Viết bài tập làm văn số 3: Văn tự sự

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây

Đề bài: Kể về một cuộc gặp gỡ với các anh bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12). Trong buổi gặp gỡ đó, em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ của thế hệ mình về thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ tổ quốc.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

– Lịch sử Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12.

– Ngày 22-12 năm vừa rồi, trường em đã tổ chức một chuyến đi thăm các chú bộ đội (quân khu thủ đô, biên phòng, công binh…)

2. Thân bài:

– Không khí náo nức, hào hứng phấn chấn chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi.

– Trên đường đi và niềm vui gặp gỡ:

+ Dọc đường: Hát hò, hồi hộp…

+ Đến nơi:

– Các chú, các anh bộ đội: Vui vẻ, thân thiện, đón tiếp nồng nhiệt.

– Sau màn chào hỏi tưng bừng, tất cả cùng đi tham quan nơi ăn, nơi ở, phòng truyền thống, khu vực luyện tập của đơn vị.

– Trên hội trường diễn ra cuộc gặp gỡ:

+ Tất cả trở lại hội trưởng để nghe các chú, các anh nói chuyện (phần trọng tâm).

+ Giới thiệu người nói chuyện.

+ Nội dung câu chuyện: Kể về ai, về việc gì? Xảy ra ở đâu, trong hoàn cảnh nào? Nhân vật trong chuyện là người đang kể chuyện hay đồng đội, còn sống hay đã hi sinh?…

+ Trong câu chuyện có những tình huống gay cấn, những chi tiết bất ngờ nào?

– Kết thúc cuộc gặp gỡ, đại diện học sinh lên phát biểu:

+ Thay mặt thầy cô và các bạn cảm ơn sự đón tiếp, cảm ơn người nói chuyện.

+ Phát biểu cảm xúc: Cảm động, tự hào, biết ơn.

+ Hứa hẹn: Học tập và rèn luyện tốt, xứng đáng với thế hệ cha anh; sẵn sàng tiếp bước cha anh xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

3. Kết bài:

– Hiểu biết hơn về hình ảnh anh bộ đội và ngày 22-12.

– Cảm xúc dạt dào, mong có nhiều dịp gặp gỡ, giao lưu nữa để nâng cao hiểu biết và đời sống tâm hồn thêm phong phú.

 

B/ Bài văn mẫu

Kể về một cuộc gặp gỡ với các anh bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 1

Nhân kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), trường tôi mời các cựu chiến binh về dự lễ. Tôi được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ của thế hệ mình về thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc.

Trước khi bữa lễ bắt đầu, khoảng 7 giờ 30 phút thầy cô cứ chạy tới chạy lui để tập họp và sắp xếp chỗ ngồi cho chúng tôi. Sau khi đã ổn định, có một chiếc xe “Zýp” chạy tới và đậu trước cổng trường tôi. Trên đó có 3 người đàn ông từ từ bước xuống xe, tôi đoán ngay là các chú bộ đội vì tóc ai cũng đã bạc hơn một nữa, ai cũng ăn vận bộ đồ lính, đầu đội nón cối, chân đi dép lốp. Hai bác khoảng năm mươi năm tuổi, một bác người cao lớn, lực lưỡng và giọng nói ôn tồn, trên mặt đầy vết sẹo chắc hẳn bác phải bị giặc hành hạ và tra tấn rất nhiều. Còn bác kia nhỏ con chỉ một chân. Khi di chuyển, bác phải chống nạp mà đi. Nhưng bác còn yêu đời lắm vì tôi thấy bác luôn nở nụ cười từ khi bước xuống xe. Tôi thấy thương các bác quá vì các bác đã cống hiến cho đất nước một phần xác thịt của mình. Tiếp đó là một anh chiến sĩ, bước đi dứt khoát. Hình như anh là người mới, đi để học hỏi thêm. Anh và hai bác vào bước vào chỗ ngồi dưới sự hướng dẫn của thầy giám thị.

