Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
Đề bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy.
A/ Dàn ý chi tiết
A. Mở bài:
– Dẫn dắt vào đề tài ánh trăng.
– Giới thiệu phong cách thơ của Nguyễn Duy và bài thơ ” Ánh trăng”.
– Khổ thơ cuối mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.
B. Thân bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài thơ.
1. Hình ảnh Trăng cứ tròn vành vạnh:
– Thể hiện một quá khứ đẹp đẽ của ánh trăng
– Ánh trăng quá khứ trọn vẹn, chung thủy và không phai màu
– Ánh sáng và trăng vẫn như xưa, không thay đổi
2. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc”:
– Dù trăng rất đẹp, rất chung tình.
– Nhưng dù đẹp hay lung linh đến đâu thì cũng nghiêm khắc.
– Sự hờn trách của ánh trăng đối với con người.
3. Hình ảnh “ta giật mình”:
– Nhớ lại quá khứ đẹp đẽ
– Tác giả tự vấn lương tâm mình
– Ân hận và xót xa bản thân mình
– Nhắc nhở tự hoàn thiện bản thân hơn
4. Hình ảnh qua khổ thơ cuối.
– Tác giả trân trọng và muốn giữ gìn những giá trị truyền thống đẹp đẽ
– Lãng quên quá khứ và sống cho riêng mình quên đi người bạn chân thành.
– Nhắc nhở chính mình phải sống ân nghĩa, chung tình.
C. Kết bài:
– Nêu cảm nghĩ của em về khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.
– Liên hệ từ ánh trăng đến bản thân con người.
B/ Bài văn mẫu
suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – mẫu 1
Thời gian luôn là một cái gì đó vô hình…Nó làm mờ dần những đau khổ trong mỗi con người, đồng thời cũng xóa đi bao ký ức đẹp, ân nghĩa thủy chung trong lòng ai đó. Một trong số ấy có nhà thơ Nguyễn Duy, qua bài thơ Ánh trăng, ta tiếp nhận được một bài học sâu sắc: Bài học về cách sống ân tình, ân nghĩa, thủy chung.
Ngày nay hoàn cảnh sống có nhiều sự thay đổi, con người cũng dần quên đi quá khứ. Người và vầng trăng trở nên xa lạ, lạc lõng, nhạt nhẽo trong nghĩa tình (dù Trăng vẫn luôn tràn đầy tình nghĩa). Cuộc sống hiện tại với vật chất, tiện nghi đầy đủ khiến con người dễ quên đi quá khứ, quên đi những ân tình thấm đẫm đã từng gắn bó một thời.
Để rồi một ngày chợt nhận ra vầng trăng ngày xưa vẫn còn kia, tròn trĩnh, đong đầy…Nỗi ân hận của tác giả chợt trào dâng…chẳng phải tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của những con người trước kia đã cưu mang, che chở, chăm sóc ta hay sao?…Họ chẳng phải chính là nhân dân ta, đồng bào ta, đồng chí, đồng đội của ta hay sao? Chính họ cũng đã là người sẵn sàng hi sinh cho ta đó sao?…Nay ta lại trở nên vô tình đến vậy…
Niềm tâm sự sâu kín của nhà thơ chính là điều ông muốn nói trong những giờ phút này, khi những lời ấy chợt trở thành thơ…thì có lẽ ông đã sửa lại lỗi lầm. Đó là sự ân hận, sự sám hối của con người ta nhận ra sự bạc bẽo vô tình của chính mình:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ấy thế nhưng, trăng vẫn đâu hề trách ta, cái nhìn dịu hiền, lành lặn không chút sứt mẻ khiến ta cảm thấy được xoa dịu nhưng cũng làm cho ta thấy được cái sự bạc bẽo của mình trong thời gian ấy…quá khứ nghĩa tình mà ta dần nhớ lại! Vầng trăng ở đây không chỉ là quá khứ vẹn nguyên mà còn là vẻ đẹp tự nhiên vĩnh hằng. Ánh trăng yên lặng không nói gì…chỉ để tự ta suy nghĩ, tự đánh giá bản thân con người ta, rồi ta sẽ thấy được trong cái im lặng đó chỉ là cả một khoảng bao la rộng lượng.
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp quá khứ vẫn tỏa sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan tòa lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ lặng im thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài u tối.
Trăng ở đây đâu chỉ là trăng mà chính là biểu tượng cho những con người giản dị trong sáng, nghĩa tình. Tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của nhân dân, của đồng bào của đồng đội, người lính là vô cùng rộng lớn. Luôn luôn bao dung và tha thứ nên ánh trăng của Nguyễn Duy là một tác phẩm mang tính chất triết lí thầm kín. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Với giọng thơ mượt mà, trẻ trung mà mang đậm tính triết lí sâu sắc, nhà thơ Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Chúng ta đã từng biết đến một “Tre Việt Nam” với lối viết giản dị mà thấm đẫm cảm giác tự hào, đã từng biết đến “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” với bao tình cảm gửi đến người mẹ, và giờ đây là “Ánh trăng”.
Bài thơ “Ánh trăng” ghi lại một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp ân tình của vầng trăng. Trước cuộc sống bận rộn, con người đã quên đi những kỉ niệm của quá khứ. Thế nhưng vầng trăng vẫn vẹn nguyên, thuỷ chung ân tình mà sâu sắc.Bài thơ đã để lại cho người đọc biết bao bài học thấm thía và sâu sắc, đặc biệt, khổ thơ cuối đã mang lại nhiều dư vị và cảm xúc khó quên.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.“
Bài thơ được viết năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh – nơi mà những người lính từ chiến trường trở về sống giữa thành phố xa hoa mà hiện đại, bỏ lại sau lưng quá khứ hào hùng. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh ánh trăng – hình ảnh tượng trưng cho quá khứ và vẻ đẹp vĩnh hằng, trường tồn mãi mãi. Hình ảnh của quá khứ càng tươi đẹp thì nhà thơ tự trách mình, cảm thấy có lỗi. Những khổ thơ trước là hình ảnh khu phố mất điện và đột nhiên đèn điện vụt tắt. Trong phút giây đó, nhà thơ mới nhận ra mình đã lãng quên đi quá khứ. Với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu lắng câu thơ đầu đã mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh”
Trăng là một trong những biểu tượng thanh bình tượng trưng cho hồi ức kỉ niệm xưa. Trăng đã cùng người chiến sĩ trải qua biết bao gian truân, khó nhọc, từ hồi nhỏ cho đến khi đã trở thành một chiến sĩ bảo vệ độc lập của dân tộc. Nếu như với Hồ Chí Minh, trăng như người bạn tâm tình với nhà thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Nhưng giờ đây trăng là biểu tượng của quá khứ nhưng không bao giờ lãng quên. Cụm từ “tròn vành vạnh” đã mang đến một sắc thái vẹn nguyên và luôn ghi nhớ mãi không quên. Vẻ đẹp đó tưởng chừng như vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, cái đẹp luôn làm lòng người mê đắm. Vầng trăng là hiện thân của những hồi ức và chắc chắn những hồi ức đó luôn không thay đổi. Những dòng suy nghĩ của nhà thơ là cách gợi dẫn để nhà thơ tự trách mình:
“Kể chi người vô tình”
“Người vô tình” – cụm từ như một lời trách móc đối với chính nhà thơ. Trách khi bản thân mình đã quên đi những hồi ức, những kỉ niệm của tuổi trẻ sao lại quá vô tình, sao lại bị cuộc sống hiện đại nơi phố thị làm lãng quên đi quá khứ. Sự tự trách đó thể hiện vẻ đẹp của nhân cách. Vốn là người luôn biết tôn trọng và nhớ về quá khứ nhưng rồi lãng quên, chỉ khi được ánh trăng thức tình, nhà thơ mới dâng trào cảm xúc:
“Ánh trăng im phăng phắc”
Nếu như khổ thơ trước là “trăng” thì đến khổ thơ này xuất hiện “ánh trăng”. Là biểu tượng của thiên nhiên, của hoà bình, ngoài ra trăng còn cho thấy sự bao dung của tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là phẩm chất cao quý mà chính tác giả muốn xây dựng. Sự im lặng của ánh trăng, chẳng phải là sự bất lực hay buông xuôi mà đó là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với những con người lỡ quên đi quá khứ – một phần của cuộc đời. Kỉ niệm, kí ức – những điều tưởng chừng vô tri, vô giác nhưng lại có linh hồn và sức sống riêng. Con người có thể thay đổi nhưng những kí ức sẽ luôn trường tồn với thời gian, và rồi một thoáng bất chợt trong cuộc sống, ánh trăng lại thức tình người:
“Đủ cho ta giật mình”
Cái giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình của chính mình. Giật mình vì hối hận, vì quên đi những tháng ngày gian khổ đói nghèo mà ân tình ân nghĩa. Chính sự thức tỉnh ấy đã làm cho tác giả phải nhìn nhận lại chính bản thân mình và những người xung quanh. Câu kết của khổ thơ cũng như toàn bài là một bài học nhận thức sâu sắc. Phải chăng, mỗi người trong chúng ta khi đọc đến câu thơ này đều đặt cho chính bản thân mình một câu hỏi? Đó chính là vẻ đẹp của nhân cách trong mỗi chúng ta.
Bằng thể thơ năm chữ được vận dụng linh hoạt sáng tạo cùng giọng điệu tâm tình mà nhẹ nhàng, sâu lắng, bài thơ “Ánh trăng” đã mang đến cho độc giả những phút giây sống chậm lại suy nghĩ về những gì mình đã và đang làm. Và khổ thơ cuối chính là khổ thơ mạng lại dấu ấn đậm nét trong chúng ta. Tình cảm và thái độ ghi nhớ công ơn của những người đã đi trước chính là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Và chính chúng ta cần giữ gìn và phát huy chúng.
suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – mẫu 2
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy – bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Vầng trăng thật sự như một tấm gương soi để người ta thấy được những gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
Đặc biệt là khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lý:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.
Chỉ với một “vầng trăng” – “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm. Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lấy quá khứ để soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mỗi con người.Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm của nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức ám ảnh thật lớn đối với người đọc.
Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.
suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy – mẫu 3
Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về quá khứ.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Những khổ thơ đầu nhà thơ diễn tả về những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Trăng là trời là bể, là đồng là ruộng. Những năm tháng dài đằng đẵng đó đủ để vun đắp nên một tình bạn đẹp khắc sâu vào tâm trí của mỗi người. Thế nhưng sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thuở nào. Đó cũng là đại diện cho quá khứ vẫn trọn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lòng. Ánh trăng dù cho ngàn năm nữa thì vẫn không bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vô tình với nó.
Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ thẹn không thôi. Ông tự nhận mình là một kẻ vô tình. Một kẻ vô tình với quá khứ với người bạn tri kỉ của mình. Vô tình ở đây không phải là cố tình quên đi những kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.
Không hề có trách móc hay dỗi hờn ánh trăng im phăng phắc một sự lặng lẽ đáng sợ. Thế nhưng chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng con người vào sự bộn bề trăm mối. Ánh trăng lúc này không phải đơn cử là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà nó chính là tòa án lương tâm của mỗi người. Sự giật mình của người lính chính là một sự thức tỉnh của lương tri đột ngột. Vầng trăng tuy chỉ yên lặng thôi nhưng sức mạnh của nó đủ khiến lay động một con người sau một cơn mê dài.
Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà tưởng chừng như không thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người còn có suy nghĩ còn biết nhận ra sai lầm thì không bao giờ là muộn cả.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc. Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những thứ đã gắn bó với mình từ hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người còn có lương tâm thì không cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.
Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về quá khứ.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Những khổ thơ đầu nhà thơ diễn tả về những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Trăng là trời là bể, là đồng là ruộng. Những năm tháng dài đằng đẵng đó đủ để vun đắp nên một tình bạn đẹp khắc sâu vào tâm trí của mỗi người. Thế nhưng sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thuở nào. Đó cũng là đại diện cho quá khứ vẫn trọn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lòng. Ánh trăng dù cho ngàn năm nữa thì vẫn không bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vô tình với nó.
Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ thẹn không thôi. Ông tự nhận mình là một kẻ vô tình. Một kẻ vô tình với quá khứ với người bạn tri kỉ của mình. Vô tình ở đây không phải là cố tình quên đi những kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.
Không hề có trách móc hay dỗi hờn ánh trăng im phăng phắc một sự lặng lẽ đáng sợ. Thế nhưng chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng con người vào sự bộn bề trăm mối. Ánh trăng lúc này không phải đơn cử là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà nó chính là tòa án lương tâm của mỗi người. Sự giật mình của người lính chính là một sự thức tỉnh của lương tri đột ngột. Vầng trăng tuy chỉ yên lặng thôi nhưng sức mạnh của nó đủ khiến lay động một con người sau một cơn mê dài.
Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà tưởng chừng như không thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người còn có suy nghĩ còn biết nhận ra sai lầm thì không bao giờ là muộn cả.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc. Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những thứ đã gắn bó với mình từ hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người còn có lương tâm thì không cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.