Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Cực Ngắn)
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 8
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 2
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 8
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
Sách giải văn 8 bài tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (Ngắn Gọn), giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 8, sách giải ngữ văn lớp 8 bài tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 8 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 8, giải bài tập sgk văn 8 đạt được điểm tốt:
Câu 1: Tìm hiểu văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” chúng ta thấy:
a.
– Nhiều từ ngữ, câu biểu cảm:
+ Không chúng ta hi sinh … nô lệ.
+ Dù phải gian lao kháng chiến … về dân tộc ta!
+ Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm!
– Câu văn (cảm thán):
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Cách dùng từ ngữ của văn bản ” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh và “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Song hai văn bản này không phải là những bài văn biểu cảm mà là văn bản nghị luận do mục đích của người viết (kêu gọi tướng sĩ, đồng bào đứng lên đánh giặc, cứu nước nên phải dùng những phương thức nghị luận để thuyết phục người nghe).
c. Các câu cột 2 hay hơn các câu cột 1 vì có chứa những từ ngữ biểu cảm, câu cảm thán làm cho câu văn giàu hình ảnh, sinh động, gây ấn tượng cho người đọc người nghe.
Câu 2: Để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận thì:
– Phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói).
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm.
– Cảm xúc cần phải diễn tả chân thực và không được phá vỡ mạch nghị luận của bài văn. => ý kiến ở phần (c) là không chính xác.
Câu 1: Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.
– Những yếu tố đối lập:
+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu >< những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do
+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái
– Giọng điệu châm biếm, mỉa mai:
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng
+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy
+ Khạc ra từng miếng phổi
Những yếu tố biểu cảm đặc sắc đã làm tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn và vì thế, làm tăng sức tác động và sự thuyết phục đối với người đọc, người nghe, giúp cho người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa để làm bia đỡ đạn cho chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Câu 2:
– Đoạn trích đã thể hiện:
+ Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà trước đây.
+ Tình cảm ấy thể hiện:
+ Từ ngữ bộc lộ cảm xúc: nỗi khổ tâm, nói làm sao, …
+ Câu văn thể hiện nỗi buồn, thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.
+ Câu văn mang giọng điệu mỉa mai: “Sao không có một “hang” nào đó …”
Câu 3:
– Về lí lẽ: Giải thích thế nào là học vẹt, học tủ? Việc học vẹt, học tủ dẫn đến hậu quả gì đối với mỗi người nói riêng và xã hội nói chung?
– Về yếu tố biểu cảm: Cần bày tỏ tình cảm đáng tiếc cho lối học vô bổ, không có tác dụng mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức (nếu là học vẹt) và lối học cầu may (nếu là học tủ).
Tham khảo:
Chúng ta không nên học vẹt và học tủ. Vì đây không phải là lối học đúng đắn. Nó mang lạ hiệu quả kém cho người đọc. Học vẹt là học làu làu không suy nghĩ. Học tủ là chỉ học một vài bài dựa trên may, rủi mà thành công. Học vẹt, học tủ đem lại cho người đọc sự thiếu sót trong kiến thức, sự nghèo nàn trong học vấn. Người hay học vẹt, học tủ luôn thua sút các bạn. Sau này khi ra đời, họ sẽ không có kiến thức để góp phần xây dựng đời sống xã hội. Vì vậy, ngay từ bây giờ người học sinh phải tránh học vẹt và học tủ.