Viết bài làm Văn số 5: Văn thuyết minh

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây

Đề bài: Một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích.

A/ Dàn ý chi tiết

I. MỞ BÀI

– Đất nước Việt Nam với bề dày bốn ngàn năm lịch sử, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa nên có nhiều loại hình thức nghệ thuật.

– Chèo là một loại hình sân khấu vô vùng đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và của Việt Nam nói chung.

II. THÂN BÀI

– Nguồn gốc: 

+ Chèo vốn được sản sinh từ vùng Đồng Bằng Bắc Bộ phổ biến nhất là từ vùng Nghệ – Tĩnh ngược lên phía bắc.

+ Chèo bắt nguồn từ hình thức nhại, diễn sướng dân gian từ thế kỉ XI.

+ Chèo là tiếng nói nhân đạo đầy thẳng thắn, kịch liệt đả kích cái ác, cái xấu đề cao giá trị chân thiện mỹ và lương tri của con người. 

– Đặc điểm:

+ Từ xa xưa hình thức chèo vốn đã gắn bó mật thiết với người dân

+ Chèo bao gồm có nhiều thể loại như hát, múa dân gian và văn học tích trì.

+ Các vở chèo cổ thường là tiếng nói nhân văn của con người.

+ Trải qua cả chục thế kỉ song loại hình nghệ thuật này dường như chưa bao giờ giảm sức hút đối với khán giả 

+ Hiện nay loại hình nghệ thuật này đang dần dần sống lại và trở nên quen thuộc với nhiều người.

– Giá trị tinh thần, văn hóa.

III. KẾT BÀI

– Chèo là một thể loại âm nhạc xưa được nhiều người yêu thích.

– Cần giữ gìn và phát huy thể loại nhạc chèo.

B/ Bài văn mẫu

Thuyết minh Một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) yêu thích – mẫu 1

Đất nước Việt Nam với bề dày bốn ngàn năm lịch sử, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa, vùng miền, dân tộc đã tạo nên một cái nôi nghệ thuật đặc sắc với nhiều thể loại hình thức khác nhau. Tuy nhiên được nhiều người biết đến nhất và yêu thích có thể kể đến hình thức nghệ thuật chèo. Nó đã trở thành một loại hình sân khấu vô vùng đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và của Việt Nam nói chung.

Nghệ thuật chèo vốn được sản sinh từ vùng Đồng bằng Bắc Bộ phổ biến nhất là từ vùng Nghệ – Tĩnh ngược lên phía bắc. Chèo bao gồm có nhiều thể loại như hát, múa dân gian và văn học tích trì. Chèo mang âm hưởng của các câu ca dao tục ngữ dân dã hóm hỉnh gần gũi với cuộc sống lao động của con người. Bên cạnh đó chèo còn là tiếng nói nhân đạo đầy thẳng thắn, kịch liệt đả kích cái ác, cái xấu đề cao giá trị chân thiện mỹ và lương tri của con người. Những vở chèo cổ thường có kết thúc có hậu theo truyền thống phương Đông, là tiếng nói ngợi ca tình thương sự bác ái giữa người với người.

Kể từ khi ra đời đến nay dù đã trải qua cả chục thế kỉ song loại hình nghệ thuật này dường như chưa bao giờ giảm sức hút đối với khán giả mọi lứa tuổi, mọi quốc tịch. Có những giai đoạn nghệ thuật chèo tưởng như không thể đứng lên được nữa song với giá trị tinh thần mà nó mang đến loại hình này đang dần được khôi phục và phát triển nhằm giữ gìn một bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ xa xưa hình thức chèo vốn đã gắn bó mật thiết với người dân. Có những hội chèo diễn ra cả tuần lễ nó trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Các vở chèo cổ thường là tiếng nói nhân văn của con người. Không chỉ vạch mặt bọn quan lại phong kiến, ác bá cường quyền mà còn đề cao ước mơ của con người, khát vọng tình yêu và hạnh phúc. Vì thế người ta yêu chèo vì nó chính là tiếng nói của cuộc đời.

Những vở chèo còn là những mẩu chuyện lấy ra từ trong thi ca nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn,.. Nó chính là sản phẩm của quá trình lao động và sinh hoạt của nông dân chân lấm tay bùn. Điều quan trọng với một diễn viên chèo khi đứng trên sân khấu không phải chỉ là múa mà phải thể hiện được sự uyển chuyển nhịp nhàng. Điệu múa không phải mang tính trừu tượng, ước lệ như các loại hình khác mà nó phải gắn liền với đời sống con người, với nguồn gốc ra đời của nó.

Người ta diễn chèo không phải chỉ múa, chỉ độc thoại nên những câu ca dao tục ngữ mà phải hát. Âm điệu chèo nghe rất ngọt ngào, đi sâu vào tâm trí con người. Hiện nay loại hình nghệ thuật này đang dần dần sống lại và trở nên quen thuộc với nhiều người. Bằng chứng là tại Thủ đô và các thành phố lớn đã thành lập những đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp. Nó không chỉ góp phần truyền bá nghệ thuật dân gian mà còn phục vụ đời sống tinh thần của người dân trong nước.

Nghệ thuật chèo ngày nay được rất nhiều người dân yêu thích. Nó không chỉ phản ánh giá trị đạo đức con người mà còn hướng con người ta tới sự hoàn thiện về tư tưởng nhân cách. Những vở chèo cổ không chỉ làm xúc động nhiều khán giá trẻ mà nó còn thể hiện sức sống mãnh liệt của loại hình dân gian này.

Thuyết minh Một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) yêu thích – mẫu 2

Cái nôi của sân khấu chèo là Đồng bằng Bắc Bộ, địa bàn phổ biến là từ Nghệ Tĩnh trở ra. Khởi đầu chèo bằng hình thức trò nhại, trò diễn xướng dân gian từ thế kỷ 11. Lúc đầu xuất hiện ở các làng quê, dần trở thành một loại hình sân khấu tiêu biểu của người dân đồng bằng Bắc Bộ.

Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo đậm màu sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tràn đầy tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh và không kém phần trí tuệ. Tính nhân văn trong các vở chèo rất rõ nét. Quyền con người, thiện thắng ác luôn được đề cập, được khẳng định. Các vở chèo cổ bao giờ cũng kết thúc có hậu theo truyền thống phương Ðông. Nhiều vở được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc.

Từ khi ra đời đến nay, tiếng trống chèo vẫn có ma lực cuốn hút bao thế hệ khán giả, không kể tuổi tác, địa vị xã hội hay quốc tịch. Nhưng có giai đoạn sân khấu chèo đã trải qua những khó khăn tưởng chừng không đứng vững nổi. Giờ đây, sân khấu chèo đang được khôi phục nhằm giữ gìn và bảo tồn một loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.

Đã có một thời, Hội chèo đôi khi kéo dài cả tuần lễ, mặc dầu còn lâu mới đến Hội nhưng trong mỗi gia đình nông dân đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ Hội với những vai chèo yêu thích.

Đã từ lâu, nghệ thuật chèo đối với người nông dân Việt Nam vừa là sân khấu, vừa là thơ ca và âm nhạc và là nguồn duy nhất trong đời sống tinh thần của mình. Trong các vở chèo cổ thường vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức giống nòi. Ở các vở diễn, người nông dân thấy được sự phản ánh đời sống của mình với những mặt tích cực và phản diện, những ước mơ và ý niệm của mình về cái thiện và cái ác. Mọi người đã yêu và càng yêu nghệ thuật chèo bởi tính nhân đạo và sự tươi mát của nó, và bởi nó mang màu sắc dân tộc độc đáo.

Những vở chèo – đó là các mẩu chuyện sân khấu của những tiểu thuyết thi ca, nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn, nó có những truyền thống lâu đời của thi ca phương Đông. Ngoài việc chèo là một nghệ thuật được nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn được sử dụng rất nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn năm.

Nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên là múa mà qua đó nó có thể hiện được tất cả sự uyển chuyển nhịp nhàng của con người. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: “Múa hình tượng đẹp đẽ của nội tâm”. Song song với cái đó, điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông thường khác bởi một lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động qua các buổi diễn ở nông thôn.

Một vai trò quan trọng trong chèo là âm nhạc. Ở Việt Nam người ta thường nói “đừng diễn chèo” mà phải là “hát chèo”. Âm điệu trong nghệ thuật chèo ngày càng hấp dẫn, nó có cả màu sắc âm nhạc dân tộc và hiện đại độc đáo. Hiện nay, tại thủ đô và một số thành phố khác đã thành lập những đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong công tác truyền bá nền nghệ thuật này và đồng thời hỗ trợ cho các đoàn nghệ thuật nghiệp dư.

Nghệ thuật chèo ngày nay vẫn được nhân dân ưa thích. Trong chèo mỗi người Việt Nam đều thấy được sự phản ảnh của những giá trị đạo đức cao quý như: lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình, sự trung thành, sự từ thiện. Do vậy, ở các vở chèo cổ, nội dung của nó ta tưởng như khác xa thực tế ngày hôm nay; vậy mà nó vẫn làm xúc động lòng khán giả của nhiều thế hệ già cũng như trẻ. Điều đó nói lên tính tươi trẻ và sức sống của nghệ thuật chèo, đồng thời cũng đặt ra trước nghệ thuật chèo những vấn đề mới phức tạp.

Thuyết minh Một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) yêu thích – mẫu 3

Nếu ai đã một lần ghé Huế đi dạo trên cầu Tràng Tiền, về đêm sẽ có cơ hội dạo thuyền nghe ca Huế. Giữa một trời mây nước bồng bềnh, chơi vơi một giọng hò ai ngân, ai hát khiến lòng du khách giữa đêm thanh tịnh càng cảm thấy mình được siêu thoát, được thăng hoa, được chắp cánh bay tới vầng trăng kia…

Huế vốn là vùng dân ca nổi tiếng với những điệu hò mái nhì, mái đẩy, khoan thai, dàn trải, ngọt ngào như tâm hồn người xứ Huế, những điệu lí bay bổng, mượt mà như lí con sáo, lí hoài xuân, lí tình tang. Bên cạnh dòng âm nhạc dân gian, Huế còn một dòng ca nhạc cung đình trang trọng như giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, yến nhạc. Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian kết hợp với ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi có thần thái của ca nhạc thính phòng. Nằm giữa hai dòng nhạc đó ca Huế có những đặc trưng riêng với chất trữ tình sâu lắng làm xao động lòng người, chất chứa đủ bao niềm hỉ, nộ, ái, ố như cuộc đời người dân xứ cố đô. Người ta đến với ca Huế là đề được đắm chìm trong cảm giác xao xuyến, buồn, vui đến lạ kì. Bước chân xuống mạn thuyền Rồng, trong không gian tĩnh mịch giữa trời, mây, sông, nước để cảm nhận hơn nữa cái chất Huế qua những âm điệu trầm bồng, du dương của giọng hát những ca công Huế hòa quyện với tiếng réo rắt của dàn nhạc đủ cà đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, xênh, phách… bán hòa tấu gồm 4 nhạc khúc Lưu thủy, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ đã mở đầu cho một đêm ca Huế.

