Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
Đề bài: Cảm nhận của anh chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác)
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm của đoạn trích (Nêu luận điểm của đề).
Không chỉ là một danh y lỗi lạc, Lê Hữu Trác còn là một văn nhân văn nhân tài ba của nước ta ở TKXVIII.
– Nhắc đến ông không thể không nhắc đến “Thượng kinh kí sự”. Tác phẩm phản ánh hiện thực sâu sắc cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa. Giá trị ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”.
2. Thân bài
– (Triển khai vấn đề: Bức tranh chân thực về cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa).
+ Cảnh vật nơi phủ chúa mới lộng lẫy xinh xắn làm sao: Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Tất cả đều là kỳ hoa dị thảo, toàn là những thú quý hiếm mà chỉ có ở nơi đây. Chưa hết thành quách nơi đây mới thực sự là lầu son gác tía. Cung cách xây dựng thật công phu với những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau. Nó tạo cho phủ chúa sự lộng lẫy, nguy nga tráng lệ thật giàu sang mà cũng thật trang nghiêm.
– Bên trong nội cung toàn là những thứ quý hiếm như: mâm vàng, chén bạc, ghế rồng, sập vàng, màn là, trướng gấm toàn những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Cảnh nơi phủ chúa đẹp và giàu sang đến mức tác giả phải thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây”. Trong lúc đời sống của muôn dân lầm than cơ cực thì cảnh sống nơi phủ chúa mới thật xa xỉ làm sao. Điều này chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm đã tỏ ra khen ngợi nhưng vẫn dửng dưng không hề bị quyến rũ bởi sự giàu sang nơi phủ chúa.
+ Cung cách sinh hoạt: Để vào hậu cung, phải đi qua nhiều lần cửa với những thủ tục rườm rà, nhiêu khê.Những tưởng cứu bệnh như cứu hỏa vậy mà t/g lại phải lui ra chờ vì “thánh thượng đang ngự ở đó”. Ông ta còn đang say sưa hưởng lạc với các cung tần mỹ nữ. Xung quanh chúa cha và chúa con có biết bao kẻ hầu người hạ, mặt hoa da phấn, đi lại lặng lẽ như những cái bóng.
+ Nơi ở của thế tử cũng thật khác thường: phải qua 5 – 6 lần trướng gấm, nơi ở tối om, ngột ngạt và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mà bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì “ăn quá no, mặc quá ấm” dư thừa về vật chất mà ốm yếu mới thật đau xót làm sao. Chính tác giả cũng cho người đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của chúa nhỏ chính là kết quả của lối sống xa hoa giàu sang mà thiếu khí trời và không khí tự do. Cách sống nơi & sinh hoạt nơi phủ chúa càng làm nổi bậc giá trị hiện thực của tác phẩm & đoạn trích.
3. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề và liên hệ bản thân.
B/ Bài văn mẫu
Cảm nhận về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – mẫu 1
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác – một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm “Thượng kinh kí sự”. Trong kí sự này, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.
“Thượng kinh kí sự” nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782. Nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được với ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phong kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu bài kí là khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: “Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!”
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “hậu mã quân túc trực”. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.
Sau bên trong, qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.
Đặc biệt là cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ… Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.
Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: “Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ”.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quý, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cuộc cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.
Cảm nhận về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – mẫu 2
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quý tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lý, y thuật.
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.
Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập ký sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao . Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11 – Nâng cao, tập 1 (Nxb Giáo dục, 2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả ký gần gũi với nhà sử học. Tác giả ký coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: bút ký, phóng sự, du ký, hồi ký, nhật kí… Trong số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc – câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: “Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường…”. Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta: Hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc thật .
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.
Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác: “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…..tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ – không ở đâu sánh bằng: “Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kỳ lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ… Đến nội cung của thế tử phải trải qua sáu lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…”
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh. Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.
Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng. Trước tiên, tác giả đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ, sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .
Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, nhà văn càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Tác giả tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quý, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình, phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.
Cảm nhận về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – mẫu 3
Chúng ta thường biết đến Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác là một người thầy thuốc thế nhưng ông còn là một nhà văn. Cuộc đời ông sáng tác không nhiều nhưng đã để lại những tác phẩm có giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh”. Có thể nói qua tác phẩm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ.
Trước hết, “Vào phủ chúa Trịnh” được xảy ra trong hoàn cảnh triều đình chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào.
Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cách thức trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể.
Đầu tiên là quang cảnh nơi đây, bước chân vào phủ chúa tác giả không hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Nào là những cây cối mà chưa thấy ở đâu, những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy cuộc sống nơi đầy giàu sang phú quý. Không chỉ có những loại cây quý hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà phủ chúa còn có những loài chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, loài chim quý hiếm. Đó hẳn là người giàu sang lắm mới có thể trồng những danh hoa kia trong nhà.
Không những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê Hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không ham muốn danh lợi, đặc biệt ông cũng thể hiện thái độ không thích sống một cuộc sống tiện nghi quá như thế. Phải chăng chính vì tiện nghi quá cho nên thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự đầy đủ và giàu sang.
Đặc biệt, cung cách sinh hoạt trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới được vào. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mỹ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng trong phủ chúa thì thật lộng lẫy. Thái tử ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia.
Như vậy qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình.
Cảm nhận về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – mẫu 4
“Thượng kinh kí sự” là tập kí sự nổi tiếng được viết bằng chữ Hán của Lê Hữu Trác. Trong đó, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích trên.
Trước hết, tác giả đã khắc họa một bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa. Khi bước chân vào phủ chúa phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi cửa đều có lính canh gác và có điếm “Hậu mã túc trực”. Trong phủ chúa, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, tiếng chim kêu ríu rít, các loài hoa đua nhau khoe sắc thắm và gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong lại càng lộng lẫy hơn cả. Nào là những đồ đạc mà có lẽ giai nhân trong nhà chưa từng thấy hết, nào là các đồ đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng. Sau trong nội cung của các thê tử phải qua năm sáu lần trướng gấm, các đồ đạc cùng đều được sơn son thếp vàng, trên bày nệm gấm và hương hoa thơm ngào ngạt. Có thể thấy, quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng xa hoa, giàu sang và thâm nghiêm. Đây có lẽ là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước.
Không chỉ là quan sát tỉ mỉ quang cảnh nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác còn được tận mắt chứng kiến cung cách sinh hoạt hằng ngày của chúa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. Đến khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.
Cuối cùng, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời đánh giá về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Như vậy, ở đây tác giả đã bộc lộ sự không đồng tình với cuộc sống nơi đây cũng như thái độ dửng dưng với những cám dỗ vật chất nơi phủ chúa.
Qua phân tích trên, có thể thấy, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã khắc họa vô cùng chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đó chính là giá trị hiện thực mà nhà văn muốn gửi gắm.