Sau lời giới thiệu mở đầu của thầy Hiệu trưởng, bác có thân hình lực lưỡng lên phát biểu ý kiến của mình. Bác kể cho chúng tôi nghe về nhiều chuyện lắm, kể cả chuyện về lịch sử ra đời ngày 22/12. Giờ thì chúng tôi đã biết: Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12 /1944. Ngay sau đó đội đánh thắng 2 trận liên tiếp tại Phây Khắt,Nà Ngần…Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.Và từ đó lấy ngày 22/12 làm ngày truyền thống. Bây giờ thì tôi đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22/12,hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức để nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường…Chúng tôi còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng, hào hùng của những người lính cụ Hồ, về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược, những gian khổ hy sinh không thể diễn tả bằng lời. Đến thời bình, bộ đội đâu đã hết nguy nan: Những đêm tuần tra lạnh run người khi truy bắt tội phạm chống lại những lực lượng thù địch phá hoại từ bên ngoài, những lúc giúp dân chống thiên tai, lụt lội… Chúng tôi say mê theo dõi, im lặng, hồi hộp nói không nên lời.

Tôi nhìn lên khuôn mặt đầy vết sẹo nhưng gắn bó tình người ấy, tôi không khỏi bồi hồi và xúc động. Đến phiên tôi lên đọc, những suy nghĩ và cảm xúc của tôi dâng trào:

– Kính thưa các bác, các chú ,chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng. Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay, dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều, bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hy sinh cho Tổ quốc. Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đối với cha anh, chúng cháu hứa sẽ cố gắng học tập, rèn luyện bản thân để trở thành những công dân có ích, góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng đất nước. Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quý của dân tộc ta, xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ ông cha.- Vừa dứt lời tràn vỗ tay lớn vang lên. Anh và hai bác cùng các thầy cô có vẻ hài lòng với ý kiến của tôi. Tôi ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn còn run,trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì .

Bác nói nhỏ bên tai tôi rằng tôi hãy cố gắn làm những gì tôi đã nói và bác mong nó sẽ thành hiện thực. Sau khi giao lưu khoảng hai tiếng đồng hồ, có tiếng chuông thông báo đã hết giờ. Chúng tôi luyến tiếc nhìn anh và các bác bộ đội bước lên xe “ Zýp”, họ vẫy tay chào tạm biệt chúng tôi với đôi mắt kì vọng. Có thể đôi mắt ấy muốn nói rằng các bác luôn kì vọng vào chúng tôi.

Sau buổi hôm đó, tôi luôn nghĩ đến những gì bác đã đã nói với tôi. Tôi tự hứa với lòng mình rằng: “Mình sẽ cố gắng trở thành một người công dân tốt, luôn biết hi sinh vì đất nước như bác đã từng làm”.

                                        

Kể về một cuộc gặp gỡ với các anh bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 2

Nhân ngày 22 tháng 12, trường em đã tổ chức mít tinh kỉ niệm Ngày Quốc phòng toàn dân. Nhân ngày lễ lớn này, trường em đã mời đoàn cựu chiến binh đánh Mĩ năm xưa đến thăm trường. Em biết và đã được gặp người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Người chiến sĩ lái xe năm xưa vẫn tươi cười, trên ngực chú đeo rất nhiều huân, huy chương. Giọng nói của chú khoẻ khoắn, âm vang, dõng dạc. Tiếng cười của chú rất sảng khoái khi về thăm trường. Chú đã trải qua rất nhiều năm chống Mĩ ác liệt nên trông chú già dặn, nhưng chú lại có một nét chỉ có người lính mới có, đó là nét vui tươi, yêu đời của người lính. Chú đã diện bộ quân phục mới nhất, trông chú rất nghiêm trang và trang trọng.

Em đến gần chú và chào to:

– Cháu chào chú!

Chú quay lại và cười với tôi, sau đó tôi và chú đã ngồi nói chuyện rất vui vẻ. Chú kể lại về người lính Trường Sơn kháng chiến chống Mĩ rất gian khổ và khốc liệt, Vào năm 1969, máy bay Mĩ ném bom rất nhiều vào nước ta, nó rải rác bom khắp nơi nên các chú khó mà vận chuyển được lương thực, thực phẩm, khí giới vào miền trong được. Nó đã chặn đường tiếp tế của quân và dân ta. Nhưng chúng ta vẫn kiên cường để chống lại bọn chúng. Đó là thời kì lịch sử đối với chú.

Vì trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa giặc Mĩ đã đánh phá vô cùng khốc liệt, đã cày xới hàng loạt con đường, đốt cháy hàng loạt những cánh rừng và làng mạc. Trong số đó có làng của chó. Nên chú đã quyết tâm ra đi lòng vì đất nước, vì Tổ quốc của chúng ta. Chú vào Trường Sơn nhận nhiệm vụ chuyển lương thực, khí giới vào miền Nam. Trên chặng đường ấy chú và nhiều chú bộ đội khác đã nối đuôi nhau trên những chiếc xe vận tải. Những chiếc xe đó vẫn ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến. Góp sức một lòng bảo vệ Tổ quốc. Chú nhớ nhất là chiếc xe mà chú lái ở Trường Sơn năm xưa, nó rất đặc biệt.

– Cháu biết không?

Bom đạn của Mĩ đã dội xuống như mưa, bom giật bom rung đã làm những chiếc kính của xe vỡ tan. Ngoài những chiếc bị vỡ còn có đèn vỡ, mui của xe thi bẹp, méo. Có những chiếc xe thì không có cả mui, thùng xe thì bị vỡ và xước trông rất kinh khủng, không có một chiếc xe nào mà thùng xe lại không có vết xước cả. Thời kì đó, nước ta rất thiếu thốn về mặt giao thông vận tải, nhất là phương tiện giao thông của ta. Phương tiện đi lại rất khó khăn, đơn sơ, nghèo nàn. Nhưng chúng ta vẫn đánh Mĩ, kháng chiến đến cùng, đánh cho Mĩ phải lui. không khác nào châu chấu đá xe. Chú còn nhớ rất nhiều kỉ niệm về thời kháng chiến chống Mĩ. Trên các ca-bin của bọn chú tưởng chừng ngồi trên đó rất sợ vi bọn chú thì cứ lái cho xe chạy tưởng như không thể nào ngồi vững được. Lâu rồi cũng thành quen, vì trên có ca-bin những chiếc xe do bọn chú điều khiển không có vặt nào che chắn trước mặt nào gió, nào bụi, nào mưa. Gió Trường Sơn thổi vào mặt ù ù, tưởng chừng như ai tát mà đau, nó mang theo rất nhiều bụi của con đường Trường Sơn. Gió lùa vào cay mắt như thấy con đường chạy thẳng vào tim mình vậy. Thấy sao trời đẹp lung linh, cánh chim bay đột ngột nó như ùa thẳng vào buồng lái các chú ngồi như vậy. Ấy thế mà nó cũng chẳng làm gì được bọn chú đâu. Bọn chú vẫn đi, mọi người thì bảo Trường Sơn bụi lắm, con đường bị bom Mĩ cày xới ngày và đêm nên rất bụi. Xe của các chú đều không có kính nên bụi vào mắt bị cay xè. Cay như cho ớt vào mắt. Tóc thì bạc trắng, bạc như người già, mặt thì lấm lem. Thế mà đến khi ngủ chẳng ai cần rửa mà lại phì phèo châm điếu thuốc hút. Ai nấy cũng nhìn nhau, ngộ thật và các chú cười rất vui. Những lúc đó những lúc vui nhất trên chặng đường đi đánh Mĩ. Người ta bảo quá đúng Trường Sơn đông nắng, tây mưa – Ai chưa đến đó như chưa biết mình. Nó đúng lắm vì những ngày mưa ở đông Trường Sơn là những ngày mưa rất ác liệt. Những ngày mưa thì rất khổ, ngồi ở trong xe mà mưa tuôn, mưa xối như khi ta ở ngoài trời. – Mưa rất lớn làm xây xát cả da, thịt có trải qua chúng cháu mới biết được sự vất vả như thế nào. Nhưng sự sôi nổi, trẻ trung của người lính như bọn chú thì cũng dần quen thôi. Những lúc mưa ngừng bọn chú vẫn chưa cần thay áo và bọn chú vẫn tiếp tục đi. Vẫn cầm vô-lăng lái hàng trăm cây số nữa cũng đâu có gì. Vì gió lùa vào quần áo lại khô nhanh thôi. Cứ như vậy bọn chú đi suốt ngày, suốt tháng. Những ngày tháng khó khăn, gian khổ như thế mới thực sự hiểu được sức chịu đựng của chúng ta là vô cùng kì diệu.

Những chiếc xe không có kính cũng thật là thú vị với cả không gian rất rộng lớn được các chú thu hết ở trong buồng lái mà.

Tâm hồn của người lính, người chiến sĩ rất vui vẻ, vui tươi phơi phới thật đúng là Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Các chú gặp nhau rất vui vẻ, gặp nhau trên đường đi, cười với nhau, và một cái bắt tay thật ý nghĩa. Bắt tay qua cửa kính có sự hội tụ to lớn; hội tụ trở thành gia đình, họp thành tiểu đội, quây quần ấm cúng, bữa cơm đạm bạc quanh nhau giữa rừng. Hình ảnh bếp lửa Hoàng cầm mà bọn chú quây quần bên nhau mỗi ngày rất vui. Tình cảm của bọn chú lại ngày càng sâu sắc với những kỉ niệm vui tươi. Tuy xe không có kính nhưng ở trong xe có một trái tim, trái tim của người chiến sĩ rất sôi nổi trẻ trung và đầy sức sống, lạc quan, yêu đời. Các chú một lòng vì đất nước, một lòng vì miền Nam ruột thịt. Cùng với những cô gái thanh niên xung phong họ đã làm nên lịch sử. Họ đã là mục tiêu ném bom của máy bay Mĩ. Họ một lòng yêu nước, họ đã mặc những bộ quân trang màu trắng để làm mục tiêu cho xe chạy, họ đã làm nên kì tích. Họ đã hiến dân thân thể mình để hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Chiến tranh đã làm tổn hại bao nhiêu sinh mạng vô tội, họ đã vì mình mà hi sinh tất cả vì Tổ quốc. Chúng ta phải có trách nhiệm đối với đất nước. Bây giờ đất nước ta đã hoà bình, đã được độc lập, tự do. Vì vậy chúng ta phải giữ gìn nền hoà bình, độc lập thật bền lâu.

Sau cuộc mít tinh, em và chú bộ đội đã chia tay nhau và hẹn một ngày nào đó em và chú sẽ được gặp lại nhau. Nhìn chú vẫn sáng ngời, em ước mong sao đất nước ta sẽ phát triển không ngừng để không phụ lòng các chiến sĩ lái xe, các chiến sĩ vì đất nước mà không chịu lùi bước.

Kể về một cuộc gặp gỡ với các anh bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 3

Nhân kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, trường em tổ chức cho học sinh đi thăm một đơn vị bộ đội. Trong buổi gặp gỡ đó em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình.

Xe dừng bánh, cả doanh trại bộ đội rộng lớn, sạch sẽ, ngăn nắp hiện ra trước mắt. Hội trường trang hoàng lộng lẫy, các bác các chú quân phục chỉnh tề, gương mặt rạng rỡ, tự hào. Chúng em quây quanh các chiến sỹ áo xanh, mặt các bạn hớn hở, hãnh diện lạ thường! Chúng em hỏi các chú nhiều chuyện lắm, cả về lịch sử ra đời ngày 22/12 nữa. Giờ thì chúng em đã biết: Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12 /1944. Ngay sau đó đội đánh thắng 2 trận liên tiếp tại Phây Khắt, Nà Ngần…Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành QĐND Việt Nam. Và từ đó lấy ngày 22/12 làm ngày truyền thống. Bây giờ thì em đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22/12,hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức để nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường…

Chúng em còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng, hào hùng của những người lính cụ Hồ, về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược, những gian khổ hy sinh không thể diễn tả bằng lời. Đến thời bình, bộ đội đâu đã hết nguy nan: Những đêm tuần tra lạnh run người khi truy bắt tội phạm chống lại những lực lượng thù địch phá hoại từ bên ngoài, những lúc giúp dân chống thiên tai, lụt lội… Nhìn gương mặt rắn rỏi, sạm đen vì nắng gió, nghe những câu chuyện kể và chứng kiến vẻ bình thản của những chiến binh, em thật sự thấy rất cảm động xen lẫn cả niềm tự hào, biết ơn sâu sắc… Trong dòng cảm xúc khó tả,ấy em lại được vinh dự thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình:“Kính thưa các bác, các chú, chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng. Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay, dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều, bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hy sinh cho Tổ quốc. Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đối với cha anh, chúng cháu hứa sẽ nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những công dân có ích, góp phần nhỏ bé của mình xây dựng đất nước. Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quí của dân tộc, xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ cha anh.” Em ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn còn run,trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì.

Ánh nắng đã nhạt dần, chúng em chia tay với các bác, các chú trong lưu luyến. Buổi gặp gỡ đã khơi dậy những ước mơ trong em, tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin của em vào một tương lai tươi sáng. Em mong rằng các bác, các ông thật mạnh khỏe và thế giới này mãi được sống trong no ấm, hòa bình.

Kể về một cuộc gặp gỡ với các anh bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – mẫu 4

Nhân ngày thành lập quân đội Nhân Dân Việt Nam, học sinh cả trường em được vinh dự chào đón những anh bộ đội cụ Hồ. Đã từ rất lâu, chúng em chỉ được hình dung các anh bộ đội anh dũng bất khuất qua những bài thơ, bài hát, bức tranh, nay được nhìn thấy các anh trong bộ quần áo màu xanh đầy ý nghĩa ấy thật là một dịp hiếm có. Là một liên đội trưởng của trường, em may mắn được các thầy cô cho phát biểu về cảm nghĩ của mình về thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc. Buổi lễ diễn ra, trước toàn thể các bạn học sinh, trước các thầy cô giáo yêu quý và những anh bộ đội, em bước lên bục phát biểu rõ ràng và đầy tình cảm.

Kính thưa các thầy cô giáo, kính thưa các anh bộ đội và các bạn học sinh thân mến. Để có cuộc sống hòa bình ngày hôm nay, để trẻ em được đến trường, để con người Việt Nam được sống trong tự do hạnh phúc thì đã có biết bao nhiêu thế hệ cha anh đã ngã xuống, họ không ngần ngại hi sinh tính mạng của mình đổi lấy sự hòa bình và độc lập. Ngày hôm nay em thật vinh dự khi được đứng trên này, nhân dịp ngày thành lập quân đội Nhân Dân Việt Nam để gửi tới thế hệ cha anh – những người anh hùng đất nước lời tri ân sâu sắc nhất.Thế hệ cha anh chúng ta đã phải trải qua biết bao nhiêu gian khổ, họ đã từng bị nô lệ, đã từng bị đàn áp đẫm máu. Họ phải trong cảnh nghèo nàn cơm không có mà ăn, nước chẳng có mà uống. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã trải biết bao nhiêu bom đạn xuống mảnh đất nhỏ bé của chúng ta và cướp đi biết bao nhiêu tính mạng con người Việt Nam. Những người mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những người con mồ côi cha, những người chiến sĩ mất đồng đội. Họ không những đánh đổi cả hạnh phúc cá nhân mình mà còn quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Có những người chiến sĩ bị giặc bắt họ thà chết chứ không chịu khai, họ phải chịu biết bao cực hình sống không bằng chết. Hẳn trong chúng ta ai cũng biết đến những cái tên như Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Cừ, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi…Họ đều là những người chiến sĩ cách mạng tiêu biểu cho tấm lòng yêu đất nước.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng những vết thương trong lòng người vẫn còn mãi. Chất độc màu da cam vẫn để lại di chứng cho biết bao nhiêu con người. Vì đâu mà những thế hệ cha anh lại quyết hi sinh như vậy. Vì đất nước, vì nhân dân. Chúng ta không thể chịu sống hèn sống kém, chúng ta không thể sống mà không tự do. Hồ Chí Minh tiêu biểu cho ý chí sắt đá của thế hệ cha anh. Người đã làm nhiều nghề đi nhiều nước để tìm ra con đường cứu nước.

Vì thế chúng ta cần “uống nước nhớ nguồn” “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Thế hệ cha anh đã hi sinh cả xương máu của mình để làm nên đất nước thì chúng ta những người sống trong cảnh hòa bình no đủ thì cần phải giữ gìn xây dựng đất nước giàu mạnh hơn nữa. Em xin thay mặt các bạn học sinh gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thế hệ cha anh đã làm nên đất nước ngày hôm nay.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1098

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống