Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
Đề bài: Phân tích chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài: Dẫn dắt vấn đề bằng cách giới thiệu về nhà văn Thạch Lam và phong cách văn chương của ông. Sau đó, nêu vấn đề về chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
– Ví dụ mở bài: Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
2. Thân bài:
* Giải thích: Chất thơ là gì?
– Chất thơ là 1 thuật ngữ lý luận chỉ một phẩm chất đặc biệt của văn xuôi. Tác phẩm văn xuôi đc xem là có chất thơ khi nội dung của nó đi sâu vào trạng thái cảm xúc diễn tả diễn biến trong trạng thái chủ quan với những rung động tinh tế.
* Phân tích: Chất thơ được thể hiện trong “Hai đứa trẻ” như thế nào?
– Kết cấu truyện ngắn: “Hai đứa trẻ” dường như không có cốt truyện. Tuy chỉ tập trung vào những diễn biến nội tâm của nhân vật, những mảnh ghép của bức tranh phố huyện nhạt nhòa, mòn mỏi, song Thạch Lam đã để lại ấn tượng đầy ám ảnh cho tác phẩm.
– Khung cảnh thiên nhiên: Đó là một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát với vòm trời huyền bí lấp lánh những vì sao, những con đom đóm lập lòe. Những chi tiết thơ mộng đã làm giảm bớt màu sắc ảm đạm u tối của bức tranh đời.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: Nếu Nam Cao thường đi vào phân tích những quá trình tâm lý phức tạp thì Thạch Lam lại chủ yếu đi sâu vào những trạng thái của tâm hồn mà tâm hồn mới là đối tượng của chất thơ. Nếu Nguyễn Tuân thường đi sâu vào miêu tả những cảm xúc mạnh mẽ dữ dội thì Thạch Lam lại cố vẽ nên hình những cảm giác mong manh, mơ hồ, tinh tế “như những rung động của một cánh bướm non”.
– Nghệ thuật ngôn từ: Giọng điệu nhẹ nhàng, truyền cảm. Ngôn ngữ vừa giàu nhạc điệu vừa giàu tính tạo hình.
* Bình luận: Ý nghĩa của chất thơ?
– Chất thơ trong “Hai đứa trẻ” đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của truyện ngắn này, Thạch Lam đã phát hiện ra được “cái đẹp chứa ở chỗ ko ai ngờ tới”. Đó là cái đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn, cái đẹp mà chỉ tâm hồn tinh tế hồn hậu mới có thể cảm nhận hết được.
– Chất thơ trong truyện ngắn của Thạch Lam thể hiện một trong những tôn chỉ của ông trong việc sáng tạo nghệ thuật. Đó là làm cho tâm hồn con người “thêm trong sạch và phong phú hơn”.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.
– Ví dụ kết bài: Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa chất thơ – cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ – mẫu 1
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện độc lập, mỗi câu chuyện mang âm điệu của một bài thơ trữ tình nhẹ nhàng, đượm buồn. Nhà văn thường đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mơ hồ mong manh và tinh tế. Và nét văn phong ấy ta sẽ gặp qua Hai đứa trẻ, một truyện ngắn giàu chất thơ.
Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Linh, người gốc Hà Nội, xuất thân trong nhóm Tự lực văn đoàn, sau đó ông tách riêng ra sáng tác, bởi văn phong của ông ngoài những yếu tố lãng mạng, trữ tình thì ông còn đưa vào những yếu tố hiện thực, để văn chương không thoát li khỏi cuộc sống. Thạch Lam quan niệm rằng: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn” .
Hai đứa trẻ được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn, truyện có sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình, khắc họa bức tranh phố huyện nghèo, cảm thông sâu sắc trước cuộc sống cơ cực, của những con người quẩn quanh sau lũy tre làng trước cách mạng. Tác giả luôn luôn trân trọng những hy vọng đẹp đẽ, dẫu rất mong manh, hàm súc.
Phải nói Hai đứa trẻ một truyện ngắn giàu chất thơ vừa lãng mạn, vừa cuốn hút bởi sự nhẹ nhàng, truyền cảm trong từng câu chữ. Thạch Lam chẳng chú tâm khai thác một câu chuyện, hay biến cố bất ngờ nào cả, ông thích đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật, vào những quang cảnh, kiếp sống con người, những thứ vốn tưởng bình thường mà lại sâu sắc, và đậm chất nhân văn. Bằng lối tự sự, miêu tả trữ tình đầy rung động, sâu lắng, bằng những hình ảnh giàu xúc cảm, truyền tải được những thông điệp đầy yêu thương của một hồn văn đôn hậu và rất đỗi tinh tế.
Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy hiện lên ba chữ “tàn”, ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Trước hết chất thơ được thể hiện trong khung cảnh ngày tàn, được nhà văn miêu tả bằng một âm thanh rất đặc trưng của miền Bắc thuở trước cách mạng, “tiếng trống thu không”, thời gian cứ chầm chậm trôi một cách bình lặng, rồi tiếng ếch nhái, vắng lặng đến mức nghe được cả tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng. Đêm vắng một tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng, một âm thanh thoáng qua của đoàn tàu, một tiếng trống cầm canh hiu hắt, một tiếng chó cắn xa xăm. Những âm thanh tan loãng vào cuối chiều, khắc họa sâu sắc không khí im ắng của buổi chiều tàn, buồn bã, vắng lặng của khu phố tỉnh lẻ. Tất cả những âm thanh cộng hưởng lại làm người ta liên tưởng ngay đến bút pháp nghệ thuật độc đáo lấy động tả tĩnh, mà chỉ thường xuất hiện trong thi ca phương đông.
Khoảng thời gian dịch chuyển từ chiều đến đêm thật từ từ, chậm rãi, hiện lên qua sự biến đổi màu sắc của sự vật “phương tây đỏ rực như lửa cháy” rồi dần phai nhạt đi, hoàng hôn phủ xuống, “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, rồi dần ngập tràn trong màu đen của bóng đêm. Thời gian thay đổi qua ngòi bút đầy chất thi vị và tinh tế của Thạch Lam, không cần đi sâu vào ấn định một khoảng thời gian nhất định, nhưng qua những chi tiết miêu tả về âm thanh, màu sắc, người đọc đã cảm nhận được khoảnh khắc khi hoàng hôn lịm tắt, bóng đêm bao trùm cảnh vật. Không gian vô cùng yên ả, tĩnh lặng, có thứ buồn man mác, len lỏi đâu đây. Khung cảnh chợ tàn, nghèo xơ xác, buồn hiu hắt, người về hết, thứ còn bỏ lại chỉ là rác rưởi.
Cả đoạn văn mang một nhịp điệu chậm rãi, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh. Câu từ vừa chân thực, lại mang màu lãng mạn, da diết, hình ảnh mang màu sắc thơ mộng, như một bức tranh thiên nhiên cùng phố thị u buồn, chẳng biết là cảnh thấm vào hồn người, hay nỗi lòng con người đang vận vào cảnh sắc, nhưng rất hài hòa ăn nhịp với nhau như một bài thơ lặng lẽ. Những nét vẽ không cầu kỳ kiểu cách, chân thực đã lột tả được cái thần và cái hồn của bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bức tranh đậm chất thơ buồn ấy, có sự xuất hiện của những kiếp người tàn. Hình ảnh cô bé Liên và cậu em An với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, sơ sài, mấy đứa trẻ con nhà nghèo, chị Tý, bà cụ Thi hơi điên điên, và hình ảnh của mẹ Liên thấp thoáng hiện ra qua suy lời của hai chị em.
Chất thơ còn thể hiện qua việc tác giả đi sâu vào miêu tả bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên. Một cô bé có tâm hồn ngây thơ, non nớt, nhưng lại đầy tinh tế và nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Liên cảm nhận được cái mùi vị riêng của đất quê, sau một cái phiên chợ tàn “một mùi âm ẩm bốc lên”, mang theo cái sức nóng còn sót lại của ban ngày, khó chịu mà quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi của đất, của quê hương. Rồi chi tiết “Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối, và cái buồn của buổi chiều khuya thấm thía vào cái tâm hồn ngây thơ của chị”, cái buồn của cảnh màn đêm sập xuống xuyên thấm vào tâm hồn của Liên, hay cũng có thể là nỗi buồn của Liên làm buồn thêm cảnh, chúng tương hỗ cho nhau, cân xứ nhịp nhàng, tạo nên một khung cảnh trữ tình, nên thơ, man mác u buồn. Một nét đẹp nữa trong tâm hồn Liên là tấm lòng trắc ẩn đầy yêu thương, quan tâm đối với người xung quanh, hỏi han ân cần với chị Tý, cách Liên kể về hoàn cảnh của chị thể hiện đầy ái ngại, thương xót cho cuộc đời khổ cực của chị. Với bà cụ Thi là sự thơm thảo, nắm bắt rõ được thói quen, cùng ánh mắt nhìn dõi theo cho đến khi cụ khuất bóng đầy buồn bã, cảm thông cho một kiếp người tàn tạ. Tình thương, lòng nhân hậu của nhân vật Liên càng được thể hiện rõ trong khi cô quan sát những đứa trẻ con nhà nghèo, Liên “động lòng thương, nhưng chính chị cũng không có tiền để cho chúng” bởi gia cảnh của chị nào có hơn gì chúng đâu. Dù tuổi đời còn nhỏ nhưng Liên đã thể hiện mình là một con người có tâm hồn sâu sắc, hiểu biết.
Và đỉnh điểm của chất thơ trong Hai đứa trẻ đó là cảnh chờ đoàn tàu khuya của những con người phố huyện, họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chuyến tàu như “mang một chút thế giới khác đi qua”. Với người dân phố huyện nó có một ý nghĩa vô vùng sâu sắc, mang lại một chút ánh sáng, một chút vui tươi trong khoảnh khắc thoáng qua, như một món quà của cuộc sống. Bởi trong cái đói khát, tối tăm ấy ít ra vẫn còn có điều gì đó khiến họ chờ đợi, hy vọng được. Ánh sáng lấp lánh ấy tượng trưng cho khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người về một cuộc sống tươi đẹp hơn. Riêng với chị em Liên chuyến tàu còn mang ý nghĩa khác. Với An chuyến tàu như một niềm vui thú, thỏa mãn cái trí tưởng tượng phong phú của cậu bé tuổi ăn tuổi lớn, chẳng được tiếp xúc với thứ đồ chơi, hay cảnh sắc huy hoàng mới lạ bao giờ. Còn Liên lặng lẽ mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, sáng sủa, vui vẻ và huyên náo khác hẳn cái phố huyện nghèo nàn tối tăm này. Tâm hồn Liên là sự yên tĩnh, cảm xúc mơ hồ mong manh, con tàu gợi nhắc về một thời dĩ vãng đẹp đẽ tuy đã xa lắm rồi, giúp Liên nhận thức rõ ràng hơn về cuộc sống bế tắc, khốn khổ của mình và những người xung quanh.
Hai đứa trẻ là bài ca êm đềm về tình yêu quê hương đất nước, gợi nhắc nên một vùng quê Việt Nam ở Bắc Bộ, một vùng quê nghèo, buồn nhưng thấm đẫm chất thơ. Thạch Lam đã viết: “Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Chắc hẳn phải có một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và sự gắn bó sâu nặng với quê hương thì nhà văn mới viết ra được những câu văn giàu chất thơ và đẹp đẽ như một bản tình ca man mác buồn. Nội dung của truyện ngắn đậm chất thơ, chất trữ tình, tiêu biểu cho bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam. Là niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc sống cơ cực của người dân nghèo giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Hình ảnh đoàn tàu là tượng trưng cho sự khao khát về một cuộc sống tươi sáng hơn khi “mang một chút thế giới khác đi qua”, khơi gợi cho Liên về những ký ức tươi đẹp của Hà Nội. Thông qua nhân vật Liên tác giả muốn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn: Trong cuộc sống, tình yêu thương là quan trọng nhất, nó gắn kết mọi thứ lại với nhau, đem đến một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Biểu trưng cho tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam, cho văn phong bình dị, gần gũi nhưng giàu chất thơ trữ tình độc đáo.
Bằng văn phong độc đáo, viết truyện nhưng không có cốt truyện, ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh gần gũi và bình dị, nhưng nhìn thấy trong đó là chất thơ đong đầy, lãng mạn và dịu êm. Cả câu chuyện như một bức tranh làng quê buồn bã, nhưng len lỏi đâu đây là niềm khát khao về một cuộc sống tươi đẹp hơn, thoát khỏi cái bế tắc, tăm tối của cuộc sống nơi phố thị nghèo nàn.
Chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ – mẫu 2
Truyện của Thạch Lam thường không có cốt truyện. Lúc nào ta cũng cảm thấy ông lặng lẽ ngắm nhìn cảnh vật và con người, đưa ra những nhận xét, những cảm nhận tinh tế, dịu dàng. Cách kể, cách tả của Thạch Lam đầy ấn tượng, ít nhiều mơ hổ, xao xác, bâng khuâng, tạo nên cái dịu buồn vương vấn. Nét đặc sắc của truyện ngắn, bút kí của Thạch Lam là chất thơ; chất thơ ấy đã tạo nên cái ý vị, cái nhã thú mà Nguyễn Tuân đã có lần nói đến.
Cũng như “Hà Nội ba mươi sáu phố phường, “Dưới bóng hoàng lan”, thì truyện “Hai đứa trẻ đểu thấm đẫm và man mác chất thơ; chất thơ của cảnh vật, chất thơ của tình người nơi phố huyện nghèo hơn sáu bảy mươi năm về trước.
Câu văn xuôi của Thạch Lam nhẹ nhàng, trong sáng, gợi tả và biểu cảm. Cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo rất điển hình cho mọi miền quê ngày trước: tiếng trống thu không, “phương tây đỏ rực như lửa cháy”; những đám mây chiều hè “ánh hồng như hòn than sắp tàn”, dãy tre làng “đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Tiếng muỗi vo ve. Gió mát, “chiều êm ả như ru”. Bấy nhiêu âm thanh, bấy nhiêu đường nét, màu sắc của cảnh vật đều dịu buồn, man mác bâng khuâng. Đó là chất thơ đẹp mà buồn. Đó là cái dư vị của phố huyện nghèo, nơi “phố phường tiếp giáp với bờ sông”(Tú Xương) mà nhiều người đã biết.
Bóng tối nơi phố huyện nghèo được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Thạch Lam đã tả ngọn đèn con của chị Tí, cái bếp của bác Siêu “chiếu sáng một vùng đất cát”, ngọn đèn trong cửa hàng của Liên “thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Chút ánh sáng le lói ấy đã tô đậm cái bóng đêm phủ dày nơi phố huyện nghèo, và đó cũng là những kiếp người lầm than, của chị em Liên, của những đứa bé lang thang trên nền chợ, là cuộc đời nghèo nàn lam lũ của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm, của bà cụ Thi “hơi điên” nghiện rượu.
Người đọc rất thú vị cảnh bầu trời đêm, qua ánh mắt vời vợi ngắm nhìn của hai đứa trẻ. Sao đêm “lấp lánh”. Đom đóm bay “là là” mang theo bao “vệt sáng”. Sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông là điểm nhìn và tìm kiếm, là niềm vui thơ ngây, nho nho của hai chị em Liên và An. Đỏ cũng là chất thơ của sự sống, Thạch Lam như san sẻ và chia vui cùng hai đứa trẻ.
Chất thơ của truyện “Hai đứa trề Mà những chi tiết nói đến cuộc đời tăm tối, lầm than của những kiếp người bé nhỏ nơi phố huyện nghèo. Hình ảnh bà cụ Thi với tiếng cười “khanh khách”, với cử chỉ “ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch” cút rượu ti, ra về, đi “lẩn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách”. Đó còn là hình ảnh bác phở Siêu, là mẹ con chị Tí, bán hàng nước và mò cua bắt tép, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu “bần bật”, với hình ảnh đứa con lê la trên mặt đất. Chất thơ trong truyện “Hai đứa trẻ” là sự xót thương, sự đồng cảm của tác giả đối với những kiếp người lầm than trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Chất thơ đó là giá trị nhân đạo của truyện “Hai đứa trẻ”.
Chất thơ của truyện còn là sự miêu tả một cách tinh tế tâm hồn, tâm lí của hai đứa Kẻ. An trước khi ngủ còn dặn chị đánh thức dậy khi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên tự bào về cái dây xà tích vì chị cảm thấy mình là một cô gái đã “lớn và đảm đang”. Chỉ bái mùi âm ẩm của đất cát mà Liên cảm nhận đó là mùi vị của quê hương. Tâm trạng của Liên cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua đâu chỉ để bán hàng mà còn là để mơ tưởng “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”, là để sống lại những kỉ niệm đẹp thời thơ ấu: bố còn đi làm, mẹ có nhiều tiền Liên được đi chơi Bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.
Có thể nói, chất thơ của truyện “Hai đứa trẻ” là giá trị nhân đạo sâu sắc thức tỉnh hồn người những kiếp sống lầm than. Chất thơ ấy vừa tạo nên màu sắc lãng mạn và nội dung hiện thực truyện “Hai đứa trẻ một tác phẩm kết tinh phong cách nghệ thuật của Thạch Lam về truyện ngắn vậy.
Chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ – mẫu 3
Trên diễn đàn văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định. Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn bởi tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân nhận xét: “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà còn ở phương diện nuôi dưỡng tinh thần. Nó giúp ta thanh lọc tâm hồn. Vì mỗi truyện của ông “như một bài thơ trữ tình chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm (…) trước những biến thái của cảnh vật và lòng người” (Ngữ văn 11- chương trình cơ bản, trang 94). Truyện ngắn Hai đứa trẻ là “một bài thơ trữ tình” như thế.
Thạch Lam tuy là thành viên trong Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng trong tác phẩm một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành. Thế giới nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp. Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của Thạch Lam thường tìm kiếm nơi ẩn náu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thể con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại, để xót mình và thương người, đệ bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ, không dám nhìn về tương lai, mang nặng một tình cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau. Còn cảm quan của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ “niềm xót thương”. Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn bao bọc trong một không khí trữ tình đầy mến thương tỏa ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả.
Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình. Mỗi truyện ngắn có cấu tứ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế! Âm điệu man mác buồn bao trùm hầu hết các thiên truyện từ mở đầu cho đến kết thúc. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu. Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dìu dịu ở nơi đây” khiến ta vương phải. Hai đứa trẻ là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là một bài thơ trữ tình đầy xa xót.
Truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện nghèo gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như những chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh mà một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ chuyến thâu đêm này rồi mới chịu đóng cửa hàng. Nguyên Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này dường như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tối “đêm rối hao bọc chung quanh”. Nó chỉ diễn biến bên trong “tâm hồn nhà thơ của hai chị em Liên, An trong một buổi tối cua cái thường ngày tưởng như “tẻ nhạt”, không cỏ gì”… Song vượt lên trên cái thường ngày ấy, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thời gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị thôn quê, nhiều bóng tối mà chói sáng mối tình thương yêu hiền hòa, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ tỏa lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện nhưng chất chứa bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mạo phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngày, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhòe đi trong nắng nhưng đến chiều thì bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện, Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê. Biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui, tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ, tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngõ tối. Rác chỉ là những phế thải vớ vẩn “rác rười, vỏ bưởi, vỏ thị. lá nhãn và lá mía, thanh nứa, thanh tre…”. Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, luẩn quẩn trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị tỏa ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn. Đó là mùi lá mía, vỏ bưởi, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phai tàn tạ héo úa, lụi dần.
Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ, ánh sáng và bóng tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần. Ban đầu là “phương tây đỏ rực như lửa cháy, và những đám mây lửa than sắp tàn” sau đó là bóng mờ đen của luỹ tre làng và cuối cùng bao trùm lên phố huyện là bóng tối mênh mông. Tín hiệu sáng chỉ còn ngọn đèn hoa kì của chị Tí, ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ, bóng tối là nghèo nàn và cô đơn. Mở đầu truyện ánh sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng đó báo hiệu rõ màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đỏ. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa mỏng manh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ, hoặc tỏa trên cái chõng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện mót sự tàn lụi bởi cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rời rạc, chạm, lè tẻ và cứ tắt lịm dần. Những âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng chiếm lĩnh không gian, thời gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, quy tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả, nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi của thời gian nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiên cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc họa rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thỏa mãn với cảnh đời hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán rong hơn một ngấn rượu trong chiếc cúc bé nhỏ… Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện vợi nhịp sống quẩn quanh. Ban ngày mò cua bắt tép, tôi đến chị mới dọn cái hàng bán nước. Trông chờ vào vài khách xuồng tàu ga xép, dăm ba người lính lệ là quá bấp bênh kiếm sống. Cái đáng sợ là biết bán không được gì mà vẫn cứ dọn hàng. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sông cẩm chừng, cầm cự, giao tranh, giành giật trong sự đói nghèo. Cách nhà văn miêu tả chi tiết chị Tí trả lời câu hỏi của Liên – “Chị Tí đê chổng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời Liên cho ta thấy nhịp sống chậm chạp, luẩn quẩn, bế tắc của đời sống gia đình này. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thức mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác xẩm tóp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không thể có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ Thi, một bà già hơi điên là hình tượng bất lực của cả một đời đổi chọi mưu sinh không thành. Đến tận tuổi già tàn lụi, héo lìa, đành chấp nhận. Hàng đêm lần ruột tượng lấy ba đồng xu mua cút rượu, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, khanh khách cười đi vào bóng đêm, cho ta cảm giác rợn người về một kiếp sóng sắp đến hồi tàn. Nhân vật này chỉ xuất hiện qua vài dòng ít ỏi nhang đã ám ánh người đọc, đánh thức trong họ lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiên cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu” mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt, nhưng cuộc sống của Liên cũng cám cảnh, cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác. Đó là bi kịch tinh thần bởi những người kia khổ mà không biết mình khổ, còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Niềm vui duy nhất được khuây khỏa nỗi hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua “đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Ánh sáng của đoàn tàu là máng ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ song cũng chỉ vụt lóe lên nhanh như một vì sao băng để rồi vĩnh viền tắt lịm trong màn đêm khiến ta phải ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lại” Hà Nội một kí ức không rõ rệt. Hà Nội là một vầng sáng rực và lấp lánh Hà Nội nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà Nội xa xăm”. Cái cảnh tượng của quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với tăm tối mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạn và hiện thực, giấc mơ đẹp và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên hiến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng cựa đoàn tàu là ánh sáng của mơ ước, nó chí thoáng qua, để rồi tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mang, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của Thạch Lam “chứa đựng biết bao tình cảnh chân thành và nhạy cảm”. Nỗi thương cảm của Liên đối với mấy đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thach Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật đẩu nói cái cảm quan xót thương của mình, Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại. Phải chăng đó là khát vọng day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, có mà như không chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hội Việt Nam về sự trí trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn hóa thời ấy ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ một nét hoàn cảnh, tâm lí thời đại mà Nam Cao — một “bộ máy cảm quan” tài năng cùng thời cũng đã từng thốt lên: “Cuộc đời là những tháng ngày vất vả”.
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi câu tứ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ. Cấu tứ của truyện là câu tứ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có dụng ý sử dụng mô típ bóng tối. Bóng tối bao trùm cảnh vật và con người được tác giả miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần bằng những hình ảnh và ngôn từ khác nhau. Bóng tối là “buổi chiều lầm than sắp tàn”, “đèn đen lọi”, “chiều, chiều rồi”, “bóng tối ngập đầy “, “bước của buổi chiều”, “ngày tàn”. Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối. Bóng tối đến với tiếng trống thu không từ trên chòi cao, bóng tối sắp đến với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mỏ, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lại, bóng tối được lặp đi lặp lại như một cái gì hào hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thầm của mọi sinh vật. Nó là không gian nghệ thuật của tác phẩm và không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện “tối đen chị mới dọn cái hàng dưới gốc cây bàng”, về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra … Bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cười khanh khách nhỏ dần”. Một cụ Thi cuộc đời không rõ nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn nỗi lòng u uất cứ chìm trong bóng tối. Vợ chồng bác Xẩm thu gọn cuộc đời trên manh chiếu chật hẹp trong đêm. Với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn những tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tối. Bóng tối ngập đầy đôi mắt Liên. Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng chờ đón đoàn tàu. Khi tàu vụt qua, Liên ngập dần vào giấc ngủ yên tĩnh trong một phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối …
Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giả bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu tứ như một bài thơ trữ tình.
Việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên thường rất hiếm thấy trong các tác phẩm của văn học hiện thực. Nếu ta coi Hai đứa trẻ là một tác phẩm hiện thực, ta sẽ thấy Thạch Lam luôn luôn miêu tả thiên nhiên khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc họa được cảm giác mơ hồ về giờ khắc của ngày tàn, về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi với những tứ thơ lãng mạn “mang mang thiên cổ sầu”. Nét hòa đồng với thiên nhiên một cách dịu dàng của làng quê Bắc Bộ là một nét cảm giác rất quen thuộc và gần gũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.
Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lời văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động. Truyện cứ trải dài ra như một tình ca buồn, lắng sâu thanh lọc hồn ta, chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam .
Khi nói “mỗi truyện là một bài thơ trữ tình” thì người nói muốn nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hài hòa để tạo nên tác phẩm. Văn phong “điềm đạm nhưng chứa bao tình cảm mến yêu chân thành với lòng xót thương sâu sắc của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong Hai đứa trẻ, đúng như cảm nhận của Nguyễn Tuân: “Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ dư vị và cái nhã thú của phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.
Chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ – mẫu 4
Nhà văn Thạch Lam được biết đến với phong cách viết truyện nhẹ nhàng mà sâu sắc. Những tác phẩm của ông thường không có cốt truyện, nhưng lại để lại dấu ấn sâu sắc cho người đọc bởi những suy tư, trăn trở về đời, về người, những triết lý sống sâu sắc được gửi gắm và tác phẩm. Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của ông, ta bắt gặp một câu chuyện như được kể bằng sự thủ thỉ, tâm tình. Nhận xét về truyện ngắn trên, có ý kiến cho rằng: “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đậm chất thơ.
“Chất thơ” được hiểu là tính chất trữ tình thường được xuất hiện trong một tác phẩm trữ tình. Nó được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng với vẻ đẹp của cách biểu hiện để tạo ra cho người đọc những rung động thẩm mỹ. Biểu hiện của chất thơ trong truyện ngắn đó là: một truyện ngắn mà đậm chất thơ khi nhà văn chú ý đến việc khai thác và biểu hiện một cách tinh tế mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc chính mình. Tác giả chú ý nhiều hơn đến việc khơi gợi cảm xúc của chính mình. Và điều quan trọng là những cảm xúc, tâm trạng ấy được thể hiện bằng những chi tiết, hình ảnh gợi cảm, lối văn trong sáng, phù hợp để diễn tả nhịp điệu tâm hồn.
“Hai đứa trẻ” là truyện ngắn kể về cuộc sống của người dân phố huyện Cẩm Giàng qua hình ảnh một vài nhân vật tiêu biểu. Tại đây, cuộc sống của con người diễn da lay lắt, tù túng. Ánh sáng ở đây bị bao trùm bởi bóng tối, sự xuất hiện của ánh sáng có chăng cũng chỉ là những hột sáng, khe sáng, quầng sáng… Cuộc sống của con người có sự nghèo đói mà tù túng. Tuy nhiên, ở đó vẫn có những đứa trẻ có tâm hồn trong sáng, biết mộng mơ, biết hướng đến, hy vọng về những điều tốt đẹp hơn như chị em Liên. Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện cuối cùng của tác phẩm như thổi một làn gió mới vào cuộc sống nơi phố huyện Cẩm Giàng, mở ra những hy vọng mới về cuộc đời mới cho những con người nghèo khó nơi đây.
Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” thể hiện ở vẻ đẹp cảm xúc, tâm trạng của nhân vật Liên. Khi chiều đến, Liên thấy “lòng mình buồn man mác’. Liên có những suy tư và nghĩ ngợi lúc đêm về. Chi tiết đó thể hiện một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của nhân vật. Liên còn là một cô bé có tấm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Cô thương cảm và cảm thấy xót xa khi nhìn thấy những em bé đi nhặt rác, những quan sát của Liên về các nhân vật khác thể hiện cô bé là người có giàu lòng trắc ẩn, đa cảm và có suy nghĩ rất nhân hậu. Liên thương cảm cho tất cả những con người đang ngày đêm bấu víu lấy cuộc sống ở khu phố huyện nghèo này. Liên còn là một cô bé biết hướng về tương lai, biết khao khát ước mơ. Điều đó thể hiện rõ nhất qua cảnh đợi tàu của hai chị em. Cả hai đợi tàu, cũng là đợi được sống trong kí ức của những ngày đầy đủ, được sống trong một không gian ngập tràn âm thanh và ánh sáng. Liên biết khao khát, ước mơ, hướng đến một cuộc sống nhiều ánh sáng, đủ đầy.
Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn là vẻ đẹp, cảm xúc và tâm trạng của tác giả Thạch Lam. Đằng sau nhân vật Liên, người đọc thấy thấp thoáng bóng dáng của nhà văn Thạch Lam: dịu dàng, tinh tế, giàu cảm xúc, giàu tinh thần nhân đạo. Thạch Lam viết truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bằng chính những trải nghiệm và kí ức tuổi thơ của mình ở phố huyện Cẩm Giàng. Vì vậy, người và cảnh hiện lên rất giản dị và chân thực. Liên và An là một góc nào đó trong cuộc đời của nhà văn Thạch Lam, hình bóng của Liên là một phần hình ảnh người chị của tác giả. Mẹ con chị Tí có thể là hình bóng của người mẹ Thạch Lam. Đằng sau những cuộc đời lam lũ vất vả ấy, người đọc nhận thấy một Thạch Lam rất gần gũi, rất đôn hậu và chan chứa yêu thương với cuộc sống và con người.
Thạch Lam xây dựng một thế giới hình ảnh vừa chân thực vừa xúc động, vừa gợi cảm. Nhà văn đã lựa chọn những chi tiết đặc sắc để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Mạch truyện được triển khai đậm chất trữ tình. Truyện không có cốt truyện mà nó vận động theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Ngòi bút của Thạch Lam hướng nội là đi sâu vào thế giới bên trong của nhân vật, để miêu tả những biến thái tinh vi của lòng người, để nhận thấy những cảm xúc rất mong manh, mơ hồ và thoáng qua.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đậm chất thơ, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
Chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ – mẫu 5
Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn. Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn, thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. Mỗi truyện của ông như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọng điệu điềm đạm, thâm trầm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Đặc biệt, tác phẩm đã thể hiện đậm nét chất thơ trong truyện ngắn.
Vốn là một nhà văn có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, Thạch Lam đã cho ra đời nhiều tác phẩm thấm đẫm chất thơ như “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan” và đặc biệt là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Cốt truyện “Hai đứa trẻ” khá đơn giản, đó là cảnh một phố huyện nghèo được miêu tả trong một khoảng thời gian ngắn từ chiều muộn cho đến đêm. Nơi ấy, có những người dân nghèo, ngày nào cũng tái diễn những công việc đơn điệu, buồn tẻ và đặc biệt trong thế giới ấy có hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một cửa hàng nhỏ, đêm chúng cố thức để đợi chuyến tàu đi qua. Đọc tác phẩm ta không thể quên được những dư âm trong trẻo và tươi sáng bởi ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, ngòi bút tài hoa giàu cảm xúc, giọng văn ngân nga như có nhạc điệu, vẻ đẹp bình dị của cuộc sống đời thường, những tình cảm ngây thơ cùng sự bay bổng của những niềm mong ước xa xôi….
Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trước tiên được tỏa ra từ khung cảnh thiên nhiên của buổi chiều tà. Đó là bức tranh quê bình lặng, êm đềm “Chiều chiều rồi, một buổi chiều êm như nhung và thoảng qua giáo mát”. Buổi chiều ấy được gợi lên từ âm thanh của tiếng trống thu không báo hiệu một ngày sắp tàn, từ tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, cùng tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve. Nổi bật trong bức tranh buổi chiều ấy là màu đỏ rực như lửa cháy của phương tây, điểm thêm là màu hồng như hòn than sắp tàn của những áng mây chiều. Bức tranh ấy còn có những đường nét thật rõ rệt “Dãy tre làng trước mặt đã bắt đầu đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
Chỉ vài chi tiết miêu tả nhưng Thạch Lam đã làm bức tranh quê hiện lên thật gần gũi, bình dị. Bức tranh ấy được cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ của Liên và An “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm”.
Cát trên phố lấp lánh trên những chỗ mấp mô. Thấp thoáng trong bức tranh ấy là hình ảnh của mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang lom khom, tìm tòi những thứ còn sót lại sau buổi chợ, chúng nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì còn có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Chứng kiến những cảnh đời ấy Liên thấy thương chúng nhưng chị cũng không có tiền để cho. Và đọng lại trong tâm hồn Liên là một nỗi “buồn man mác” trước khoảnh khắc của ngày tàn. Có lẽ nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh nơi phố huyện nghèo nơi đây bằng chính kí ức tuổi thơ của mình, khi ông cùng gia đình có một thời gian chuyển về sống ở phố huyện Cẩm Giàng(Hải Dương) nên cảnh vật và con người nơi đây hiện lên rất chân thực, gần gũi và màu sắc trữ tình – chất thơ có phần đậm nét hơn.
Sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn là một đặc điểm nổi bật trong phong cách sáng tác của Thạch Lam, chính sự kết hợp ấy đã giúp Thạch Lam tạo nên những trang văn vừa mang hơi thở của đời sống, vừa nhẹ nhàng, thanh thoát giàu chất thơ cho tác phẩm “Hai đứa trẻ”.. Có lẽ chất thơ đã thực sự lan tỏa khi nhà văn viết về cuộc đời của những con người nơi phố huyện nghèo. Chính những rung cảm tinh tế mà nhẹ nhàng, Thạch Lam đã làm cho chất thơ len lỏi sâu vào tâm hồn người đọc, khiến họ không thể rời mắt khỏi cuộc sống của những con người nơi đây – một cuộc sống mờ nhạt, buồn tẻ. Và dường như đằng sau những câu văn ấy là tiếng thở dài đầy xót thương cho những kiếp người lầm lũi nơi phố huyện của Thạch Lam.
Để làm nổi bật lên cuộc sống lầm lũi, khắc khổ của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam đã nhấn mạnh đến thời gian nghệ thuật. Thời gian được đề cập đến ở đay là lúc phố huyện về đêm. Khi phố huyện về đêm, bóng tối phủ mờ lên cảnh vật, đè nặng lên cuộc đời của những người dân nơi đây. Bóng tối là một hình tượng nghệ thuật đầy ám ảnh, nó trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Bóng tối đã phủ đày khắp nơi. Tối hết cả, từ con đường ra sông, con đường qua chợ về nhà đều chứa đầy bóng tối. Bóng tối tràn lan, đậm đặc khiến cho tiếng trống cầm canh đánh rung lên một tiếng khô khan rồi chìm ngay vào bóng tối.
Bóng tối chính là hình tượng ẩn dụ cho cho cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, đến một lúc nào đó nó sẽ “mòn ra”, “mục ra”, “rửa đi” và tan vào trời đất. Cũng có đôi lúc nhà văn đã cho thắp lên vài ánh sáng nhưng đó chỉ là thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, là ánh sáng của những con đóm đóm bay là là trên mặt đất, là ánh sáng của chấm lửa bay lơ lửng nơi gánh phở của bác Siêu, là những khe sáng, hột sáng lọt qua phên nứa… Đặc biệt, hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí nhắc đi nhắc lại tới bảy lần trong tác phẩm, nó trở thành nỗi ám ảnh về số phận, kiếp người nơi phố huyện này, đồng thời gợi lên sự nhỏ bé đáng thương đến tội nghiệp của ánh sáng.
Đêm là lúc con người, vạn vật được nghỉ ngơi. Đáng lẽ đây là khoảng thời gian để con người được thư giãn sau một ngày dài làm việc vất vả. Thế nhưng đối với những con người nơi đây, họ vẫn phải đốt đêm làm ngày để tiếp tục kiếm sống. Họ phải làm việc để kiếm từng đồng lẻ, dẫu biết rằng “chẳng kiếm được là bao” nhưng họ vẫn phải làm để làm duy trì sự sống. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí lam lũ, vất vả. Ban ngày chị đi mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước ra để bán. Gọi là hàng nước cho oai chứ hàng của chị chỉ có lèo tèo vài phong thuốc lào và ấm nước chè xanh. Sức ám ảnh trong “Hai đứa trẻ” còn được gợi lên qua tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Tiếng cười khanh khách trong vô thức của bà đã xoáy sâu vào tâm thức của người đọc về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện.
Rồi cuộc sống ấy sẽ đi về đâu? Thê lương nhất trong miền đời bị lãng quên ấy là gia đình bác xẩm. Gia đình bác sống nhờ vào của bố thí của thiên hạ. Hôm nay chiếc thau trắng để trước mặt vẫn còn trống rỗng. Bác góp vui bằng mấy tiếng đàn bầu rung lên bần bật nghe thật não nề. Gia đình bác ngồi trên manh chiếc rách, thằng con bò ra ra khỏi chiếu để nghịch cát bẩn bên đường. Đâu đó còn là hình ảnh của bác Siêu với gánh phở kẽo kẹt trên vai. Món hàng mà bác bán là một món quà xa xỉ, không bao giờ mua được không chỉ đối với chị em Liên mà còn đối với những con người nơi đây. Bóng bác trải dài mênh mông cả một vùng thật thê lương và ảm đạm.
Chị em Liên mặc dù có cuộc sống khá giả hơn nhưng cũng khổ hơn bởi cả hai đều bị quá khứ ám ảnh. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng vì bố mất việc mà phải chuyển về nơi đây. Dù đang tuổi ăn, tuổi chơi nhưng hai chị em phải giúp mẹ trong coi cửa hàng tạp hóa nhỏ. Lúc nào chị em Liên cũng mơ tưởng về một Hà Nội sáng rực, xa xăm với cuộc sống đầy đủ và sung túc. Quá khứ ấy như một minh chứng cho cái buồn thê lương, bế tắc ở hiện tại và nó như một dự cảm về tương lai mờ mịt. Có ai đó đã từng nói rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, phải chăng chính vì lẽ đó mà trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam đã miêu tả rất chân thực về cuộc sống nhàm chán, mờ nhạt của những con người nơi đây. Dù mỗi con người một hoàn cảnh nhưng ai cũng nhếch nhác, lam lũ đến tội nghiệp, người lớn như cây héo hắt, còn trẻ con thì như những mầm non còi cọc không có tương lai.
Nếu nhà văn Nam Cao thường đi vào phân tích những quá trình tâm lí phức tạp thì Thạch Lam lại chủ yếu đi sâu vào những trạng thái của tâm hồn mà những rung động trong tâm hồn mới là đối tượng của chất thơ. Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã vẽ nên hình những cảm xúc mong manh, mơ hồ thật tinh tế như “ những rung động của một cánh bướm non”. Và trong những rung động nhẹ nhàng, tinh tế ấy đã được Thạch Lam thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên.
Khi chứng kiến cảnh chiều về nơi phố huyện Liên thấy tâm hồn nhẹ nhàng lay động theo cảnh chiều quê. Ngồi bên “mấy quả thuốc sơn đen” Liên cảm nhận được hình ảnh bóng tối ngập đày dần, “đôi mắt chị chứa đầy bóng tối”. Mùi âm ẩm của rác rưởi, mùi cát bụi và hơi nóng lan tỏa cũng khiến cho Liên cảm nhận đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương, xứ sở này. Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta như thấy rõ được tình cảm của Thạch Lam dành cho nhân vật của mình. Đó dường như là sự cộng hưởng giữa cảm xúc và hiện thực để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
Chất thơ trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” còn được thể hiện rõ hơn bao giờ hết qua những hi vọng, khát khao của những con người nơi phố huyện nghèo. Trong hoàn cảnh tối tăm của cuộc đời họ vẫn hi vọng và trông đợi vào một cái gì đó tươi sáng hơn ở tương lai. Dù có mệt mỏi, buồn ngủ thì họ vẫn cố thức để chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Chuyến tàu ấy ngỡ như rất bình thường nhưng nó lại có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với những con người nơi đây. Tàu chưa đến họ mong ngóng đợi chờ, khi tàu đến họ rất đỗi mừng vui dù theo lời An thì “Tàu hôm nay không đông” và “kém sáng hơn” nhưng thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang lại khác hẳn với thứ ánh sáng leo lét ở nơi đây.
Chính thứ ánh sáng ấy đã khiến họ được sống trong niềm vui, hạnh phúc trong chốc lát. Đoàn tàu đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua cảnh tối tăm của hiện tại, hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Đối với chị em Liên, đợi tàu không phải vì nhu cầu về vật chất mà đơn giản, đoàn tàu ấy đã làm sống dậy quá khứ xa xăm, tươi đẹp một thời, phá tan không khí tù túng, ngột ngạt nơi đây. Thể hiện thành công tâm trạng đợi tàu ấy, nhà văn Thạch Lam đã gợi lên niềm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé đang sống trong nghèo nàn, tăm tối và tù túng để từ đó lay tỉnh tâm hồn của họ để họ vươn tới ánh sáng của tương lai.
“Nghệ thuật làm nên linh hồn của tác phẩm”. Sẽ rất thiếu sót nếu ta không đề cập tới chất thơ được thể hiện qua nghệ thuật. Qua truyện ngắn, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực vừa sống động với những không gian và thời gian có sự vận động, biến chuyển. Thạch Lam còn xây dựng được những chi tiết nhỏ nhưng lại thể hiện được một cách tinh tế và sâu sắc thế giới của những cảm xúc mơ hồ, mong manh của con người. Chính nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm: “Nhà văn cốt nhất là phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn chính mình” và ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch lam đã làm được điều đó.
Bản chất vấn đề là thế giới nghệ thuật Thạch Lam nhẹ nhàng, thầm lặng đã đánh thức sự sống tâm hồn người, kết đọng yêu thương vĩnh viễn. Thạch Lam là lối văn chương cứ như của ngày hôm nay, không quá lời khi nói ông là một đỉnh cao của truyện ngắn nội cảm. Sau một hành trình dài văn học ta gắng sức đi tìm cái thật sự là truyện, người ta lại ngỡ ngàng ngước lên nhìn thấy Thạch Lam đã đón đợi từ lâu. Tuổi thơ Thạch Lam gắn với phố huyện có những người thân yêu và ga tàu hỏa Cẩm Giàng thương nhớ…khiến nhiều người nhầm tưởng lối tự truyện đồ lại quá khứ một cách thông tục, bình thường.Thực ra, quá khứ tuổi thơ là một tín hiệu thẫm mĩ để ông vươn lên khác thường, Nguyễn Tuân gọi là quá vãng, quá vãng cộng với những rung ngân tâm hồn chính là văn chương Thạch Lam. Quá khứ trở thành mộng tưởng đắm say cho Hai đứa trẻ.Có thể tìm sự đồng nhập này trong mơ tưởng của Liên.
“Hai đứa trẻ” là truyện không có cốt truyện. Mạch truyện không vận động theo mạch những tình tiết mà vận động theo tâm hồn, cảm xúc của nhân vật. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện. Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ thì Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút của mình. Tất cả những đặc sác nghệ thuật trên những đặc sắc nghệ thuật trên được Thạch Lam sử dụng một cách thành thạo qua giọng văn thủ thỉ, nhẹ nhàng, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện. Qua tác phẩm Thạch Lam đã phát hiện ra được “Cái đẹp ẩn chứa ở chỗ không ai ngờ tới”. Đó là vẻ đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn mà chỉ có những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận hết được.