làng quê thanh bình nào vậy:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Hàng tre bát ngát – hàng tre xanh xanh – hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hiệu đặc biệt Việt Nam, hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hộ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Dấu hiệu đầu tiên ở nơi Bác đúng là một dấu hiệu Việt Nam, bởi vì Bác cũng chính là một biểu hiện Việt Nam, tiêu biểu cho con người Việt Nam hơn ai hết. Ở Bác có tất cả những gì mà con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy.
Ôi! Đến với Bác không phải là đi mà là trở về, trò về nguồn cội của chính mình, trở về với một ngày tháng thanh bình của dân tộc muôn đời. Sao trước lăng Bác không phải là đền đài tráng lệ, rực rỡ vàng son, rồng chầu phượng đứng? Mà tại chỉ là hàng tre, giản dị khiến cho người ta phải ngỡ ngàng, phải xúc động đến rơi nước mắt? Giờ là lúc xếp thành hàng để đi vào với Bác. Dòng người chầm chậm bước đi. Bầu trời cao lồng lộng trên lăng. Mặt trời tỏa sáng trên lăng. Chân bước đi mà hồn ngẫm nghĩ. Nhìn trời cao và nghĩ về Bác. Bác là ai? Bác là gì trên cõi đời này?
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ để nói về Bác chưa? Chưa đâu, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái đặc tính này của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải ngày nào cũng ấm nồng thế đâu! Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay, có hai mặt trời chiếu dpi trên đường đời; một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng tâm hồn … Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Cùng với mặt trời vẫn ngày ngày đi qua trên lăng là:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhờ
Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân.”
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như với một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiến Ịchác trên đời đâu. Đây là một tràng hoa bất tận, mà mỗi đóa hoa là hoa thật sự của đời, hoa – con người, mà Bác đã tạo nên trên đất nước này, trong cuộc sống bảy mươi chín mùa xuân ngắn ngùi nhưng trường cửu của Bác.Từ bên ngoài, theo đi chầm chậm, ta cùng nhà thơ đi vào trong lăng với Bác. Đây là phút nghẹn ngào. Ta không còn nghĩ đến hàng tre ngoài lăng, ta không còn nghĩ đến vầng mặt trời trên lăng. Lúc này, trước mặt ta chỉ có Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng.
Nhà thơ sững sờ nhận ra nỗi đau lớn: Bác mất thật rồi. Nhưng Bác, con người vĩ đại giữa con người, không đang trong sự chết bình thường như ta vẫn nghĩ theo lẽ đời. Hình như Bác chỉ ngủ sau một chặng đời với bảy mươi chín mùa xuân chưa hề được nghỉ ngơi. Mà cũng hình như không phải Bác ngủ, Bác chỉ đang “nằm trong giấc ngủ” đó thôi! Canh cho sự bình yên trường cửu của giấc ngủ ấy là “một vầng tràng sáng dịu hiền”.
Nhắc đến trăng, ta chợt nhớ Bác yêu trăng biết bao! Trăng đã từng đến với Bác giữa chốn tù đày, đến giữa “cảnh khuya” của núi rừng Việt Bắc; trăng khi đi thuyền trên sông Đáy, khi “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trâng soi” … Nhưng có bao giờ Bác được một lúc lòng trí thảnh thơi để thật sự đến cùng trăng. Bởi khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”, khi thì phải “nhớ thương nhi đồng” … Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ bình yên này thôi, Bác mới thật sự cùng trăng, để trăng cùng Bác. Bác nằm đó, trong quan tài thủy tinh, ấy là sự thật mà lòng ta không thể nào chấp nhận được. Ta tự an ủi ta bằng lẽ trường cửu ở đời nhưng con tim ta lại có cái lí riêng của nó.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận của lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Đác mãi hiện diện irên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Vắng Bác, cái thiếu vắng ấy lấy gì để bù đắp được? Cuối cùng dẫu xót xa đến mấy, cuộc chia biệt cũng phải xảy ra. Để Bác nằm lại với giấc ngủ bình yên vĩnh viễn, với ánh trăng trường cửu trong lăng, mỗi người phải bước đi, với cảm giác thật sự về nỗi đau mất Bác:
“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt. “
Một tiếng “thương” của miền Nam là trọn vẹn tình cảm eủa người miền Nam đối với Bác. “Thương”, ấy là yêu, là kính yêu, là quý trọng cả cuộc đời cao thượng và vĩ đại của Bác đã đành hết cho nước, cho dân; ấy là cảm động đến xót xa vì đời sống của Bác sao khiêm nhường đến vậy, giản đơn hi sinh đến vậy; ấy là xót đau vì nỗi đau mất Bác. Thương, thương đến trào nước mắt, thật đúng là tình thương của nhân dân Việt Nam, nhân dân miền Nam đối với Bác trong giây phút này, giây phút đứng lặng trước sự vĩ đại, sự cao thượng, lòng tận tụy, hi sinh vô bờ bến kết tinh cụ thể đằng sau lớp thủy tinh trong suốt kia. Cùng với niềm thương trào nước mắt ấy, những lời lẽ tự nguyện cũng trừng điệp dâng lên đầy ắp tâm trí:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Chân bước đi mà mặt còn ngoảnh lại, không muốn rời xa, không muốn cách chia. Một sức vô hình nhưng mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Ôi, giá có được phép lạ thần kì để ta vĩnh viễn không mất Bác. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác. Một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác. Một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng của quê hương bên Bác. Nhưng nhà thơ không thể mong ước gì hơn. Sự thật là cuộc chia li phải xảy ra, đã xảy ra. Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng hoàn toàn. Bài thơ từ đây đã kết thúc nhưng tâm sự nhà thơ từ đây lại vút cao lên. Một nỗi thương tiếc khôn nguôi, những nỗi niềm tự nguyện về cuộc đời mình để xứng đáng với Con Người khiêm nhường và vĩ đại, người thầy, người cha, người bác, vị lãnh tụ đã sống cuộc đời tột bậc vẻ vang của Con Người, cho Con Người.
“Viếng Lăng Bác” là một trong những bài thơ viết muộn màng rất lâu sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, sau hàng nghìn bài thơ đã viết về nỗi đau mất Bác. Thế mà bài thơ vẫn tìm cho mình một tiếng nói mới. Cái mới ấy xuất phát từ tấm lòng chân thành của nhà thơ. Nguyên nhân chủ yếu tạo nên thành công của bài thơ cũng chính là điều đó. Thế đấy, văn chương là chữ nghĩa, nhưng trước hết là tấm lòng.