Hiền tài là nguyên khí của quốc gia

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây

Đề bài: Phân tích “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.

– Sự phát triển, thịnh vượng của dân tộc đều phụ thuộc vào những người tài giỏi của quốc gia đó. Những người tài giỏi khó kiến thức cao, học rộng, thông minh,… có những đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Những điều này hoàn toàn đúng và đã được khẳng định từ thời xa xưa. Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã khẳng định điều này qua bài viết của chính mình “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Chắc hẳn có nhiều người chưa hiểu rõ về câu nói này, sau đi chúng ta sẽ đi tìm hiểu ý nghĩa của nó.

2. Thân bài

2.1. Giải thích câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

– Hiền tài: là người có tài và người đó phải có đức. Hiền tài là người tài giỏi, là người có tài cao, học rộng, hiểu biết sâu xa,….

 – Nguyên khí: là sức mạnh vật chất, tinh thần, tiềm tàng của con người. là sức mạnh tiềm ẩn và quyết tâm của con người sẽ quyết định thành tích của người đó.

2.2. Ý nghĩa của câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

– Những người học rộng tài cao là khí chất ban đầu, làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước.

– Hiền tài có vai trò quan trọng trong sự thịnh suy của đất nước.

– Những người tài giỏi là nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước.

2.3. Những việc người xưa đã làm để thể hiện sự coi trọng nhân tài

– Đề cao danh tiếng, phong chức tước, đề cao ở bảng vàng,….

– Khắc bia để lưu tên.

– Khuyến khích noi gương người tài, ngăn ngừa kẻ xấu.

– Học tập người tài những điều hay.

2.4. Bài học từ câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

– Phải biết quý trọng nhân tài.

– Những người tài giỏi luôn là người có vai trò quan trọng đối với sự thịnh suy của đất nước.

– Phát huy quan điểm của nhà nước, giáo dục là quốc sách, trọng dụng nhân tài.

3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

– Câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một câu nói hết sức có ý nghĩa. Câu nói nhắc chúng ta phải coi trọng người tài ở mọi lúc mọi nơi.

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Phân tích hiền tài là nguyên khí quốc gia – mẫu 1

Văn bia là bài văn khắc trên mặt đá nhằm ghi chép lại những sự việc trọng đại, hoặc tên tuổi, cuộc đời của những người có công đức lớn để lưu truyền đến muôn đời sau. Bia có ba loại chính: bia ghi công đức, bia ghi việc xây dựng các công trình kiến trúc lớn và bia lăng mộ.

Bia ghi công đức thường có ba phần: Phần thứ nhất là tự (kể), nêu lý do, quá trình làm bia, tiểu sử nhân vật được khắc vào bia; phần thứ hai (viết bằng văn vần) tóm được nội dung tự sự ở trên để người đọc dễ ghi nhớ, phần này còn gọi là minh (ghi nhớ); phẩn thứ ba ghi ngày tháng, họ tên người làm bia (viết bằng văn xuôi). Dần dần, phần tự trở thành nội dung quan trọng nhất, thể hiện tư tưởng, quan điểm của người dựng bia.

Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung viết năm 1484 dưới thời Hồng Đức, theo lệnh vua Lê Thái Tông. Bài kí này giữ vai trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ được dựng ở nhà bia Văn Miếu (Hà Nội). Bài văn Hiền tài là nguyên khí của quốc gia được trích tử bài kí trên.

Nội dung cơ bản của bài văn này là giải thích ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Mục đích cơ bản nhất là tôn vinh những người hiền tài, có công lớn với đất nước, vừa để ghi công, vừa là một hình thức động viên khích lệ để họ dồn tâm huyết và sức lực hơn nữa vào việc chăm lo cho vận mệnh quốc gia. Bài kí có kết cấu giống như một bài Tựa, cũng là một văn bản chính luận với lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, ngôn ngữ hàm súc, giàu ý nghĩa, có sức . truyền cảm và thuyết phục rất lớn.

Bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia tuy là đoạn trích nhưng kết cấu rất hợp lí, rõ ràng, có thể chia làm hai đoạn: Đoạn 1: Từ đầu… đến cao nhất: Hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh đất nước. Đoạn 2: Phần còn lại: Ý nghĩa và tác dụng to lớn của việc khắc bia ghi tên các bậc hiền tài đối với người đương thời và các thế hệ sau. Đoạn trích được mở đầu bằng lời lẽ thể hiện thái độ khiêm tốn của người viết: Tôi dẫu nông cạn vụng về, nhưng đâu dám từ chối xin kính cần chắp tay cúi đầu mà làm bài kỉ…

Sau đó, ông nhận định về giá trị của người tài đức trong xã hội bằng một chân lí đã được đúc kết từ lâu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức. Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là chất làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước. Người hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt. Là sự đúc kết của khí thiêng sông núi nên: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia: nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

Để chứng minh cho nhận xét của mình là đúng, Thân Nhân Trung nêu việc làm đã thành quy luật của vua chúa bao đời: Vì vậy. các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nôn quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đổ cao bằng tước trật.

Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.Bằng cách viết ngắn gọn, súc tích, tác giả đã nêu bật được vai trò quan trọng của hiền tài đối với vận mệnh quốc gia. Tuy nhiên, theo ý của bậc thánh minh thì những ưu đãi kể trên vẫn chưa đủ, mà phải làm bia đá khắc tên và công lao của các bậc hiền tài để lưu tiếng thơm muôn đời, để động viên những người mà triều đình đã và đang trọng dụng, đồng thời khích lệ kẻ sĩ nỗ lực hết minh, ra sức giúp vua, giúp nước:

Nay thánh minh lại cho rằng, chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nôn lại dựng đá để danh đặt ở cửa Hiền Quan, khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông, ham tiếng hão mà thôi đâu.

Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đình để cao rất mực như thế, thì họ phải làm thế nào để tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp? Ở phần thứ hai, tác giả khẳng định việc dựng bia tiến sĩ là đúng đắn và cần thiết, bởi ngoài ý nghĩa tôn vinh hiền tài, ghi nhớ công ơn người có công với dân tộc thì mục đích lâu dài và sâu sắc của việc dựng bia là răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha hóa biến chất của những người có tài trong thiên hạ:

Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử hồi đó được mát thấy thì lòng thiện tràn đầy, ỷ xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám nảy sinh như vậy được?

Thế thì việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa đề củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu ý sâu này.

Nhân tài của đất nước trong các thời đại tuy không nhiều song cũng không quá hiếm hoi, nhưng để họ trở thành hiền tài, nguyên khí của quốc gia thì triều đình cần phải có những chính sách sử dụng hiệu quả. Tác giả đã đưa ra một số trường hợp tài mà không hiền và nêu lí do là bởi họ không được răn dạy, không cố điều răn dạy trước mắt. Mục đích và ý nghĩa của việc dựng bia đá được tác giả nêu lên rất cụ thể. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước.

Dựng bia ghi danh tiến sĩ là việc làm có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc, vì vậy, những lí lẽ, lập luận giải thích phải triệt để. Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã thực hiện xuất sắc điều đó. ổng giải thích rất rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng vân suông, ham tiếng hão mà là một phương thức cán thiết để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.

Tuy vậy, lí do quan trọng nhất để bậc thánh minh quyết định đặt bia đá ở cửa Hiền Quan văn là để nêu cao vai trò quan trọng của hiền tài đối với dân tộc. Lối kết cấu khép kín của bài kí đã khẳng định điều đó. Bài kí mở đầu bằng câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia và kết thúc với ý củng cố mệnh mạch cho nhà nước.

Bằng phương pháp lập luận chặt chê và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính xác, tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng nhân tài đúng đắn và hợp lí. Biết phát hiện, đầu tư đào tạo và tôn trọng nhân tài – đặc biệt là hiền tài thì sự nghiệp dân giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.

Phân tích hiền tài là nguyên khí quốc gia – mẫu 2

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là đoạn trích từ bài “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Bảo Đại thứ ba” do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 đời Hồng Đức.

Tác phẩm nói về việc lập bia đá đối với việc khích lệ hiền tài. Tổ chức thi cử ba năm một lần là một bước tiến quan trọng của chính sách tìm kiếm và phát triển nhân tài ở đời Lê Thánh Tông (bắt đầu từ năm 1463 trở đi, định lệ cứ ba năm một lần thi tiến sĩ), nhưng việc lập bia đá được thực hiện chậm hơn. Đoạn trích có hai phần chính. Đầu tiên, tác phẩm trình bày vai trò của hiền tài đối với việc xây dựng quốc gia: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, kẻ sĩ chính là hiền tài.

Do đó, nhà nước thể hiện việc quan tâm kén chọn kẻ sĩ, quý trọng kẻ sĩ bằng việc ban cho các ân huệ lớn như khoa danh “đề cao bằng tước trật”, đãi tiệc,… nhưng đây là các biện pháp có giá trị trước mắt. Việc lập bia đá đề danh là một trong những biện pháp cần thiết để khích lệ, cổ vũ nhân tài: Khắc tên tiến sĩ vào bia đá để tên tuổi họ được lưu lại lâu dài là một hình thức cổ vũ, động viên quan trọng.

Mặt khác, khi tên tuổi đã được khắc vào bia đá, kẻ sĩ phải gắng lòng, dốc sức để xứng đáng với tên tuổi lưu muôn đời. Chủ trương dùng bia đá để khích lệ sự tự giác là chủ trương “độc trị” của Nho gia. Trong một đoạn văn ngắn, tác giả đã chuyển đổi “điểm nhìn”, nhìn từ lập trường của một nhà lãnh đạo (vì vua sai tác giả soạn bài văn), khẳng định việc bồi dưỡng, kén chọn nhân tài luôn là việc làm của các vị thánh đế, minh vương”.

Các biện pháp khuyến khích, trọng đãi nhân tài đã được thực hiện phản ánh chính sách tích cực của nhà nước đối với nhân tài. Đoạn văn này có chức năng ca ngợi triều đại Lê Thánh Tông đồng thời có cả chức năng của một thông điệp gửi đến đời sau, có giá trị lâu dài như một chân lý: “những người lãnh đạo hãy biết chăm lo, trân trọng người tài”.

Nhìn về kẻ sĩ, tác giả phân tích quy luật tâm lý: Việc đặt bia đá có ý nghĩa “khiến kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua”. Mặt khác, kẻ sĩ vốn nghèo hèn, khi được triều đình tôn vinh, tất nhiên ra sức báo đáp “kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đình đề rất mực như thế thì họ phải làm thế nào đẻ tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp?”. Một điểm nữa là nếu những người đỗ đạt thấy tên mình trên bia “lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn” thì không thể làm điều xấu, điều ác được.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực tiếp đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa, người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ ra bao công sức nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường.

Nhà nông học Lương Định Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu lai tạo ra những giống lúa mới có khả năng chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng nguồn lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ… Đó là gương sáng của những bậc “hiền tài” một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và Tổ quốc.

Như đã nói ở trên, “hiền tài” có vai trò quan trọng đối với sự hưng vong của đất nước. Nhưng “hiền tài” không phải tự nhiên mà có. Ngoài thiên khiếu bẩm sinh, những người tài phải được phát hiện và giáo dục theo một quy củ nghiêm túc để họ nhận thức đúng đắn về mục đích học tập là rèn luyện đạo lí làm người, để bồi dưỡng lòng tương thân, tương ái và hiểu rõ trách nhiệm của bản thân đối với xã hội.

Ngày xưa, theo quan niệm của Khổng giáo thì việc giáo dục con người phải lấy đức làm gốc (đức giả bản dã), còn tài là phần ngọn (tài giả mạt dã). Nguyễn Trãi cũng đặt đức lên trên tài: “Tài thì kém đức một vài phân”. Đại thi hào Nguyễn Du cũng khẳng định: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Quan niệm đúng đắn ấy còn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày nay. Bác Hồ trong một lần nói chuyện với học sinh đã nhấn mạnh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

“Hiền tài” trước hết phải là người có đức. Trong chế độ phong kiến trước đây thì đức chính là lòng trung quân, ái quốc. Mọi suy nghĩ và hành động của các bậc “hiền tài” đều không ngoài bốn chữ đó. Những mưu cầu, toan tính vun vén cho lợi ích cá nhân không thể tác động và làm ảnh hưởng đến lí tưởng cao quý giúp vua, giúp nước của họ. Xét theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo thì họ xứng đáng là những bậc chính nhân quân tử: “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. (Giàu sang không làm thay đổi, nghèo khó không thể chuyển lay, bạo lực không thể khuất phục). “Hiền tài” là những tấm gương quả cảm, tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên đời Trần được triều đình cử đi sứ phương Bắc đã tỏ rõ cho vua quan nhà Minh biết chí khí hiên ngang của người quân tử bằng tài ứng đối hùng biện của mình. Giang Văn Minh sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vua Nam và quốc thể nước Nam, xứng đáng là sứ thần Đại Việt. Không thể kể hết tên tuổi các bậc “hiền tài” của nước Nam, đúng như Nguyễn Trãi từng viết: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” (Bình Ngô đại cáo).

Tuy nhiên, lịch sử mấy nghìn năm của đất nước ta có nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm. Về đại cục, lịch sử luôn phát triển theo hướng đi lên; nhưng có lúc lịch sử gặp giai đoạn suy thoái, bi thương. Vận mệnh dân tộc, số phận đất nước đặt lên vai “hiền tài”, nhưng vì nhiều lí do, họ đã không đảm đương được trọng trách mà quốc gia giao phó. An Dương Vương oai hùng với thành Cổ Loa kiên cố và nỏ thần hiệu nghiệm, nhưng vì chủ quan khinh địch nên đã lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ vì ham muốn lợi danh mà hèn nhát cam tâm làm tay sai cho quân xâm lược phương Bắc. Đó là lúc nguyên khí suy, thế nước yếu rồi xuống thấp.

Điều quan trọng nhất là “hiền tài” thì phải thực sự có tài. Có tài kinh bang tế thế thì mới nghĩ ra được những kế sách sáng suốt giúp vua và triều đình cai trị đất nước. Tài năng quân sự lỗi lạc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc của Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò quyết định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.

Một gương sáng “hiền tài” đã trở thành thần tượng không chỉ trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng chiến đau thương và oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Ông đã làm vẻ vang cho lịch sử và truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến ông, nhân dân ta và bè bạn năm châu yêu mến, tự hào; còn kẻ bại trận cũng phải nghiêng mình kính phục.

Xưa nay, các triều đại phong kiến đều quan tâm đến việc mở trường học và tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài giúp nước. Sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, mở ra nền thái bình muôn thuở, vua Lê Thái Tổ đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến vấn đề mở rộng và nâng cao nền giáo dục của nước nhà, trong đó có việc phát hiện và đào tạo nhân tài nhằm phục vụ cho mục đích chấn hưng đất nước.

Các triều đại trước, việc tuyển chọn người ra làm quan chủ yếu thông qua con đường tiến cử, nhiệm cử…, nhưng đến thời Lê thì chủ yếu là thông qua khoa cử để chọn người tài giỏi giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông viết trong chiếu dụ như sau: “Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phải chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta, từ khi trải qua binh lửa, nhân tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sáng.

Thái Tổ ta mới dựng nước đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chí tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Trong sắc dụ của mình, vua Lê Hiển Tông cũng khẳng định: “Các bậc thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên.”

Người có tài, có đức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay như thế nào? Nếu hiểu theo nghĩa “hiền tài” là người tốt, có khả năng đặc biệt làm một việc nào đó thì “hiền tài” hiện nay trong lĩnh vực nào cũng có. Đó là những người vượt khó để thành đạt, là những doanh nhân có tâm, có tài, sản xuất ra những hàng hóa chất lượng cao đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, đất nước, là những nhà khoa học có nhiều công trình hữu ích, thiết thực, là những vị lãnh đạo có tư tưởng đổi mới, hoạch định các chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy nền kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ngày càng phát triển. Tất cả hợp lại tạo nên “nguyên khí quốc gia.”

“Hiền tài” không phải tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh mang tính chất truyền thống của gia đình, dòng họ, quê hương… thì người tài phải được phát hiện, giáo dục, đào tạo một cách nghiêm túc và bài bản để thực sự trở thành “hiền tài” của đất nước.

Nhân tài của một đất nước không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi. Để có được “hiền tài”, Nhà nước phải có chính sách đào tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp lí. Tạo điều kiện thuận lợi để “hiền tài” phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh.

Phân tích hiền tài là nguyên khí quốc gia – mẫu 3

Thân Nhân Trung là một vị quan đại triều có uy tín về đức độ, tài năng và là một nhà giáo mẫu mực của thời đại. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong số đó “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một tác phẩm tiêu biểu khẳng định được rõ nét tên tuổi của ông trong lòng độc giả. Tư tưởng của Thân Nhân Trung cho rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Chính vì thế cần phải bồi dưỡng nhân tài là việc cần làm để cùng xây dựng quốc gia ngày càng thịnh vượng.

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia là đoạn trích từ bài văn bia. Nội dung nhằm giải thích ý nghĩa của việc dựng bia tiến sĩ vừa để ghi công những tên tuổi của các bậc hiền tài để cống hiến cả đời mình cho đất nước đồng thời còn là cách động viên để mọi người có thêm động lực để cùng nhau xây dựng đất nước giúp cho nhân dân có được cuộc sống ấm no.

Đoạn trích nổi bật với nội dung chủ đạo: hiền tài là nguyên khí của quốc gia, có vai trò quan trọng đối với vận mệnh đất nước. Tác giả đúc kết chân lí: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Vậy Hiền tài là gì? Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ và đầy sức thuyết phục:

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”.

Còn nguyên khí là gì? Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống và quá trình phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là nền tảng làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội và đất nước.

Tư tưởng của Thân Nhân Trung không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài đối với quốc gia mà còn nêu cao sự cần thiết của việc quan tâm, đào tạo và tạo nhiều cơ hội phát triển cho hiền tài. Đất nước nào, xã hội nào cũng có những người hiền tài, tuy nhiên những người hiền tài đó có được phát huy hết những gì mà họ có hay không còn phụ thuộc vào việc có trọng dụng hay không và trọng dụng của xã hội, đất nước đó. Một đất nước, một xã hội muốn phát triển cần thiết phải chăm lo bồi dưỡng, trọng dụng hiền tài, cần trân trọng, tôn vinh những cống hiến, những đóng góp của họ, cần bảo vệ, phát huy những giá trị quý giá mà họ đã đem lại cho xã hội, cần tạo một môi trường trong sạch, lành mạnh để người hiền tài được phát huy hết tiềm năng, Cần có sự quan tâm đãi ngộ kịp thời, đúng đắn với người hiện tại. Có như vậy thì hiền tài mới ngày càng dồi dào và đất nước mới thực sự hưng thịnh. Ngược lại, có hiền tài mà không trọng dụng, thậm chí còn tìm cách hủy hoại thì hiền tài cạn kiệt, không còn những người tài đức để kiến tạo đất nước, xã hội lâm vào suy thoái, trì trệ, quốc gia tất sẽ đi đến chỗ suy yếu.

Tác giả còn nêu ý nghĩa to lớn của việc khắc bia để tên các tiến sĩ đối với đương thời và hậu thế. Thứ nhất, là dù có trọng dụng hiền tài như thế nào đi chăng nữa thì mỗi người đều mong muốn được khắc tên mình trên bia đá để họ coi đó là niềm tự hào của bản thân khi đã góp được công sức, tuổi trẻ của mình cho đất nước, để mọi người có thể biết đến tên tuổi của những người hiền tài và lưu truyền muôn đời sau. Thứ hai, Tác giả khẳng định việc dựng bia là một việc cần thiết và đúng đắn. Ngoài ý nghĩa tôn vinh tên tuổi của các bậc hiền tài, ghi nhớ công lao của những người có đóng góp to lớn cho đất nước, dân tộc thì mục đích của việc dựng bia là để răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha hoá biến chất của những người có tài, có chức quyền trong thiên hạ. Để những người tài trở thành hiền tài, thành nguyên khí quốc gia thì triều đình cần phải có chính sách đào tạo và sử dụng hiệu quả, phải có những điều răn dạy nghiêm khắc trước mắt và lâu dài. Bia đá sẽ là lời nhắc nhở hiền tài có ý thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước và dân tộc. Trách nhiệm, nghĩa vụ của “kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh” phải như thế nào? Phải “tự trọng tấm thân” rèn đức rèn tài, phải “ra sức báo đáp’ ân đức minh quân thánh đế.

Với lối liệt kê trùng điệp, đối lập kết hợp giọng văn trang trọng cùng lối nói mạch lạc rõ ràng, dễ hiểu đã khiến cho chúng ta thấy được tác dụng to lớn của việc khắc bia mộ và những ý nghĩa to lớn của việc làm này. Nhân tài của nước ta không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi nhưng để họ trở thành nhân tài thì triều đình, đất nước cần có những chính sách hiệu quả. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước.

Bằng phương pháp lập luận chặt chẽ và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính xác, tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng nhân tài đúng đắn và hợp lí. Biết phát hiện, đầu tư đào tạo và tôn trọng nhân tài – đặc biệt là hiền tài thì sự nghiệp dân giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, yêu cầu phát triển đất nước càng đặt ra một cách bức thiết. Để sánh vai cùng các nước mạnh trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần có nhiều hơn nữa những người tài đức. Chính bởi vậy tư tưởng của Thân Nhân Trung thêm một lần nữa cần được khẳng định tính đúng đắn và tiến bộ của nó. Đó chính là kim chỉ nam không chỉ của một thời đại để xây dựng một quốc gia phồn vinh, thịnh vượng thực sự.

Phân tích hiền tài là nguyên khí quốc gia – mẫu 4

Thân Nhân Trung là một vị quan đại triều có uy tín về đức độ, tài năng và là một nhà giáo mẫu mực của thời đại. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong số đó “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một tác phẩm tiêu biểu. Nó không chỉ dừng lại trong xã hội thời Lê mà tác phẩm ấy đối với chúng ta vẫn còn nguyên giá trị khi mà trong xã hội hiện nay giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu.

Tác phẩm đã nêu lên ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Muốn đất nước yên bình thì việc đầu tiên là phải tôn vinh những hiền tài có công lớn với đất nước, ghi công để khích lệ động viên họ.

Câu mở đầu tác phẩm khiến chúng ta càng thêm khâm phục sự tài đức và khéo léo trong lối hành văn của ông “Tôi dẫu nông cạn vụng về nhưng đâu dám từ chối xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài kỉ” thiện sự khiêm tốn của người viết. Sau đó ông khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với sự suy vong của đất nước. Những từ ngữ với kết cấu chặt chẽ, hợp lý rõ ràng bắt đầu được đưa ra với đầy sức thuyết phục “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp…”. Tác giả nói đến hiền tài là để chỉ những người có tài cao học rộng và có đạo đức. Hiền tài là nguyên khí nghĩa là khẳng định những người có tài cao học rộng và có đạo đức sẽ làm nên vận mệnh của đất nước. Người hiền tài có vai trò quyết định đến sự suy thịnh của đất nước. Hiền tài dồi dào thì đất nước hưng thịnh, hiền tài cạn kiệt thì đất nước suy yếu, người hiền tài chính là sự kết tụ của tinh hoa đất trời và của dân tộc.

Sau đó ông khẳng định ông nêu việc đào tạo nhân tài là một việc rất quan trọng “Vì vậy các đấng thánh đế minh chẳng ai là không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”. Tiếp đó để làm sáng hơn cho luận điểm, ông viết “đã yêu mến cho khoa danh lại đỗ cao bằng tước trật ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên tháp ở Pháp Nhạn ban cho Danh hiệu Long hổ bày tiệc Văn hỉ”. Sau mỗi khoa thi. Triều đình mừng được người tài không có việc gì lắm đến mức cao nhất. Bằng lối hành văn súc tích, tác giả đã nêu bật lên vai trò của các bậc hiền tài. Nhưng tác giả cũng cho rằng những thiết đãi, trọng dụng của triều đình với các bậc hiền tài như thế vẫn là chưa đủ so với sự chăm lo cống hiến của các bậc hiền tài cho đất nước. Tác giả nêu rằng như vậy ta phải khắc tên bia đá cho các chiến sĩ để tên tuổi và công danh của các bậc hiền tài được lưu tiếng thơm đến muôn đời sau, và cũng để cho xứng với sự cống hiến của các bậc hiền tài cho đất nước, khích lệ những người tài ở khắp mọi nơi trên đất nước thấy được sự trọng dụng nhân tài của triều đình mà ra sức giúp vua giúp nước xây dựng non sông mở mang bờ cõi “Nay thánh minh lại cho rằng chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy những lời khen tiếng thơm chưa đủ để lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên dựng đá để danh đặt ở cửa hiền quan khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn trấn hâm mộ rèn luyện danh tiết ráng sức giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông ham tiếng hão mà thôi đâu. “Vậy còn trách nhiệm của kẻ sĩ chốn lều tranh là phải như thế nào? Là phải “ra sức báo đáp” ân đức của thánh đế của triều đình.

Thân Nhân Trung tiếp tục ngợi ca các bậc hiền tài đức độ “Có người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng” bên cạnh đó tác giả cũng đem lời chỉ trích với những kẻ âm mưu, mưu đồ hại nước “Cũng không phải có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác”. Và ông tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc khắc bia mộ một lần nữa Có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn thấy tấm bia này. Vì thế hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu ngăn chặn đâu còn dám nảy sinh như vậy được thế thì việc khắc bia mộ lợi ích rất nhiều “kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước”. Với lối liệt kê trùng điệp, đối lập kết hợp giọng văn trang trọng cùng lối nói mạch lạc rõ ràng, dễ hiểu đã khiến cho chúng ta thấy được tác dụng to lớn của việc khắc bia mộ. Nhân tài của nước ta không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi nhưng để họ trở thanh nhân tài thì triều đình,đất nước cần có những chính sách hiệu quả. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước.

Đọc tác phẩm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” ta hiểu rõ hơn về nền văn hiến của dân tộc, biết được vai trò quan trọng của việc trọng dụng nhân tài và ý nghĩa to lớn của việc lập bia tiến sĩ.

Kết cấu đầu cuối của đoạn trích có sự tương ứng và phần trước làm tiền đề cho phần sau bởi mở đầu tác giả khẳng định vai trò của hiền tài “hiền tài là nguyên khí của quốc gia “khẳng định vai trò quan trọng to lớn của hiền tài không bao giờ thay đổi trong mọi thời đại, phần sau Thân Nhân Trung nêu lên ý nghĩa sâu xa của việc khắc bia mộ tiến sĩ. Với những lập luận hùng hồn, đối lập, nghệ thuật liệt kê trùng điệp đối lập làm lay động lòng người khiến cho các bậc hiền tài ngày càng phấn đấu xây dựng đất nước. Bên cạnh đó tác phẩm không chỉ nhấn mạnh sự quan trọng của hiền tài trong xã hội triều Lê mà trong moi thời đại thì hiền tài luôn giữ một vai trò quan trọng “nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”.

Cuối cùng tác phẩm muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc lập bia tiến sĩ vừa để tạo tiếng thơm, danh tiếng cho người tài vừa để họ một lòng tận trung với nước bên cạnh đó còn để răn dạy những kẻ có ý đồ xấu biết lấy đó mà sáng lòng lương thiện. Vậy việc lập bia đá là hoàn toàn quan trọng và có ý nghĩa to lớn.

Bài viết của Thân Nhân Trung như một tiếng chuông làm thức tỉnh lòng yêu nước, muốn được cống hiến cho đất nước của các bậc hiền tài. Đây không chỉ là bài học về việc xây dựng đất nước giàu mạnh trong xã hội thời Lê mà còn là bài học cho ngày nay khi mà giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu.

Phân tích hiền tài là nguyên khí quốc gia – mẫu 5

Thân Nhân Trung tự là Hậu Phủ quê ở Yên Dũng, Bắc Giang, đỗ Tiến Sĩ làm quan dưới thời Hồng Đức có văn tài lỗi lạc, đức trọng tài cao từng được vua Lê Thánh Tông tin dùng ban chức “Tao đàn phó nguyên suý”.Câu mở đầu cho ta biết Thân Nhân Trung được vua Lê Thánh Tông uỷ thác cho trọng trách. Một cách nói vừa kính cẩn, vừa khiêm nhường:

“Tôi dẫu nông cạn, vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài kí rằng …”.

Các tiến sĩ được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu là những hiền tài, những người học rộng, tài cao và có đạo đức. Tác giả coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” khẳng định nguyên khí có hệ trọng với sự thịnh suy, hưng vong của đất nước. Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ và đầy sức thuyết phục:

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp“.

Câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, ngôn từ trang nhã, phép đối của thể văn cổ biền ngẫu được vận dụng tài tình. Từ xưa đến nay, câu văn này được nhiều nhà viết sử nhắc lại, được nhiều người ghi nhớ và truyền tụng, càng đọc càng suy ngẫm, ta càng thấy rõ: khi hiền tài xuất hiện như hoa mùa xuân thì quốc gia cường thịnh, khi “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu” thì vận nước khó khăn, yếu hèn.

Tiếp theo Thân Nhân Trung nói về sự quan tâm đào tạo nhân tài là chính sách hàng đầu, là điều quan tâm đặc biệt: ‘Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí” làm việc đầu tiên. Triều đình nhà Lê, từ năm 1439 trớ đi đã có nhiều việc làm biệt đãi và quý trọng kẻ sĩ. Nào là “đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật”. Nào là “nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ”. Sau mỗi khoa thi kén được nhiều tiến sĩ, trạng nguyên, “Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất”. Đó là các việc như đặt ra lệ xướng danh, yết bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, đãi yến và vinh quy bái tổ cho những người đỗ đạt cao.

Làm thế vẫn chưa đủ, nên vua Lê Thánh Tông, vị thánh minh lại cho khắc tên các tiến sĩ vào bia đá đặt ở cửa Hiền Quan (Quốc Tử Giám) nhằm mục đích “khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua”. ý nghĩa sâu xa của việc “dựng đá đề danh ở cửa Hiền Quan” thể hiện việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, ươm nguồn nguyên khí quốc gia, dược tổ tiên ông cha ta đặc biệt coi trọng, đâu phải là “chuộng văn suông, ham tiếng hão”.Trách nhiệm, nghĩa vụ của “kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh” phải như thế nào? Phải “tự trọng tấm thân” rèn đức rèn tài, phải “ra sức báo đáp’ ân đức minh quân thánh đế.

Sau khi ca ngợi những tiến sĩ “đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng”, Thân Nhân Trung đã nghiêm khắc chỉ trích “những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác”.

Cuối bài văn, tác giả nói lên lợi ích to lớn, tác dụng to lớn của việc dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu: “kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước”. Lí lẽ sắc sảo, lập luận chặt chẽ, đối ý đối lời mạch lạc, giọng văn trang trọng, càng đọc ta càng thấy ý nghĩa tốt đẹp của việc tổ tiên ông cha ta ngày xưa dựng bia đá đề danh tiến sĩ.

Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi tự hào viết:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến từ lâu”.

Đọc bài “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” ta càng hiểu rõ sâu hơn nền văn hiến của dân tộc. Chính việc “bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí, (dựng bia tiến sĩ đã góp phần to lớn xây nền văn hiến ngày thêm rạng rỡ).Bài học lịch sử được rút ra từ việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là lấy việc giáo dục làm quốc sách, coi trọng việc đào tạo nhân tài, biệt đãi kẻ sĩ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 1100

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống