Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10 – Kết Nối Tri Thức: tại đây
– Thơ: là hình thức tổ chức ngôn từ đặc biệt, tuân theo một mô hình thi luật hoặc nhịp điệu nhất định. Mô hình này làm nổi bật mối quan hệ giữa âm điệu và ý nghĩa của ngôn từ thơ ca. Với hình thức ngôn từ như thế, thơ có khả năng diễn tả được những tình cảm mãnh liệt hoặc những ấn tượng, xúc động tinh tế của con người trước thế giới.
– Thơ trữ tình: là loại tác phẩm thơ thường có dung lượng nhỏ, thể hiện trực tiếp cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
– Nhân vật trữ tình (còn gọi là chủ thể trữ tình) là người trực tiếp bộc lộ rung động và tình cảm trong bài thơ trước một khung cảnh hoặc sự tình nào đó. Nhân vật trữ tình có mối liên hệ mật thiết với tác giả song không hoàn toàn đồng nhất với tác giả.
– Hình ảnh thơ là các sự vật, hiện tượng, trạng thái đời sống được tái tạo một cách cụ thể, sống động bằng ngôn từ, khơi dậy cảm giác (đặc biệt là những ấn tượng thị giác) cũng như gợi ra những ý nghĩa tinh thần nhất định đối với người đọc.
– Vần thơ, nhịp điệu, nhạc điệu, đối, thi luật, thể thơ
+ Vần thơ: sự cộng hưởng, hoà âm theo quy luật giữa một số âm tiết trong hay cuối dòng thơ. Vần có chức năng liên kết các dòng thơ và góp phần tạo nên nhịp điệu, nhạc điệu cĩng như giọng điệu của bài thơ.
+ Nhịp điệu: những điểm ngắt hay ngừng theo chu kì nhất định trên văn bản do tác giả chủ động bố trí. Nhịp điệu chứa đựng sự lặp lại có biến đổi của các yếu tố ngôn ngữ và hình ảnh nhằm gợi ra cảm giác về sự vận động của sự sống và thể hiện cảm nhận thẩm mĩ về thế giới.
+ Nhạc điệu: cách tổ chức các yếu tố âm thanh của ngôn từ để lời văn gợi ra cảm giác về âm nhạc (âm hưởng, nhịp điệu). Trong thơ, những phương thức cơ bản để tạo nhạc điệu là gieo vần, điệp, phối hợp thanh điệu bằng trắc,…
+ Đối cách tổ chức lời văn thành hai vế cân xứng và sóng đôi với nhau về cái ý và lời. Căn cứ vào sự thuận chiều hay tương phản với ý và lời, có thể chia thành hai loại: đối cân (thuận chiều), đối chọi (tương phản).
+ Thi luật: toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ trong thơ như gieo vần, ngắt nhịp, hoà thanh, đối, phân bổ số tiếng trong một dòng thơ, số dòng trong cả bài thơ,…
+ Thể thơ: sự thống nhất giữa mô hình thi luật và loại hình nội dung của tác phẩm thơ. Các thể thơ được hình thành và duy trì sự ổn định của chúng trong quá trình phát triển của lịch sử văn học.
– Lỗi dùng từ và lỗi về trật tự từ trong câu
+ Khi sử dụng tiếng Việt, cần tránh những lỗi cơ bản trong cách dùng từ như lỗi lập từ, lỗi dùng từ không đúng nghĩa, lỗi dùng từ không đúng phong cách.
+ Trong cụm từ hay trong câu tiếng Việt, các từ được sắp xếp theo một trật tự có quy tắc. Cách thức sắp xếp trật tự từ trong câu thể hiện phần nào đặc trưng của tiếng Việt.
+ Khi viết hay nổi, cần tránh các lỗi về sử dụng từ và trật tự từ trong câu để không gây ra sự hiểu nhầm, hiểu sai, đảm bảo mục đích và hiệu quả trong việc truyền đạt thông tin.
Soạn bài: Chùm thơ hai-cư Nhật Bản – Cô Nguyễn Bích Phương (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
* Trước khi đọc
Câu hỏi: Bài thơ ngắn nhất mà bạn từng đọc là bài nào? Điều gì khiến nó được bạn nhớ tới.
– Bài thơ ngắn nhất tôi từng đọc là “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải, một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với 20 tiếng. Điều khiến nó được lưu lại trong tâm trí tôi là ngôn từ rất hàm súc, cô đọng, ẩn chứa nhiều tư tưởng nhân văn.
* Trong khi đọc
1. Hãy hình dung về màu sắc, không khí của khung cảnh được gợi tả trong bài thơ
– Màu sắc: nâu của cành cây khô, đen của con quạ
– Không khí: lạnh lẽo, u ám, ảm đạm
2. Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi ra cho bạn là gì?
– Gợi hình ảnh hoa triêu nhan quấn vào dây gàu để bung nở, gợi ra một sức sống căng tràn của thiên nhiên.
3. Khi nhắc đến “con ốc” và “núi Fu-ji”, người ta thường nghĩ đến những đặc điểm nào của chúng?
– Nhắc đến “con ốc”, người ta thường nghĩ đến sự chậm chạp, lâu la, nhắc đến núi “Fu-ji”, người ta thường nghĩ đến sự cao lớn, mênh mông vô tận.
* Sau khi đọc
Chùm thơ hai-cư Nhật Bản đem đến cho bạn đọc những ấn tượng về hình thức ngắn gọn, giản dị nhưng chan chứa những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Mượn hình ảnh của tự nhiên, vạn vật và bằng cách gợi ta độc đáo, lời ít ý nhiều, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, lẽ sống của con người với chính bản thân mình và cuộc đời.
*Trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài 1: hình ảnh con quạ
– Bài 2: hình ảnh hoa triêu nhan
– Bài 3: hình ảnh con ốc nhỏ
– Điểm chung giữa hình ảnh trung tâm ở 3 bài thơ: đều là những hình ảnh thuộc về thế giới tự nhiên, nhỏ bé và gần gũi với con người.
Câu 2 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Hình ảnh trung tâm: con quạ
– Không gian: cành cây khô
– Thời gian: chiều thu
– Mối quan hệ giữa hình ảnh trung tâm với không gian, thời gian của bài có sự tương đồng với nhau. “Chim quạ” gợi sự tang tóc, buồn bã. “Cành khô” gợi khung cảnh u ám, úa tàn. “Chiều thu” gợi lên sự ảm đạm, tịnh mịch. Các hình ảnh giao hoà tạo nên một bức tranh chiều thu cô tịch, thiếu sức sống, ảm đạm.
Câu 3 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài thơ của Chi-y-ô xoay quanh phát hiện những bông hoa triêu nhan đang quấn lấy dây gàu bên giếng. Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không muốn phá vỡ nên lựa chọn “xin nước nhà bên” để cái đẹp luôn hiện hữu.
Câu 4 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Hình ảnh “con ốc” và “núi Phu-ji” có mối quan hệ trái ngược nhau. Nếu “con ốc” gợi ra một con vật nhỏ bé, chậm chạp thì “núi Phu-ji” lại gợi ra một không gian vô cùng cao và rộng. “Con ốc” ở trạng thái chuyển động nhẹ nhàng, “núi Phu-ji” ở trạng thái tĩnh.
Câu 5 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Khoảnh khắc chiều thu cùng hình ảnh cành cây khô và con quạ khơi gợi lên trong bạn đọc cảm giác cô đơn, nhỏ bé, đượm buồn giữa một không gian trống trải và tĩnh lặng.
Câu 6 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài thơ của Chi-y-ô đã với hình ảnh những bông hoa triêu nhan vương bên giếng, quấn quít bên sợi dây gầu đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Thái độ của tác giả vì không muốn động đến sợi dây, làm ảnh hưởng đến cảnh đẹp mà “xin nước nhà bên” đã cho thấy ý nghĩa triết lý trong cách ứng xử của con người với thiên nhiên: Thiên nhiên chính là cái đẹp và con người cần có thái độ trân trọng những vẻ đẹp của tự nhiên.
Câu 7 (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Hành trình “chậm rì” của con ốc cũng chính là hành trình con người nỗ lực chinh phục những đỉnh cao của cuộc đời. Để đạt được thành công, không có con đường nào nhanh chóng, mỗi bước đi đều phải cẩn thận, nỗ lực và cố gắng hết sức. Những bước đi chậm sẽ giúp chúng ta tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trên đường đời.
*Kết nối đọc – viết
Câu hỏi (trang 46 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1):
Gợi ý
Thơ Hai-cư là một thể thơ truyền thống có vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản, được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của thơ ca thế giới. Một trong những điểm thú vị của thơ Hai-cư chính là ở sự cô đọng, ý tại ngôn ngoại. Tác giả đã hạn chế tối đa về mặt chữ, mỗi bài thơ chỉ gồm ba câu, mỗi câu từ hai đến năm tiếng. Tuy ngôn ngữ ít ỏi là vậy nhưng bài thơ lại chứ đựng những lớp nghĩa sâu xa, thể hiện những tư tưởng nhân văn sâu sắc về con người và cuộc đời. Để khám phá những khoảng trống trong bài thơ, bạn đọc cần liên kết những hình ảnh vốn dĩ tách rời, tìm ra mối liên hệ giữa chúng và lý giải nó. Chính vì sự cô đọng nên mỗi từ ngữ trong thơ hai-cư đều mang theo những ý nghĩa thẩm mĩ độc đáo. Sức sống và sự hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn gợi nhiều cảm xúc, suy tưởng.
Bài giảng: Chùm thơ hai-cư Nhật Bản – Kết nối tri thức – Cô Hoàng Thị Hồng (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
Soạn bài: Thu hứng – Cô Nguyễn Bích Phương (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
*Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 47 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1):
1. Về hình thức, thể thơ Đường luật thường có kết cấu vô cùng chặt chẽ: về số câu trong một bài, số chữ trong một dòng, về cách gieo vần, niêm và đối giữa các vế câu với nhau. Người sáng tác luôn phải tuân theo những quy luật nhất định khi viết thơ Đường luật.
Về nội dung, thơ Đường luật thường đề cập đến những đề tài như tình yêu nước, vẻ đẹp thiên nhiên, tình cảm con người,….
2. Tôi đã từng xa nhà trong một khoảng thời gian tham gia khoá học hè quân đội dành cho lứa tuổi học sinh. Đó là một chuyến đi rất bổ ích, khiến tôi trưởng thành lên rất nhiều. Tôi đã xa nhà trong khoảng một tuần, ngày đầu tiên tôi cảm thấy rất háo hức với khoá học hè. Tuy nhiên đến những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu thấy nhớ nhà, nhớ gia đình. Sau khoá học, tôi cảm thấy yêu và trân trọng gia đình mình nhiều hơn.
*Trong khi đọc
1. Khung cảnh mùa thu được tái hiện trong bài thơ (màu sắc, không khí, trạng thái vận động của sự vật).
– Màu sắc: màu đỏ úa của rừng phong, trắng của sương
– Không khí: tiêu điều, hiu hắt, âm u
– Trạng thái vận động: sóng tung vọt trùm bầu trời, gió mây sà xuống mặt đất
2. Hãy nhận diện phép đối trong cả nguyên tác và dịch nghĩa trong các cặp câu thơ 3-4 và 5-6
Câu thơ |
Phiên âm |
Dịch nghĩa |
3 – 4 |
Ba lãng kiêm thiên dũng >< Phong vân tiếp địa âm |
Sóng tung vọt trùm bầu trời >< gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u |
5 – 6 |
Tùng cúc lưỡng khai >< cô chu nhất hệ Tha nhật lệ >< cố viên tâm (B T T >< T B B) |
Khóm cúc nở hoa đã hai lần >< con thuyền lẽ loi thắt chặt (cái tĩnh >< cái động) Tuôn rơi nước mắt ngày trước – tấm lòng nhớ về vườn cũ (cái cụ thể >< cái trừu tượng) |
3. Âm thanh của tiếng dao thước may áo, tiếng chày đập vải gợi ra không khí gì?
– Âm thanh của tiếng dao thước may áo, tiếng chày đập vải gợi ra không khí sinh hoạt hằng ngày của người dân, báo hiệu một mùa đông lạnh lẽo sắp đến. Mọi người đều đang vội vàng, gấp gáp may áo chuẩn bị chống rét, âm thanh diễn tả sự thổn thức, mong chờ được trở về quê của tác giả.
*Sau khi đọc
Nội dung chính:
Bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ thể hiện nỗi lòng riêng của nhà thơ, chan chứa tâm sự yêu nước, thương đời. Nghệ thuật thơ Đường ở đây đã đạt đến trình độ mẫu mực.
*Trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
– Bố cục:
+ Đề (câu 1,2): Cảnh thu trên cao
+ Thực (câu 3,4): Cảnh thu dưới thấp
+ Luận (câu 5,6): Nỗi nhớ quê hương da diết
+ Kết 9 câu 7,8): Nỗi nhớ nhà, nhớ người thân
– Cách gieo vần:
+Bài thơ chỉ gieo một vần (là vần bằng) ở các câu 1-2-4-6-8. Cuối các câu 1-2-4-6-8 bài Thu hứng lần lượt là các vần bằng: lâm-sâm-âm-tâm-châm
– Luật bằng-trắc
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố viên tâm Hàn y xứ xứ thôi đao xích Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. |
T T B B B T B B B B T T B B B B B T B B T T T B B T T B B T T B B T B B B T T T B B B B T T B B T T T B B T T B |
– Về đối: đối thanh, đối ý ở câu thực và câu luận
Câu thơ |
Phiên âm |
Dịch nghĩa |
3 – 4 |
Ba lãng kiêm thiên dũng >< Phong vân tiếp địa âm |
Sóng tung vọt trùm bầu trời >< gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u |
5 – 6 |
Tùng cúc lưỡng khai >< cô chu nhất hệ Tha nhật lệ >< cố viên tâm (B T T >< T B B) |
Khóm cúc nở hoa đã hai lần >< con thuyền lẽ loi thắt chặt (cái tĩnh >< cái động) Tuôn rơi nước mắt ngày trước – tấm lòng nhớ về vườn cũ (cái cụ thể >< cái trừu tượng) |
Câu 2 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1):
– Bản dịch của Nguyễn Công Trứ
+ Câu đầu tiên, tác giả chưa dịch sát nghĩa từ “điêu thương”- đây là tính từ nhưng lại đóng vai trò làm động từ trong câu thơ. Cần phải diễn đạt được sắc thái tàn phá khắc nghiệt của sương đối với rừng phong.
+ Câu 3: Chữ “thẳm” diễn đạt chưa trọn vẹn nghĩa, nó khiến âm hưởng bài thơ bị kéo xuống
+ Câu 5, khi dịch “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ”, tác giả làm mất từ “lưỡng khai” quan trọng, từ này có ý nghĩa nhấn mạnh vào sự lặp lại
+ Câu 6: “con thuyền buộc chặt mối tình nhà”, tác giả không truyền tải được hết sự trống trải, cô đơn của kẻ li hương trong chữ “cô” phần phiên âm.
– Bản dịch của Khương Hữu Dụng
+Câu 2: “Vu sơn, Vu giáp khí thu dày”, tác giả dịch chưa sát với “khí tiêu sâm” – khí thu hiu hắt, gợi ra một không gian ảm đạm, trầm buồn
+ Câu 4: “Đầu ải mây sà mặt đất bay”, tác giả dịch chưa làm nổi bật được cái âm u nơi mặt đất
+ Câu 6: “Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây”, tác giả dịch mất chữ “cố”, không nổi bật được nỗi nhớ quê xưa
+ câu 8: “Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày”, tác giả dịch mất khoảng thời gian buổi chiều, gợi khoảnh khắc lao động lúc ngày tàn.
Câu 3 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
– Không khí cảnh thu trong 4 câu đầu:
+ Ngọc lộ: Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dầy đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong.
+ Phong thụ lâm: hình ảnh được dùng để miêu tả mùa thu
+ “Vu sơn Vu giáp”: tên những địa danh nổi tiếng ở vùng Quỳ Châu, Trung Quốc, vào mùa thu, khí trời âm u, mù mịt.
+ “Khí tiêu sâm”: hơi thu hiu hắt, ảm đạm
+ Hình ảnh đối lập, phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp)
– Tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa thu vừa mang vẻ dữ dội, hùng tráng vừa xác xơ, tiêu điều. Từ đây, ta thấy được tâm trạng cô đơn, lo âu, bất an của nhà thơ trước thực tại xã hội còn tối tăm mịt mờ.
Câu 4 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
– Các từ ngữ, hình ảnh gợi cảm xúc của nhân vật trữ tình: “tha nhật lệ”, “cô chu”, “cố viên tâm”
=> Nhân vật trữ tình trong trạng thái lẻ loi, cô độc, nhớ nhung quê nhà da diết.
Câu 5 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
– Việc mô tả khung cảnh sinh hoạt của con người ở hai câu thơ kết đã khiến tác giả như nhớ lại cuộc sống lao động đầm ấm, yên vui với những âm thanh giản dị của sự sống. Tuy nhiên, nó lại khiến con người bừng tỉnh trước thực tại và càng gia tăng nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân da diết.
Câu 6 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
– Thu Hứng được sáng tác khi Đỗ Phủ đang lưu lạc tại Quỳ Châu, sống những tháng ngay khốn khó, bệnh tật. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ là nỗi niềm thân phận của cá nhân nhà thơ mà còn là nỗi lòng của biết bao người dân Trung Hoa thời bấy giờ. Sống trong cảnh loạn lạc, nước mất nhà tan, xã hội chưa ngày nào được yên ổn, người dân luôn phải sống trong nỗi bất an, lo sợ, lẻ loi, trống vắng.
Câu 7 (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
Câu thơ nào trong bài cũng thể hiện cảm xúc về mùa thu, nỗi niềm tâm sự của tác giả trong mùa thu. Đúng vậy! Bởi bài thơ được sáng tác theo luật Đường, ngôn ngữ cô đọng, súc tích, ý tại ngôn ngoại. Một đặc trưng trong bút pháp của thơ Đường đó là tả cảnh ngụ tình. Vì vậy, trong thơ, cảnh và tình luôn hoà quyện vào nhau. Đỗ Phủ tả cảnh mùa thu xơ xác, tiêu điều hay chính lòng nhà thơ đang cảm thấy u uất, bất an, lo sợ. Cái vọt lên của sóng, cái sà xuống của mây phải chăng là tâm trạng muốn vùng thoát khỏi thực tại tù túng, tối tăm, mù mịt. Mỗi lời thơ tả cảnh của Đỗ Phủ đều thật chan chứa cảm xúc.
*Kết nối đọc – viết
Câu hỏi (trang 49 SGK Ngữ văn 10 Tập 1):
Gợi ý
Những yếu tố làm nên đặc trưng và sức hấp dẫn của thơ Đường luật và thơ hai-cư có nhiều điểm gần gũi nhau. Tiêu biểu nhất đó là ở sự kiệm lời. Thơ hai-cư và thơ Đường luật đều là những thể loại trữ tình, lời ít ý nhiều. Nhà thơ chú ý tạo nên những khoảng trống giữa bề mặt ngôn ngữ và những lớp nghĩa ẩn sâu bên trong. Nhiệm vụ của bạn đọc là kết nối những mảnh ghép ngôn từ, khám phá những tư tưởng triết lý của nhà thơ thông qua những sáng tạo nghệ thuật. Nếu thơ hai-cư thường biểu hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng mà đậm tính tượng trưng thì thơ Đường luật thường sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng. Cả hai thể loại đều nhằm đến mục đích tả ít, gợi nhiều, tả gián tiếp hơn là trực tiếp, nhờ đó mở ra không gian cho người đọc cảm nhận bài thơ.
Bài giảng: Thu hứng – Kết nối tri thức – Cô Hoàng Thị Hồng (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
Soạn bài: Mùa xuân chín – Cô Nguyễn Bích Phương (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
*Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 50 SGK Ngữ văn 10 Tập 1)
1. Những bài thơ viết về mùa xuân: Rằm tháng giêng (Hồ Chí Minh), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
2. Điều ấn tượng, thích thú ở những bài thơ ấy là đem lại cho bạn đọc một không khí mùa xuân tràn đầy sức sống với những vẻ đẹp của thiên nhiên và sự rộn rã trong lòng người.
*Trong khi đọc
1. Các vần được gieo trong bài thơ
– vàng – sang, mây – ngây, làng – chang chang
2. Những từ ngữ có thể gợi ra nhiều nét nghĩa hoặc nhiều khả năng liên tưởng về âm thanh, hình ảnh
– làn nắng ửng, khói mơ tan, lấm tấm vàng, sột sọt gió, tà áo biếc, cỏ xanh tươi, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, mùa xuân chín, khách xa, bờ sông trắng,….
3. Những kết hợp từ ngữ ít gặp trong lời nói thông thường
– nắng ửng, khói mơ, sột soạt gió, sóng cỏ, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, mùa xuân chín,
*Sau khi đọc
Nội dung chính:
Với màu sắc cổ điển hài hoà với chất dân dã trẻ trung, bình dị, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong sáng, rạo rực, say mê. Qua đó, nhà thơ gửi gắm niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, nỗi nhớ làng quê da diết và bày tỏ nỗi trăn trở trước sự hiện hữu của cái đẹp.
* Trả lời sau khi đọc
Câu 1 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– “mùa xuân” là danh từ kết hợp với “chín” là tính từ. Qua đó, tác giả gợi ra cảnh sắc mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, viên mãn nhất, tràn đầy sức sống nhất. Trạng thái đó đồng nghĩa với việc mùa xuân tươi đẹp đang trôi qua, cái đẹp không thể tồn tại vĩnh hằng, để lại trong nhà thơ nỗi nuối tiếc khôn nguôi.
Câu 2 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Trạng thái “chín” được thể hiện ra các từ: nắng ửng, giàn thiên lý, bóng xuân sang, sóng cỏ xanh tươi, bờ sông trắng, nắng chang chang
Câu 3 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài thơ có những kết hợp từ đặc biệt như:
+ khói mơ tan: trạng thái lan toả của khói và trạng thái mơ của con người được kết hợp với nhau
+ bóng xuân sang: mùa xuân vốn dĩ không thể cảm nhận thành hình khối nhưng nhà thơ dùng cách nói “bóng xuân sang” như một cách hữu hình hoá mùa xuân
+ sóng cỏ: sóng là từ để gợi tả những làn nước nhấp nhô kết hợp với hình ảnh “cỏ” đã gợi ra một thảm cỏ xanh tươi trải dài bất tận
+ tiếng ca vắt vẻo: “tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng lại được tác giả hữu hình hoá cảm nhận bằng thị giác qua cách nói “vắt vẻo”
+ mùa xuân chín: “chín” là từ để chỉ trạng của trái cây vào giai đoạn phát triển đầy đủ nhất, có màu đỏ hoặc vàng và có thể ăn, được tác giả kết hợp sử dụng để chỉ trạng thái mùa xuân vào lúc viên mãn nhất.
– Ngôn từ trong bài thơ đã gợi lên một khung cảnh mùa xuân rực rỡ, tràn ngập ánh sáng, tươi đẹp, căng tràn sức sống.
Câu 4 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài thơ được ngắt nhịp 4/3, đặc biệt có những câu thơ tác giả đặt dấu chấm, phẩy để nhấn mạnh hơn vào nhịp điệu của bài:
“Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”
“Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
– Cách gieo vần: vàng – sang, trắng – nắng, chang – chang. Các vần kết thúc bằng âm “ng” tạo ra sự ngân nga, vang vọng mãi của bài thơ.
– So sánh với một bài thơ trung đại:
|
Thu hứng – Đỗ Phủ |
Mùa xuân chín – Hàn Mạc Tử |
|
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm. |
Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột sọt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang. |
Ngắt nhịp |
4/3 |
4/3 |
Gieo vần |
Gieo vần “âm” ở cuối các câu 1,2,4 |
Gieo vần “ang” cuối các câu 2,4 (vần “tan” trong câu 1 cũng có nét tương đồng với vần “vàng, sang” ở câu 2,4) |
→ Nhận xét: Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử có cách ngắt nhịp và gieo vần chặt chẽ giống với thể thơ Đường luật. Điều này tạo nên chất cổ điển trong bài thơ.
Câu 5 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Con người trong bài thơ hiện qua những hình ảnh: cô thôn nữ, tiếng ca vắt vẻo, ai ngồi dưới trúc, khách xa, chị ấy
– Hình ảnh gắn với nhân vật trữ tình là “khách xa”
– Đối tượng quan sát trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình là làng quê và “chị ấy”. Đó có thể là một người ở làng quê xưa, cũng có thể là một cô bạn gái trước của “khách”.
Câu 6 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Những hình ảnh thiên nhiên rạo rực, tràn đầy sức sống, nhịp điệu bài thơ nhanh, uyển chuyển, cách gieo vần linh hoạt đã góp phần thể hiện khao khát giao hoà với cuộc đời một cách mãnh liệt của nhà thơ, nỗi nhớ làng quê da diết, niềm trân trọng cái đẹp và nuối tiếc khi không thể giữ cái đẹp tồn tại vĩnh hằng.
Câu 7 (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Qua bài thơ “Mùa xuân chín”, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh kiệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Thông qua bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời. Nhân vật trữ tình ẩn mình trong vai trò là một vị “khách xa” bày tỏ nỗi nhớ làng, nhớ quê da diết và nỗi khắc khoải, lo âu, trăn trở trước những biến thiên của cuộc đời.
* Kết nối đọc – viết
Câu hỏi (trang 52 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Gợi ý
Với màu sắc cổ điển hài hoà với chất dân dã trẻ trung, bình dị, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong sáng, rạo rực, say mê. Tác phẩm gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề “mùa xuân chín”. Với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, Hàn Mặc Tử đã hữu hình hoá mùa xuân, khiến nó dường như có màu sắc và có cả hương sắc. Đây chính là kết hợp từ tài tình của tác giả. Nhà thơ đã dùng trạng thái “chín” của trái cây để nói về cái trọn vẹn, viên mãn, tươi đẹp nhất của mùa xuân. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống da diết và khát khao giao cảm mãnh liệt. Bởi chính lúc “mùa xuân chín” nhất, đẹp nhất thì tác giả cũng nhận ra cái đẹp không thể tồn tại mãi. Nhà thơ bộc lộ niềm nuối tiếc khi không thể níu giữ vẻ đẹp vĩnh hằng, muốn giao hoà với vẻ đẹp của đất trời.
Bài giảng: Mùa xuân chín – Kết nối tri thức – Cô Hoàng Thị Hồng (Giáo viên SachGiaiBaiTap)
*Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 53 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Những điều thú vị: hình ảnh thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, cảm xúc trong thơ dồi dào, nhịp điệu thơ giàu tính nhạc.
– Những điều khó khăn khi tiếp cận một bài thơ trữ tình
+ Không thể cắt nghĩa đầy đủ một số hình ảnh biểu tượng
+Khó khăn trong việc liên kết nội dung bài thơ và mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình
*Trong khi đọc
1. Trước khi đọc tiếp văn bản của Chu Văn Sơn, hãy dừng lại đọc bài thơ của Lưu Trọng Lư và liệt kê những yếu tố hình thức ở bài thơ có thể gây ấn tượng và liên tưởng mạnh ở người đọc.
– Về hình thức, không phải tất cả các chữ cái đứng đầu đều được viết hoa mà bài thơ chỉ viết hoa chữ cái đứng đầu câu ở một số dòng thơ. Bài thơ chỉ gồm 2 khổ nhưng số câu thơ trong mỗi khổ không đều nhau, một khổ 6 dòng và một khổ 4 dòng.
2. Trong đoạn (2) và (3) thao tác lập luận chính mà tác giả sử dụng là gì?
– Thao tác lập luận so sánh. Tác giả so sánh voeejc thi nhân xưa luôn tả thiên nhiên ở trạng thái tĩnh lặng và Thơ mới lại nhìn thiên nhiên ở cái xôn xao.
3. Xác định câu chủ đề của đoạn (4)
– “Tiếng thu là cả một bản hoà âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hoà điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân”.
4. Từ đoạn (5) đến đoạn (7), tác giả tập trung phân tích những yếu tố hình thức nào của bài thơ?
– Đoạn 5: tính nhạc
– Đoạn 6: cấu trúc
– Đoạn 7: Gieo vần, nhịp điệu
=> Từ đoạn 5 đến đoạn 7, tác giả tập trung vào nghệ thuật của bài thơ (tiếng thơ)
5. Từ đoạn (8) đến đoạn (12) tác giả tập trung phân tích khía cạnh gì của bài thơ?
– Đoạn 8: đề cập về tiếng thu
– Đoạn 9: khái quát về tiếng thu
– Đoạn 10: cái xao xác và xào xạc của tiếng thu
– Đoạn 11: cái thổn thức, rạo rực của tiếng thu
– Đoạn 12: sự hoà điệu giữa tiếng thu và tiếng thơ
=> Từ đoạn 8 đến đoạn 12, tác giả tập trung vào nội dung của bài thơ (tiếng thu)
6. Xác định câu chủ đề của đoạn (13)
– Đó vừa là trạng thái của thiên nhiên, tạo vật vừa là điệu hồn của thi sĩ và của thời đại cộng hưởng trong một cấu trúc ngôn từ thi ca tinh vi và đẹp đẽ.
*Sau khi đọc
– Qua văn bản “Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư”, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đã phát hiện cái hài hoà của tiếng thơ và tiếng thu tạo nên một bản hoà âm độc đáo trong thơ Lưu Trọng Lư. Bằng cách lập luận chặt chẽ, tài tình cùng cách bình luận giàu cảm xúc, tác giả đã làm nổi bật một cấu trúc ngôn từ thi ca tinh vi và đẹp đẽ.
*Trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Tiếng thơ: tính nhạc, cấu trúc, gieo vần và nhịp điệu
– Tiếng thu: thổn thức, rạo rực, xào xạc
Câu 2 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Trình tự bài viết đi từ “tiếng thơ” đến “tiếng thu”
– Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là cả một bản hoà âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hoà điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân
Câu 3 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Bài thơ được tổ chức và triển khai vô cùng chặt chẽ, hợp lý. Mở đầu, tác giả dẫn dắt vào bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, sau đó so sánh quan niệm về thiên nhiên xôn xao và tĩng lặng của những bậc thi nhân xưa và những nhà Thơ mới, từ đó làm nổi bật hồn thơ của Lưu Trọng Lư. Tiếp theo, tác giả đưa ra nhận định khái quát về tiếng thu và phân tích các khía cạnh của “tiếng thơ” và “tiếng thu”, từ đó chỉ ra sự hài hoà, gắn kết giữa “tiếng thơ”, “tiếng thu”. Kết thúc bài viết, tác giả đánh giá về giá trị của bài thơ.
Câu 4 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Sự khác biệt lớn nhất là: thơ cổ điển miêu tả thiên nhiên ở trạng thái tĩnh, yên bình, thanh vắng. Thơ mới miêu tả thiên nhiên ở trạng thái xôn xao.
– Nguyên nhân: Các nhà thơ cổ điển nhìn thiên nhiên bằng cách nhìn chiêm nghiệm, vốn xem tĩnh là gốc của động, là gốc của sự vận động trong tạo vật. Các nhà Thơ mới muốn dò la cái sự sống tiềm tàng chất chứa bên trong lòng tạo vật.
Câu 5 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Khi phân tích ngôn từ trong bài “Tiếng thu”, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn thường xuyên sử dụng thao tác phân tích, chứng minh và bình luận.
– Thao tác phân tích giúp nhà thơ phân tách nhỏ đối tượng thành các luận điểm: nhạc tính, cấu trúc, gieo vần, nhịp điêu. Thao tác chứng minh giúp nhà thơ lựa chọn những dẫn chứng, từ ngữ phù hợp để chứng minh cho các luận điểm. Và thao tác bình luận giúp nhà thơ đưa ra những đánh giá, nhận định sâu sắc về luận điểm đó. Đây đều là những thao tác lập luận vô cùng quan trpngj khi cảm thụ giá trị thẩm mĩ của ngôn từ thơ.
Câu 6 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Sức hấp dẫn của một bài thơ nằm ở: âm điệu của thơ (tính nhạc, bố cục, nhịp điệu, gieo vần) và tư tưởng chủ đề của thơ.
* Kết nối đọc – viết
Câu hỏi (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Gợi ý tham khảo
Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng nhận định: “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi”. Quả đúng là như vậy, sức gợi trong mỗi vần thơ làm nên vẻ đẹp của thơ ca, giá trị thẩm mĩ của ngôn từ nghệ thuật. Thơ ca đem đến cho bạn đọc sự say mê, lôi cuốn trong vần và nhịp, tạo nên những đợt sóng ngôn từ giàu tính nhạc. Thơ ca với sức gợi mạnh mẽ đã khơi lên trong lòng bạn đọc những đợt sóng dạt dào của cảm xúc. Mặc dù được đặt trong một khuôn khổ nhất định nhưng thơ ca lại mở ra một thế giới tưởng tượng rộng lớn, không giới hạn. Ngôn ngữ thơ chính là phương tiện giúp người thi sĩ kết nối với bạn đọc, cùng khám phá cánh cửa nghệ thuật và những tư tưởng cảm xúc được nhà thơ gửi gắm. Chính vì vậy, khi khám phá một bài thơ, hãy cảm nhận lớp bề mặt ngôn từ và dần dần khai thác những khoảng trống ẩn sau được nhà thơ cất giấu sau lớp ngôn từ đó. Đó chính là “ vẻ đẹp của thơ ca”.
Câu 1 (trang 58 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
a. Lỗi lặp từ “nhà thơ”
Cô-ba-y-a-si Ít-sa là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thơ hai-cư Nhật Bản.
b. Sử dụng từ “cũng như” không hợp nghĩa
Đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung của các bài thơ hai-cư rất đa dạng, khác nhau.
c. Cách dùng từ “thi phẩm” (tác phẩm thơ) lặp nghĩa với từ “bài thơ”
“Thu hứng” là một trong những thi phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ.
d. Sử dụng từ “mượn” không đúng nghĩa
Nhà thơ đã dùng trí tưởng tượng của mình để tái hiện bằng ngôn từ một khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống.
e. Lỗi dùng từ “tri thức” (những hiểu biết về sự vật, hiện tượng…) không đúng nghĩa
Được sinh ra trong một gia đình trí thức, từ nhỏ, nhà văn X đã là một cậu bé say mê đọc sách.
g. Lỗi dùng từ không đúng nghĩa. “Nhân vật trữ tình” trong bài không phải là người phụ nữ
Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử kết lại bằng hình ảnh người phụ nữ nhọc nhằn gánh thóc trên bãi cát trắng.
h. Lỗi dùng từ không đúng phong cách “rất ư bất ngờ”
Hình ảnh hoa triêu nhan vướng dây gàu khiến nhân vật trữ tình trong bài thơ của Chi-ô rất bất ngờ.
Câu 2 (trang 59 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Những câu mắc lỗi về sắp xếp trật tự từ trong câu và cách sửa:
a. Một bộ phận đông đảo độc giả đã không cảm nhận được cái mới ngay trong thơ Hàn Mặc Tử.
c. Nói chung, người đọc thơ trữ tình cần quan tâm đến mạch cảm xúc hơn là mạch sự kiện của bài thơ.
d. Hình ảnh đời thường xuất rất nhiều hiện trong thơ hai-cư Nhật Bản
e. Thơ Đường luật mặc dù chặt chẽ bố cục nhưng vẫn có những khoảng trống khơi gợi liên tưởng.
g. Điều làm người đọc thích thú ở bài thơ này là cách gieo vần độc đáo.
h. Trong bài thơ “Tiếng thu”, các từ láy tượng thanh đóng vai trò quan trọng.
i. Nhà thơ lãng mạn cho phép giải phóng cảm xúc của mình một cách rất phóng khoáng.
Câu 3 (trang 60 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– HS tự đọc lại bài viết của mình và tìm lỗi sai
Câu 4 (trang 60 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
1. Lỗi sai dấu câu, dùng từ không đúng nghĩa
“Sau khi kết thúc Đại hội điểm Ban Thường vụ tổ chức họp đánh giá, rút kinh nghiệm phát huy những việc làm tốt, chỉ ra những tồn tại cần khắc phục để rút kinh nghiệm cho các chi bộ, đảng bộ đại hội sau”
(Tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng bộ – báo Hànộimới, ngày 17/6/2015).
=> Sửa: “Sau khi kết thúc Đại hội điểm, Ban Thường vụ tổ chức họp đánh giá, rút kinh nghiệm, phát huy những việc làm tốt, chỉ ra những nhược điểm cần khắc phục để rút kinh nghiệm cho các chi bộ, đảng bộ đại hội sau”
2. Lỗi dùng sai từ
“ Mỗi người có một yếu điểm khác nhau và cái tài, cái duyên khác nhau”
(Lệ Rơi phản pháo Đàm Vĩnh Hưng, báo Việt Nam Net, ngày 9/6/2015)
=> Sửa: Mỗi người có một điểm yếu khác nhau và cái tài, cái duyên khác nhau.
Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. Mặt khác, kiểu bài này cũng vẫn khuyến khích người viết thể hiện những rung cảm và tưởng tượng của mình khi chiếm lĩnh bài thơ.
Yêu cầu
– Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).
– Chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, …)
– Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh.
Phân tích bài viết tham khảo
Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)
– Luận điểm 1: Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu bài thơ
– Luận điểm 2: Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ
– Luận điểm 3: Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mĩ mà các phép tu từ này gợi ra
– Luận điểm 4: Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ
– Luận điểm 5: Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ.
*Trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Cách cảm nhận phân tích bài thơ theo trình tự tuyến hình ảnh dọc bài thơ, trình tự câu thơ, khổ thơ giúp người đọc có thể theo dõi mạch cảm xúc bài thơ theo một trật tự tuyến tính, không bỏ sót những hình ảnh, từ ngữ quan trọng. Đây là cách phân tích dễ đọc, dễ hiểu và dễ quan sát đối với bạn đọc.
Câu 2 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Trong bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là chỉ ra được những đặc sắc nghệ thuật của bài, bao gồm: từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh,…
Câu 3 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Người viết đánh giá: “Mùa xuân xanh” là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hoà giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi. Những giá trị nhân bản ấy lại được thể hiện bằng một thứ ngôn từ thơ ca tự nhiên, giản dị nhưng vẫn có tính hiện đại.
– Đây là một đánh giá vô cùng thuyết phục bởi nó được đặt ở kết bài, tác giả nêu ra những khái quát chung nhất về bài thơ qua những luận điểm đã phân tích ở trên. Nội dung bài thơ “niềm vui sống, sự chan hoà giữa con người với tạo vật, khúc dạo đầu của tình yêu” được chứng minh qua hệ thống “ngôn từ thơ ca tự nhiên, giản dị mà hiện đại” với các luận điểm rõ ràng, luận chứng thuyết phục đã được tác giả đưa ra.
*Thực hành viết
1. Chuẩn bị viết
– Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó.
+ Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử
– Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ bạn sẽ phân tích, đánh giá
2. Tìm ý, lập dàn ý
a. Tìm ý
– Đọc lại bài thơ đã lựa chọn. Có thể đọc thầm hoặc đọc thành tiếng để cảm nhận đầy đủ hơn về âm điệu, nhịp điệu của nó. Chú ý những cách diễn đạt lạ, có thể lần đầu mình bắt gặp và những hình ảnh gây ấn tượng. Sau khi đọc, hãy suy nghĩ vì sao bài thơ lại có những cách tổ chức và kết hợp ngôn từ đặc biệt như vậy?
+ Nhan đề bài thơ “Mùa xuân chín”
+ Nhịp điệu nhanh, thể hiện âm điệu thiết tha, da diết
+ Những cách kết hợp từ mới lạ: khói mơ, sột soạt gió, sóng cỏ, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, mùa xuân chín,…
– Thử liên kết âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ và chú ý xem mạch liên kết này có thể đem đến cho bạn sự bất ngờ nào trong cảm xúc, liên tưởng và nhận thức.
+ Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân. – Khi phân tích nội dung nghệ thuật của bài thơ, chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.
– Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.
+ Điểm độc đáo của bài thơ là những hình ảnh tượng trưng siêu thực đầy huyền ảo
– Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó.
b. Lập dàn ý
– Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,….) và nêu các vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
– Thân bài
+ Mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao…)
+ Sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,…)
+ Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác)
– Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận.
Gợi ý dàn ý bài văn nghị luận về bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)
I – Mở bài
– Giới thiệu Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, theo đuổi chủ nghĩa tượng trưng siêu thực
– “Mùa xuân chín” lag một sáng tác của Hàn Mạc Từ trích trong tập “Đau thương” (1938)
II – Thân bài
1. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình
– Mạch cảm xúc bài thơ đi từ bức tranh ngoại cảnh đến bức tranh tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân.
– Nhan đề “mùa xuân chín”
2. Cảnh xuân
– Nhà thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ, tươi đẹp, tràn đầy sức sống
+ Dấu hiệu báo xuân sang: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh, tà áo biếc, giàn thiên lý
+ Những kết hợp từ độc đáo: nắng ửng, khói mơ tan, sóng cỏ, đám xuân xanh
+ Nghệ thuật đảo ngữ “sột soạt gió trêu tà áo biếc”
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang”, “tiếng ca vắt vẻo”
=> Khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả mà đằm thắm yêu thương.
3. Tình xuân
– Nhà thơ thể hiện nỗi nhớ quê, niềm khát khao giao cảm với cuộc đời
+ Niềm vui của con người khi xuân đến: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
+ Tình yêu đời, khao khát giao hoà với cuộc đời: “Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây”
+ Nỗi nhớ làng quê da diết: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Lòng trí bâng khuâng sự nhớ làng”.
4. Nét hấp dẫn, độc đáo riêng của bài thơ
– So sánh “Mùa xuân chín” với thơ Đường, từ đó làm rõ tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ.
III – Kết bài
– Khẳng định giá trị thẩm mĩ, tư tưởng của bài thơ
*Viết
Bài viết tham khảo
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,…) thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
*Chỉnh sửa và hoàn thiện
– Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra
– Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm
– Chỉnh sửa các lỗi về chính tả và ngữ pháp
Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá … (cả ba sách)
Yêu cầu
– Cung cấp được các thông tin chung về bài thơ một cách ngắn gọn: tên bài thơ, tác giả, đề tài, thì thơ
– Làm rõ được niềm hứng thú của bản thân đối với những nét đặc sắc về nội dung và hình thức của một tác phẩm thơ.
– Nêu lên quan điểm cá nhân về vấn đề thuyết trình, thuyết phục được người nghe và đặt câu hỏi để mời gọi những thảo luận xa hơn.
– Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng đối với một tác phẩm thơ.
1. Chuẩn bị nói và nghe
a. Chuẩn bị nói
* Lựa chọn đề tài: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)
* Tìm ý và sắp xếp ý
– Nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống
+ Cảm xúc trong lòng người: rạo rực trong tình yêu, nuối tiếc trước cái đẹp, nỗi nhớ làng quê
– Nghệ thuật
+ Cổ điển: những điểm tương đồng với thể thơ Đường luật (thể thơ, nhịp điệu, gieo vần)
+ Hiện đại: ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực
– Đánh giá về thành công, giá trị, tầm ảnh hưởng của tác phẩm đối với bản thân
*Xác định từ ngữ then chốt
Có thể sử dụng các cụm từ phù hợp với kiểu bài nói này như: Về tác phẩm này, tôi xin tập trung nói về vấn đề, … Ấn tượng nổi bật nhất của tôi về tác phẩm là… Đó là lí do không thể không nói đến khi lí giải sức hấp dẫn của tác phẩm này…
*Phương tiện hỗ trợ
– Chuẩn bị bài trình chiếu Powerpoint với các thông tin chắt lọc (có thể triển khai các luận điểm thành gạch đầu dòng, dùng các kí hiệu để nhấn mạnh những chủ ngữ trọng tâm đã được xác định ở trên), cần cân nhắc về số lượng slide sử dụng. Có thể sử dụng các kênh âm thanh, kênh hình ảnh (lưu ý: hình ảnh phải tương thích với bài thơ đã chọn. Chẳng hạn với bài Mùa xuân xanh, nên chọn minh họa bằng những hình ảnh mùa xuân gắn liền với nông thôn, đồng quê).
– Người nói cũng có thể chuẩn bị văn bản tác phẩm thơ sẽ thuyết trình để cung cấp cho người nghe trước khi trình bày bài nói.
b. Chuẩn bị nghe
– Tìm hiểu trước về vấn đề thảo luận cách sử dụng, xem xét các tri thức ngữ văn, đọc các tài liệu mà người nói có thể đã chuẩn bị và cung cấp
– Chuẩn bị tâm thế là nghe và đối thoại với người thuyết trình, chú ý theo dõi các người thuyết trình phân tích từ ngữ, hình ảnh, cách sử dụng thao tác phân tích.
2. Thực hành nói và nghe
Người nói |
Người nghe |
-Mở đầu: giới thiệu ngắn gọn về bài thơ, có thể sử dụng nhiều cách dẫn khác nhau để tạo không khí cho giờ học. (Ví dụ với bài thơ Mùa xuân xanh, có thể đặt câu hỏi cho người nghe như: mùa xuân là nguồn cảm hứng muôn thuở của thi ca. Có lẽ nhà thơ nào cũng ít nhất một lần từng viết về mùa xuân. Trong thơ ca Việt Nam, các bạn có biết nhà thơ nào viết nhiều nhất về mùa xuân không?) Đây không phải là yêu cầu bắt buộc nhưng để tránh nói mà như đọc, người nói cần khơi gợi được sự tương tác từ người nghe. Lưu ý: có thể chỉ cần chọn một phương diện nào đó về tư tưởng, tình cảm hoặc hình thức nghệ thuật của bài thơ mà mình thấy tâm đắc để thuyết trình. -Triển khai: trình bày lần lượt các thông tin có trong bài viết theo hình thức tóm lược, kết hợp nhịp nhàng với việc trình chiếu PowerPoint (nếu có). Dành nhiều thời gian hơn để nói về những giá trị nổi bật của bài thơ mà mình cảm nhận được. Nên nhấn mạnh các thao tác mình đã sử dụng để phát hiện giá trị thẩm mỹ hay tư tưởng trong bài thơ liên tưởng, đối lập. Với bài thuyết trình về bài thơ Mùa xuân xanh, cần nhấn mạnh các phương diện: (1) nhan đề, (2) mạch thơ, (3) nhịp điệu, (4) “mùa xuân xanh”: truyền thống và hiện đại. Có thể coi đây là các mục lớn để thiết kế slide trong trường hợp người thuyết trình sử dụng phương tiện trình chiếu. -Kết luận: khái quát lại những điều mình cảm nhận cũng như đánh giá về giá trị của bài thơ trên các phương diện hình thức và nội dung. Có thể kết bài bằng những câu khuyến khích người nghe chia sẻ những góc nhìn khác, phát hiện khác với bài thơ. |
Trong khi nghe bản thuyết trình, cần: – Có thái độ tôn trọng, đặc biệt quan tâm đến cảm xúc của người thuyết trình. – Ghi chép những ý tưởng trong bài thuyết trình đã khiến mình thực sự thấy hứng thú, những điểm bạn còn băn khoăn, muốn trao đổi. – Chú ý đến phong thái của người thuyết trình (ví dụ: sự tự tin, khả năng điều tiết giọng nói, ngôn ngữ, cử chỉ,…) |
*Bài nói mẫu tham khảo
Chào mọi người, mình là …………… Hôm nay, mình trong vai trò là một nhà báo, mình đến từ toà soạn báo Phong Hoá. Chắc mọi người đều biết đây là tờ báo vô cùng nổi tiếng trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam thời bấy giờ. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu với các bạn một nhà thơ với phong cách vô cùng kì bí, độc và lạ, các bạn hãy cùng mình khám phá nhé.
Không biết trong bốn mùa, các bạn thích mùa nào nhất? Mỗi khi vào mùa đó, bạn thường cảm thấy như thế nào? Với tôi, mùa xuân có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong năm. Chúng ta đã từng nghe “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, nhưng không biết các bạn đã ai từng nghe đến “Mùa xuân chín”? Đó là tên một thi phẩm của người với phong cách vô cùng kì bí, độc đáo và mới lạ mà mình muốn giới thiệu với các bạn. Hàn Mặc Tử.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với tôi bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt: từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ sắc thu đến tình thu, từ niềm say mê rạo rực đến nỗi bâng khuâng, xao xuyến, từ hiện tại về quá khứ.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao!
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Phần giới thiệu của tôi đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đề đạt. Tôi rất mong có thể trao đổi và lí giải những băn khoăn của mọi người.
3. Trao đổi
Người nghe |
Người nói |
– Chia sẻ những điểm bạn thấy hợp lý và hấp dẫn trong bài thuyết trình. – Nêu những điểm còn gây băn khoăn ở bài thuyết trình, góp ý, bổ sung một số nội dung giúp bài nói hoàn thiện hơn. Có thể dựa vào những tri thức ngữ văn trong bài để trao đổi về nội dung và các thao tác phân tích của người nói. – Đưa ra góc nhìn khác hay cách cảm thụ khác của mình đối với bài thơ. – Có thể đặt một số câu hỏi để người nói chia sẻ thêm những cảm xúc về bài thơ |
– Trả lời những thắc mắc từ phía người nghe – Thể hiện thái độ tiếp thu chân thành đối với những đóng góp xác đáng, nghiêm túc. – Tự đánh giá phần trình bày của mình và chia sẻ thêm về cách trình bày đã lựa chọn. – Phản hồi và trao đổi với các ý kiến khác với tinh thần tôn trọng và cầu thị. Lưu ý: cả người nói và người nghe cùng bổ sung những yêu cầu phải đảm bảo khi giới thiệu, đánh giá với một tác phẩm thơ. |
– Trao đổi trực tiếp hoặc sử dụng bảng sau để đánh giá phần trình bày của người nói
Soạn bài Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật … (cả ba sách)
Câu 1 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp của thơ ca là sự tinh tế của ngôn từ nghệ thuật. Bởi ngôn từ là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tác và truyền tải những tư tưởng nghệ thuật. Ngoài ra, vẻ đẹp của thơ ca còn nằm ở nhịp điệu, cách gieo vần, cách sáng tạo hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, giọng điệu thơ,….
Câu 2 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Chủ đề (1): Tại sao nên đọc thơ?
– Đọc thơ giúp:
+ Phát triển khả năng tư duy, kết nối ngôn ngữ và cảm xúc
+ Làm phong phú trí tưởng tượng, làm giàu vốn cảm xúc
+ Rèn luyện khả năng ngôn ngữ, đặc biệt là những ngôn từ nghệ thuật
+ Phát huy năng lực cảm thụ
+ Giúp thư giãn tinh thần
Chủ đề (2): Thế nào là một bài thơ hay?
– Một bài thơ hay có những yếu tố:
+ Giàu cảm xúc
+ Hình thức độc đáo
+ Ngôn từ tinh tế, mới lạ
+ Tư tưởng nghệ thuật sâu sắc
+ Chứa đựng phong cách nghệ thuật của người sáng tác
Câu 3 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Những bài thơ cùng đề tài mùa xuân
+ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử): bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống cùng tâm hồn khát khao giao cảm với cuộc đời của nhà thơ.
+ “Mùa xuân xanh” (Nguyễn Bính): sức sống mùa xuân đậm chất “chân quê”, niềm vui sống, sự chan hoà giữa con người với tạo vật.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải): bức tranh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người, thể hiện những ước nguyện cống hiến khiêm nhường mà cao đẹp của nhà thơ.
+ “Nguyên tiêu” (Hồ Chí Minh): bức tranh thiên nhiên mùa xuân nơi núi rừng tràn ngập sức sống, thi vị, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan và ý thức trách nhiệm với dân tộc của Bác.
Câu 4 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
– Khi cảm nhận và phân tích thơ ca cần lưu ý:
+ Đặc trưng thể loại thơ ca: Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, Thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng, Tính cá thể hoá của tình cảm trong thơ, Chất thơ của thơ.
+ cần biết rõ hoàn cảnh sáng tác bài thơ, tên tác giả, phong cách nghệ thuật của tác giả.
+ Đọc kỹ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, cảnh vật,.. Đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng tưởng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từ ngữ, chi tiết, vần điệu,… mới cảm nhận được ý thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình.
+ Từ những câu thơ đẹp, ý thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình, hãy nhìn xa và lùi lại để lý giải, đánh giá toàn bài thơ về cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Bài thơ có nét gì độc đáo, sáng tạo gì,…
Câu 5 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Mùa thu là một đề tài xuất hiện nhiều trong thi ca, là nguồn cảm hứng dồi dào đối với người nghệ sĩ. Mùa thu không chỉ gợi cảnh vật mà còn gợi những sắc thái trong lòng người. “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là một bài thơ như vây. Được sáng tác năm 1977 – sau khi đất nước vừa bước ra từ cuộc kháng chiến hào hùng, khốc liệt, “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã bày tỏ những chiêm nghiệm của tác giả về con người và cuộc đời.
Nhan đề gây ấn tượng với bạn đọc bởi biện pháp đảo ngữ: “Sang thu”. Tác giả viết “Sang thu” chứ không phải “Thu sang” nhằm nhấn mạnh khoảnh khắc giao mùa mong manh từ hạ sang thu. Cái khoảnh khắc ấy khiến cho lòng người xao xuyến. Không chỉ thiên nhiên, đất trời đang vào thu mà dường như đó cũng là cái sang thu của con người, của cuộc đời.
Khổ thơ đầu là những cảm nhận tinh tế của tác giả về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Đặt từ “bỗng” ở đầu khổ thơ, tác giả cho thấy, mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hẹn trước. Những tín hiệu báo mùa thu đã về được gợi ra qua hình ảnh “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Tín hiệu mùa thu đầu tiên được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác – “hương ổi”, một mùi hương thơm dịu, bình dị, thân thuộc của làng quê Việt Nam. Mùa thu đến đã không chỉ được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác mà còn bằng cả xúc giác. “Gió se” là gió khô, hơi lành lạnh cũng là tín hiệu đặc trưng nhất báo thu về. Hương ổi nồng nàn trong làn gió se, lan tỏa khắp không gian như báo hiệu mùa thu đang đến. Hương ổi không hòa quyện trong gió mà lan tỏa một cách mãnh liệt – “phả vào trong gió se”. Động từ “phả” nhằm thể hiện sức sống mạnh mẽ, tỏa hương ra từng luồng khiến những tín hiệu mùa thu càng trở nên rõ nét. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Làn sương được nhân hóa qua từ láy “chùng chình” như cố ý đi chậm lại bởi còn lưu luyến, vấn vương mùa hạ. Với cách quan sách độc đáo, người đọc có thể cảm nhận tâm hồn tinh tế và tình yêu thiên nhiên của nhà thơ. Mùa thu dường như đến quá đột ngột và bất ngờ nên dù vui sướng trước tín hiệu mùa thu nhưng nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Trước phút giây giao mùa đầy ngỡ ngàng, nhà thơ trở nên bối rối, xao xuyến trong chính tâm hồn mình. Qua đó, ta thấy bức tranh thiên nhiên vào thu đã hiện lên thật sống động của cảm nhận của người nghệ sĩ tinh tế, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời.
Khổ thơ thứ hai chính là những cảm nhận về sự chuyển biến của thiên nhiên đất trời trong cái nhìn viễn cảnh:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã mở ra một không gian cao rộng với những nét hữu hình cụ thể: dòng sông dềnh dàng, đàn chim vội vã và đám mây mùa hạ. Dòng sông được nhân hóa qua từ “dềnh dàng” gợi sự chậm chạp, thong thả, mềm mại như muốn được nghỉ ngơi. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của con người như chậm lại để ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập với trạng thái dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim. Nghệ thuật nhân hóa khiến hình ảnh đàn chim trở nên thật sống động. Dường như chim cũng tinh tế như con người, cảm nhận được cái giao mùa thầm lặng đang đến mà nhanh chóng bay về phương nam tránh rét. Nhưng sự “vội vã” ấy cũng chỉ mới bắt đầu bởi thu cũng chỉ mới chớm đến với đất trời. Hình ảnh được sáng tạo độc đáo, gợi cảm nhất trong bài thơ có lẽ chính là hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mềm mỏng, lững lờ trôi tựa như tấm khăn voan trắng xóa vắt ngang qua bầu trời xanh. Bầu trời ấy một nửa vẫn còn là mùa hạ, một nửa đã nghiêng mình sang thu. Đám mây cũng được nhân hóa như mang tình cảm, suy nghĩ của con người. Cũng giống như làn sương “chùng chình”, con sông “dềnh dàng”, đám mây “vắt nửa mình” như còn dùng dằng, bịn rịn, quyến luyến với mùa hạ. Nhà thơ đã mượn cái hữu hình là đám mây để gợi ra cái vô hình là khoảnh khắc giao mùa. Qua cách diễn tả độc đáo ấy, đám mây hiện lên như một cầu nối giữa mùa hạ và mùa thu. Bằng những cảm nhận vô cùng tinh tế, Hữu Thỉnh đã diễn tả chính xác cái ranh giới mong manh hư ảo trong khoảnh khắc giao mùa.
Kết thức bài thơ “Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi gắm những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Từ mùa thu của thiên nhiên đất trời, tác giả kết thúc với hình ảnh mùa thu trong tâm tưởng con người. Vẫn là “nắng, mưa, sấm”-những hiện tượng đặc trưng của mùa hạ nhưng mức độ đã dần khác đi. Bằng phép đảo ngữ và tăng tiến, sử dụng những từ chỉ trạng thái, mức độ “vẫn còn”, “đã vơi”, tác giả càng nhấn mạnh vào sự dùng dằng, giao thoa giữa hạ và thu. Hai câu thơ cuối kết thúc bài thơ mang đầy trăn trở, suy nghĩ của nhà thơ về mùa thu của cuộc đời với biện pháp ẩn dụ độc đáo. “Sấm” chính là ẩn dụ cho những vang động, những thử thách, khó khăn, vất vả của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải, đã vượt qua nhiều thử thách trong cuộc sống. Sang thu, sấm nhỏ dần, không còn đủ sức để lay động những hàng cây đã bao mùa thay lá hay phải chăng, chính con người khi bước vào tuổi xế chiều cũng không còn lo lắng, sợ hãi trước những biến cố của cuộc đời. Con người khi bước vào cái tuổi “sang thu” cũng trở nên sâu sắc hơn, chín chắn hơn và vững vàng hơn trước những khó khăn, thử thách bất ngờ của cuộc đời. “Sang thu” không chỉ là sự chuyển giao của thiên nhiên đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, hàng cây đứng tuổi còn tượng trưng cho đất nước ta đã trải qua bao hy sinh, mất mát, thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến dựng nước và giữ nước. Bởi vậy, dù đất nước đã hòa bình, với những gian khó trước mắt, dân tộc ta sẽ càng trở nên kiên cường, bất khuất, vững vàng phát triển đi lên.
Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hòa ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.
*Một số điều cần lưu ý khi đọc văn bản
– Cảm nhận sự biến hoá của nhịp điệu, sự phóng khoáng trong cách xây dựng hình ảnh thơ, sử dụng công trong cách tổ chức mạch thơ.
– Lắng nghe dòng chảy cảm xúc và suy tưởng của nhân vật trữ tình được biểu hiện một cách sống động, sắc nét trong sự tự do của hình thức thơ ca.
Gợi ý
Bài thơ có cách triển khai độc đáo, các câu thơ, các khổ thơ có độ dài ngắn khác nhau, có những câu dài như một câu văn tạo nên mạch cảm xúc tuôn trào mãnh liệt. Bài thơ “Cánh đồng” nhằm thể hiện ý thức nâng niu cái đẹp, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của con người.