Hầu hết những thú vui của người Huế đều gắn bó với dòng Hương Giang, nơi cội nguồn nảy sinh và hội tụ của bao trò vui nơi đất cố đô này. Đua thuyền, ngủ đò, thả thơ, ca Huế… đều diễn ra trên sông. Sông Hương đã đọng lại trong tâm thức dân Huế một tình cảm dịu dàng nhưng không kém phần hứng khởi. Thú đi nghe ca Huế là một món ăn tinh thần quý giá, một thú vui tao nhã mà bất cứ một du khách nào tới Huế, có chút lòng với Huế cũng đều muốn có dịp được thưởng thức. Ca Huế bao gồm cà hai yếu tố ca Huế và đàn Huế, được dựa trên một hệ thống các thể điệu của trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc nằm trên hai dòng lớn là điệu Bắc và điệu Nam. Những nhạc khúc thuộc về điệu Bắc mang âm sắc tươi vui, sang trọng và các ca khúc thuộc về điệu Nam nghe man mác, buồn thương. Cũng có những bản nhạc vừa mang âm hưởng của điệu Bắc, vìra pha phách điệu Nam như bài Tứ Đại Cảnh rất nổi tiếng mà nhiều ý kiến cho là tác phẩm của vua Tự Đức (1848 – 1883).

Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rủ. Để tham dự một chương trình ca Huế ngắn trên sông Hương, du khách sẽ được ngồi trên những con thuyền rồng mà các vua chúa xưa hay ngự, trong khoang thuyền, đàn nguyệt, tỳ bà, nhị, đàn tam, xênh… Các nhạc công, ca công đều là những nam thanh, nữ tú còn rất trẻ, nam mặc áo the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ vận những chiếc áo dài cổ từ thời Võ vương Nguyền Phúc Khoát giữa thế kỉ XVIII. Thuyền từ từ rời bến, không khí man mát, không gian huyền ảo bởi ánh trăng dưới nuớc, bởi bóng từng nhịp cầu Tràng Tiền in nổi trên sông… Thuyền đi đến giữa sông chợt dừng lại, không gian bỗng tĩnh lặng đâu đây chỉ còn nghe thấy tiếng phách, tiếng xênh từ những con thuyền đang rẽ nước lặng lờ trôi. Thuyền tắt máy, buông chèo trôi trôi lờ lững trên sông dưới cầu Tràng Tiền giăng giăng ánh điện màu như sao sa. Sau lời giới thiệu của một nghệ sĩ trẻ, khúc nhã nhạc Cung đình vang lên, đưa người nghe quay về cái không khí trang trọng nhưng vần thân thuộc của cả một thời kì quá vãng. Rồi tiếng hát thanh tao với các âm điệu dân gian ca Huế được cất lên trầm bổng trong khoang thuyền mờ mờ tối. Thật là tuyệt diệu khi được lắng nghe những điệu nhạc lời ca câu hò về Huế với đủ thể loại mà từ trước đến nay tôi chưa có dịp nghe nhiều và nghe đủ như thế. Những cầu thương yêu, ngợi ca non nước đẹp xinh, thơ mộng được dàn trải thành lời và được cất cao lên cung bậc thánh thót, nao nao dạ lòng khách nghe. Đặc biệt có một số bài hát trước đây từ Cung đình như Lưu Thủy, Xuân Phong, Long Hổ, Hạ Giang Nam cũng được trình bày. Điều kì lạ của ca Huế cùng như của những khúc dân ca Việt Nam, ấy là sự trầm lắng, da diết và thân thuộc đến lạ kì của những cung nhạc. Nó đi vào lòng người rồi lắng lại, để lại những ấn tượng khó phai, xao xuyến.

Ca Huế là một môn nghệ thuật độc đáo bởi vì không phải ai ca cũng đúng giọng điệu, mà muốn nghe ca Huế chuẩn, hay thì người biểu diền phải là người Huế. Ca Huế chỉ dành cho người Huế ca, như quan họ Bắc Ninh chỉ dành cho người Kinh Bắc. Một sắc thái của riêng Huế, của ca nhạc Huế “không nơi nào có được”.

Ca Huế không phải lối giải trí xô bồ mà nó thường kén người nghe. Một đêm ca Huế có thể được tổ chức trong một thính phòng nho nhỏ nhưng thi vị và hấp dẫn hơn cả là được nghe ca Huế trong một đêm trăng lên trên dòng Hương Giang thơ mộng, bềnh bồng trên chiếc thuyền rồng. Lúc đó tâm hồn của người nghe và cả ca sĩ cùng dàn nhạc dường như được siêu thoát trong một bầu không khí như được thăng hoa cùng trời, mây, sông, nước. Sau phần đầu của một đêm ca Huế với tiết tấu âm nhạc rộn ràng, vui tươi của điệu Bắc, người ta thường hát những bài bản trang trọng, uy nghiêm như Long Ngâm, Tứ Đại Cảnh. Đêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh là lúc đó những điệu Nam Ai, Nam Bình, Tương tư khúc… cất lên với nỗi buồn thương nhưng cũng rất gợi tình. Ngày nay, do thị hiếu của người nghe các ca sĩ thường lồng vào chương trình những bài tân nhạc nhưng cũng rất dễ thương về Huế với các nhạc phẩm đầy chất Huế thật sự đi vào lòng người như “Mưa trên phố Huế”, “Huế thương”, “Đêm tàn bến Ngự”, “Ai ra xứ Huế, “Đây thôn Vĩ Dạ”. Hai bên bờ sông Hương, trên bến dưới thuyền tấp nập, vẳng đâu đây tiếng sáo tiếng nhị, tiếng phách cùng điệu hò da diết của dân ca xứ Huế. Đen Huế, chưa nghe ca Huế là chưa thực sự hiểu về Huế. Một đêm ca Huế trên sông Hương giữa tiếng sóng nước ru vỗ vào mạn thuyền rồi lan xa, lan xao… Trăng càng về đêm càng vằng vặc giữa thinh không tĩnh mịch… Giọng hát, tiếng đàn đã thực sự ru tâm hồn ta vào một miền kí ức sâu thẳm nhuộm tím lòng người không sao quên được. Không gian như lắng đọng, thời gian như ngừng trôi, chỉ có lòng du khách đang thả hồn cùng tiếng hát mê li… Và họ chợt nhận ra rằng đằng sau giọng ca ngọt ngào ấy là nội tâm phong phú của người con gái Huế, âm thầm kín đáo và cũng rất tinh tế.

Ngày nay ca Huế trên sông Hương trở thành một loại hình văn hoá du lịch. Nhung ca Huế trên sông Hương vẫn mãi là món ăn tinh thần, là niềm tự hào của con người xứ Huế.

Thuyết minh Một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) yêu thích – mẫu 4

Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ ở Việt Nam. Đây cũng là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Nó được này sinh và phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ. Tích truyện được khai thác từ truyện cổ tích và truyện Nôm. Nó đề cao đạo đức, tài năng của con người, thông cảm với số phận nhân vật kịch, châm biếm, đả kích trực tiếp những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến. Nhân vật truyền thống: thư sinh nho nhã, nữ chính đức hạnh, nết na; nữ lệch lẳng lơ, mụ ác tàn nhẫn, độc địa; hề chèo…Nhân vật chèo khi bước ra sân khấu phải tự xưng danh rồi mới bước vào diễn tích. Tính chất ước lệ và cách điệu của chèo thể hiện rất cao qua nghệ thuật hóa trang, hát, múa của các nhân vật.

Không biết chèo có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu lắm rồi chèo đã gắn liền với đời sống sinh hoạt và văn hóa của con người Bắc Bộ. Nhiều tài liệu khẳng định rằng, chèo ra đời ở vùng châu thổ Bắc Bộ và định hình ở bốn trấn là Đông (xứ Đông), Đoài (xứ Đoài), Nam (xứ Nam), Bắc (xứ Bắc). Chiêng chèo xứ Nam ngày xưa gồm các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên và Thái Bình ngày nay. Những nghệ sĩ chèo cốt cán hầu hết xuất thân từ Thái Bình với danh tiếng vang xa từ Bắc vào Nam như cụ Trùm Thịnh, cụ Lý Mầm, cụ Cả Tam, cả Ngũ, bác Năm Ngũ,…

Ở thời kì hưng thịnh nhất, tức là trước cách mạng tháng Tám, những phường chèo, gánh chèo, hội chèo nở rộ khắp Thái Bình đông đảo để đáp ưng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm, trong hội làng. Chính những yếu tố ấy khiến cho nghệ thuật chèo nở rộ, sự sáng tạo cả về làn điệu, hình thức diễn xướng không ngừng phát triển. Khi đó, có ba vùng chèo: chào Hà Xá, chèo Sáo Dền, chèo Khuốc chỉ ở Thái Bình. Nhưng hiện tại, theo sự chảy trôi của thời gian và sự đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, ở Thái Bình giờ chỉ chèo làng Khuốc là còn hoạt động, còn chèo Hà Xá và chèo Sáo Dền từ lâu đã không còn.

Nói về chèo của Thái Bình, Ông Bùi Văn Ro, người làng Khuốc, chia sẻ: “Việt Nam có hai nơi hát chèo là Ninh Bình Và Thái Bình. Người giữ được tổ nghề là người Thái Bình cho nên vẫn giữ được 28 làn điệu chèo độc đáo chưa được phổ biến và chỉ người làng chèo Khuốc mới hát được làn điệu đó. Nghề này ở địa phương không phải là nghề kiếm sống mà tổ tiên giao cho mình rồi thì mình phải có trách nhiệm với nghề nghiệp”.          

Cái hay, cái khéo của chèo khiến người xem mê mẩn chính là sự kết hợp khéo léo từ những điệu hát, nói, hát bỏ trong sinh hoạt nghệ thuật dân gian vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng: xoan ghẹo, chèo tàu tương, hát giặm,…Phong cách chèo Thái Bình là sự sáng tạo về quy cách của phần đệm. Dàn nhạc của tuồng chèo Thái Bình khác dàn nhạc ở chỗ, có bốn loại nhạc cụ đi cùng để đệm là nhị, trống đế, trống cơm và mõ. Dù là vậy, nhưng mỗi cây trong dàn nhạc khi đệm đều phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt, chứ không đơn thuần muốn đệm khi nào thì chêm xen vào khi ấy. Chẳng hạn, tiếng mõ – âm thanh độc đáo của điệu chèo Thái Bình, phải đánh đều, giữ nhịp trường canh, ở tốc độ nhanh và rất nhanh, tạo sự căng thẳng và tính kịch cho âm nhạc.Hay như đệm với trống, những chỗ giai điệu hát ngân hoặc ngừng nghỉ mới được phép điểm dìu lên mặt, đánh trống lúc nghệ nhân mở miệng hát là điều cấm kỵ. Cùng một làn điệu như nhau nhưng phong cách chèo Thái Bình hát mộc mạc giản dị hơn, phụ âm hư tự và nguyên âm luôn cân bằng âm lượng. Cùng một tiết tấu nhưng chèo Thái Bình rộn rã, xáo động hơn. Lối hát Thái Bình không đi sâu vào nhịp phách phức tạp, không nhả chữ theo lối khôn ngoan nhà nghề, không làm lẫn phụ âm.

Cho đến tận ngày nay, những nghệ sĩ chèo Thái Bình vẫn miệt mài, say nghề, yêu nghề để gìn giữ một nét bản sắc văn hóa độc đáo của mảnh đất này. Tuy không còn được phổ biến rộng rãi tới mọi tần lớp như thời xưa, song ngày nay, dưới những nỗ lực và cố gắng không ngừng của cả nghệ sĩ và chính quyền, sân khấu chèo đang ngày càng đến được gần hơn với công chúng. Người ta biết đến chèo nhiều hơn, biết đến loại hình sinh hoạt dân khấu dân gian với những tiết tấu, các hình thức diễn xướng mang đậm chất của người Việt. Để rồi, khi nhắc về Thái Bình, những người con của mảnh đất ấy có thể tự hào vì những làn điệu chèo của làng Khuốc, của sự sáng tạo và của văn hóa dân tộc.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1061

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống