Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
Đề bài: Phân tích tâm trạng các nhân vật trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về cây bút hiện thực Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
– Trong đoạn trích, tâm trạng các nhân vật trước cái chết của cụ cố Tổ là một khía cạnh làm nên chất trào phúng cho đoạn trích
II. Thân bài:
Trước cái chết của một con người, đáng lẽ những người xung quanh phải có thái độ đau buồn nhưng tâm trạng của các nhân vật (kể cả trong gia đình hay ngoài gia đình) đều làm cho người đọc cảm giác phẫn nộ
1. Tâm trạng của những người trong gia đình
– Cụ cố Hồng:
+ Đặc biệt háo danh: mới năm mươi tuổi, cụ cố Hồng mong được gọi là “cố”
+ Sung sướng đến ngây ngất vì nhờ có cái chết thật của cha mình mà được mọi người chú ý, vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người
+ Mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo để người ta nghĩ “ úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”
⇒ Con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình
– Cụ bà: sung sướng vì ông Đốc tờ Xuân đã không giận mà còn giúp đáp, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể là đã danh giá nhất
– Ông Văn Minh:
+ Vui vì chúc thư đã đi vào thời kì thực hiện chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa
+ Vò đầu bứt tóc hợp thời trang hợp với một nhà có đám, kì thực, ông ta đang lo gột rửa bằng xà phòng thơm cho quá khứ của Xuân.
⇒ Bất hiếu, đầy dã tâm
– Bà Văn Minh vợ:
+ sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen…
+ mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
→ Người cháu thực dụng, thiếu tình người
– Cậu Tú Tân: Điên người lên vì bây giờ mới có dịp dùng đến mấy cái máy ảnh mà cậu đã chuẩn bị từ lâu ⇒ thiếu suy nghĩ, thiếu tình cảm ruột thịt
– Tuyết:
+ Vui vì có dịp mặc bộ y phục “Ngây thơ” để thiên hạ thấy rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh.
+ khuôn mặt buồn, nhưng không phải cái buồn đau thương mà là buồn lãng mạn “đúng mốt” vì chờ mãi chưa thấy bạn trai đâu cả
→ Người con gái hư hỏng, lẳng lơ.
– Phán mọc sừng:
+ Là kẻ trơ trẽn nhất, y vô cùng hãnh diện vì không ngờ “đôi sừng hươu vô hình ai cắm trên đầu mình lại có giá trị như vậy”.
→ Chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản, không có nhân cách, vô liêm sĩ
– Đám cháu con: Một bầy cháu con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ.
2. Tâm trạng của những người ngoài gia đình
– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.
– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương
– Nhà sư: Sư cụ Tăng Phú sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng, trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo
– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang…
⇒ Không một ai thực sự tiếc thương cho sự ra đi của người đã mất, đây là những con người không một chút hiếu nghĩa, mất hết tình người
III. Kết bài:
– Khẳng định những nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thành công tâm trạng của các nhân vật trong đoạn trích: bút pháp hiện thực, nghệ thuật trào phúng…
– Bài học đạo đức rút ra cho bản thân
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích tâm trạng các nhân vật – mẫu 1
Số đỏ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng cũng như của văn học trào phúng Việt Nam hiện đại. Tính chất trào phúng đó không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ, giọng điệu, tình huống mà còn được bộc lộ trực tiếp, sắc nét nhất qua chân dung từng nhân vật trong tác phẩm trong đoạn trích Hạnh phúc một tang gia.
Câu chuyện bắt đầu bằng cái chết của một người ông già – cụ cố tổ. Đó là người ông, người cha, người bạn đáng kính của một gia đình thượng lưu. Những tưởng cái chết đó sẽ gây nên niềm đau xót khôn nguôi trong lòng người ở lại. Nhưng không, cái chết của cụ cố tổ lại là niềm vui, niềm hạnh phúc tột cùng của tất cả đám con cháu. Bởi bản di chúc ở trên giấy này đã được đi vào thực thi, bọn họ sẽ nhận được những gia sản kếch xù. Chính trong lúc tang gia bối rối, họ mỗi người nhao nhao lên theo một cách khác nhau, trưng diện một bộ mặt khác nhau để thể hiện lòng đau xót trong hạnh phúc tột cùng của mình.
Cụ cố Hồng, nhắm mắt mơ màng khi nghĩ đến giây phút mình mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho vừa khóc mếu, để cho thiên hạ chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Đây chính là cơ hội để cụ cố Hồng được diễn trò trước đám đông, là cơ hội để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mình thông qua việc tổ chức một đám ma thật to. Ông Văn Minh: Niềm vui riêng hòa lẫn niềm vui chung. Niềm vui của ông Văn Minh là biểu hiện cao độ cho niềm vui của cả gia đình: nóng lòng đợi luật sư đến để thực tế chia gia tài. Ông Văn Minh còn được Vũ Trọng Phụng miêu tả chi tiết đăm chiêu, vò đầu bứt tóc nhưng thực tế là đang không biết xử trí với Xuân tóc đỏ thế nào cho phải chứ không phải là lo lắng cho việc tổ chức đám tang của cụ cố tổ. Còn với bà Văn Minh vợ ông lại sung sướng khi được mặc bộ đồ xô gai tân thời, bà vui vẻ ra mặt, vì những mẫu đồ tân thời mới nhất bà sẽ nhân dịp này mà tung ra thị trường, biến đám tang thành nơi trình diễn, công bố bộ sưu tập mới nhất.
Ông phán mọc sừng, sung sướng, hả hê khi biết giá trị đôi sưng trên đầu mình, vì có nó mà ông sẽ được hưởng thêm một phần gia sản không nhỏ. Số tiền đó là đền bù cho danh dự của ông. Trong đám tang tiếng khóc Hứt ! Hứt của ông Phán mọc sừng liên tiếp được vang lên, ông khóc oắt người đi, đến nỗi không thể đứng vững, phải có Xuân Tóc Đỏ đỡ ông mới đứng được. Tưởng đó là nỗi đau rất thật, rất chân thành nhưng hành động dúi tiền vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ tiền gấp làm tư đã vạch trần bộ mặt dối trá của ông Phán mọc sừng. Hành động đó còn thể hiện mưu tính một cuộc hợp tác doanh thương với Xuân tóc đỏ để kiếm lợi nhuận.
Còn đối với Tuyết – cô gái hư hỏng một nửa lại vui mừng vì mình sẽ được mặc những trang phục Tân thời, bộ quần áo ngây thơ, nửa kín hở cái áo dài voan mỏng, đội một cái mũ nấm xinh xinh, khuôn mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Bộ quần áo ngây thơ Tuyết mặc để chứng minh mình không hư hỏng với thiên hạ, còn khuôn mặt buồn rất lãng mạn tưởng là nỗi buồn do mất đi người thân nhưng thực tế lại là vi nhớ nhân tình – Xuân Tóc Đỏ khi mãi cô vẫn chưa thấy Xuân xuất hiện trong đám tang. Vẻ mặt bề ngoài và thực tế bên trong đã bị Vũ Trọng Phụng sử dụng lời lẽ châm biếm sâu cay vạch trần.
Cậu Tú Tân, khi nghe ông mất thì cứ điên người lên, vì chiếc máy ảnh mới mua của cậu sắp được đưa vào sử dụng. Trong lúc hạ huyệt trong bộ quần áo luộm thuộm, cậu bắt bẻ từng người chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt,… dường như cậu Tú Tân như một nhà đạo diễn đại tài để cho vở kịch đám tang đau buồn thêm phần hoàn hảo.
Phân tích tâm trạng các nhân vật – mẫu 2
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn tài năng thành công ở thể loại tiểu thuyết. Tiêu biểu là tác phẩm “Số đỏ” đã tái hiện lại bức tranh hiện thực về con người và xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX với những trò lố lăng, bịp bợm dưới ngòi bút đả kích, châm biếm sâu sắc. Trong đó ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nằm ở chương XV của tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của các nhân vật trong đoạn trích.
Tang gia mà đại gia đình kẻ trong người ngoài ai cũng hớn hở, mong chờ giây phút ấy để phô trương, khoe mẽ để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Tuy mỗi người một niềm vui riêng nhưng đã cùng nhau góp phần tạo nên một tâm trạng chung tang ma mà vui như hội.
Trước tiên là tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của con cháu trong gia đình. Theo như thường lệ người thân yêu qua đời thì bậc làm con phải đau đớn, xót xa và thương tiếc vô cùng nhưng ở đây tất cả con cháu từ người già cho đến người trẻ, từ con trai trưởng cho tới cháu chắt đều mong chờ giây phút cụ cố Tổ chết. Và khi điều ấy trở thành hiện thực niềm vui chảy trong từng mạch máu, thớ thịt của mỗi người “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” vì đồng nghĩa với việc cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành, chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”.Hạnh phúc của họ là hạnh phúc của tiền bạc, danh vọng và các giá rị phù phiếm chứ không còn là tình thương yêu con người của những người thân ruột thịt trong gia đình dành cho nhau.
Là người già cả lớn tuổi nhất trong gia đình lại là con trưởng của cố Tổ đang lúc tang gia bối rối, thi hài bố vẫn đang nằm dưới nhà nhưng cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác ung dung mơ màng, tưởng tượng đến cảnh “cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa con giai nhớn đã già đến thế kìa”. Thường thì chẳng ai mong mình già vậy mà cụ cố lại có cái ước muốn người ta khen mình già thật là lạ. Đối với ông tổ chức tang lễ cho bố là cơ hội để khoe khoang đám ma to chứng tỏ tài sản giàu có của kẻ thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông cụ là một đứa con bất hiếu nối tiếp là cả đám con cháu của một dòng họ nhiều tiền nhiều của nhưng lại cạn kiệt tình thương.
Ông Văn Minh cháu nội đích tôn của cụ Tổ Người đi du học bên Tây khi trở về mang danh nhà cải cách xã hội. Kẻ một bước đưa thằng lưu manh, ma cà bông Xuân tóc đỏ trở thành người có công nhất cho xã hội lúc bấy giờ. Trước cái chết của ông nội hắn vui sướng bởi được phân chia tài sản, việc đầu tiên ngay sau đó là mời luật sư đến để thực thi bức di chúc mà cụ Tổ để lại. Trạng của hắn bên ngoài thì tư lự, vò đầu bứt tóc, điệu bộ bối rối, mặt lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu rất hợp hoàn cảnh tang tóc nhưng thực chất bụng dạ bên trong đang băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân như thế nào cho hợp tình hợp lí bởi hai cái tội nhỏ và một cái ơn to. Nhà văn đã bóc trần bản chất giả dối bất nhân của hắn bằng cách đi sâu vào suy nghĩ bên trong nhân vật.
Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc bộ đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn xinh xinh, trong lúc tang gia mà vẫn không quên ý muốn lăng-xê cho những kiểu quần áo của tiệm may Âu hóa. Cô cháu dâu không một chút tình cảm thương tâm cho người đã khuất.
Hạnh phúc không kém là cháu rể quý ông Phán mọc sừng với niềm vui sướng dâng trào trong lòng hắn, kiêu hãnh với đôi sừng vô hình trên đầu không ngờ lại có giá trị đến thế. Hắn có được vài nghìn nhờ đôi sừng ấy khi bố vợ nói nhỏ vào tai sẽ chia thêm cho con gái và rể thêm một số tiền nữa. Thế mà đến giây phút cuối cùng lúc vĩnh biệt người chết hắn lại khóc oặt người đi hứt hứt mãi không thôi. Một chi tiết đáng cười, đáng châm biếm bởi sự giả tạo sắp không nhận ra sự thật nếu hắn không dúi vào tay Xuân tờ tiền năm đồng bạc gấp làm tư để trả thù lao vụ giao dịch về việc quảng bá đôi sừng vô hình gây nên cái chết cho cụ Tổ.
Phân tích tâm trạng các nhân vật – mẫu 3
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm “Số đỏ” là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề “Hạnh phúc của một tang gia” là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình.
Ta cũng như đã thấy được mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của “một gia đình đông đảo và đáng kính” của một xã hội được coi là văn minh xã hội “thượng lưu”. Cả ta như thấy được tất cả cái gia đình ấy đã “nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nếu như sự nhao lên vì đau khổ và cũng chính vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chắc chắn không thể nào mà chúng đã nhao lên vì…. hạnh phúc ! “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm” Có lẽ chính câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã thâu tóm tất cả mọi thứ “thế thái nhân tình”.
Và ta như thấy được chính cái nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật dường như cũng đã rất rành rành cụ thể.
Nhân vật ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, ông bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình như cũng đã được tăng giá lên vài nghìn đồng. Và cụ cố Hồng dường như cũng đã rất sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai. Ông như đã lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để hi vọng được người ta ngợi khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…”. Còn nhân vật ông Văn Minh chính là cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội ? Ông ta dường như tỏ ra sung sướng tột đỉnh lắm, bởi vì với cái chết của ông nội thì tờ di chúc kia sẽ đi vào thực thi chứ không phải là nằm trên giấy nữa được thực hiện. Và việc này đồng nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật một sự thật đã mong mỏi từ lâu. Còn bà Văn Minh thì cũng “vui” chúng với niềm vui của đám tang, bà như sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận cũng đã như ra từ cái chết của ông nội chồng chính một dịp may hiếm có để có thể mặc “trang phục tân thời” đó chính là những bộ “đồ xô gai tân thời”, “những sáng tạo mốt mới” của tiệm may Âu hoá kệch cỡm của bà.
Còn đối với nhân vật cô Tuyết- một cô gái hư hỏng nhưng chỉ “hư hỏng một nửa” và Tuyết chính một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết đã chọn và mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó chính là một “vẻ buồn lãng mạn” buồn ở đây chính là vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả như thật trùng khớp biết bao nhiêu. Có lẽ các vị tai to mặt lớn đi đưa đám như cũng chăm chăm như nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động mà thôi chứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy thật là một đám người con cháu lố bịch.
Đám ma to thật, có thể nous cái đám ma này nó to đến mức “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta dường như cũng đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, và khoe sang thậm chí là còn để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.
Nhưng chưa dừng lại ở đó thì dưới mắt Vũ Trọng Phụng, ta cũng như đã thấy được chính cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng dường như cũng đã thật là đông đảo lắm. Ta như thấy được toàn xã hội văn minh Âu hóa. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát cũng như là đồng nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi mà đã được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Ta như thấy được cái lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang “buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ”. Tiếp sau đó chính là đến các vị tai to mặt lớn, đó chính là lớp “hoa” của giới thượng lưu xã hội. Có vẻ như chính mặt mũi sang trọng, người đeo đầy đủ các thứ “hội rinh”. Ta như thấy được trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, và đó dường như cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng ngần như đang thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết mà thôi.
Đặc biệt hơn nữa đó cũng chính là sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này dường như cũng đã lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Cho đến bà cụ cố Hồng,dường như có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói los lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thờ cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy của mình thì nhà văn Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Ta có thể thấy được đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, và đó cũng chính sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất đó chính là sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Phân tích tâm trạng các nhân vật – mẫu 4
Ở đời có mấy ai lại “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, đôi khi đến cả cái chết của kẻ thù không đội trời chung cũng không như thế. Huống chi đó lại là sự ra đi của người thân, là sự ra đi của đấng sinh thành thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kì lạ với mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”,…! Điều này đã được thể hiện rất rõ ở chương Hạnh phúc của một tang gia.
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm Số đỏ là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình. Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi từ lâu, họ mong cụ chết thật nhanh để chia gia tài. Thay vào đó, cái chết của cụ đã đem đến cho sự niềm vui – một “hạnh phúc”.
Ông Phán mọc sừng là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong đám con cháu đó. Phán mọc sừng – cháu rể “quý hóa” của cụ cố thì đang sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ” đã thành công mĩ mãn. Nhờ đó mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế”.
Niềm vui của cụ cố Hồng thuộc kiểu “hiếu danh mù quáng” đến mức ngu xuẩn và lố bịch. Đối với nhân vật kì quặc này, ông cụ thân sinh qua đời sẽ là một cơ hội hiếm có để cụ cố Hồng lên chức cụ cố trước mắt bàn dân thiên hạ, mặc dù về tuổi đời, cụ mới ngoài năm mươi! Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa !” và “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…’’.
Còn Văn Minh – cháu đích tôn của cụ cố tổ thì cũng có lí do để vui: chắc chắn sẽ được chia cho một số tài sản rất lớn nên điều “băn khoăn” của ông ta là “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội”. Thật vui vẻ vì “thế là từ nay trở đi cái chúc thư kia sẽ đi vào thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Các thành viên còn lại chỉ thực sự hạnh phúc khi cụ Hồng ra lệnh phát phục. Bởi đám tang cụ cố tổ là một sự kiện để mỗi người đó có dịp trình diễn cái vai trò của cá nhân mình trước xã hội: bà Văn Minh sẽ trình diễn đồ xô gai thuộc dạng mốt tân thời, Tuyết được diện bộ y phục mang tên Ngây thơ để chứng minh với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất chữ trinh… Rồi cậu Tú Tân sẽ trình diễn tài nghệ chụp ảnh trong đám tang, còn ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thuyết kế…
Niềm vui hạnh phúc do cái chết của cụ cố tổ đem lại không chỉ ngập tràn trong tâm hồn các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng mà còn lan tỏa ra cả ngoài tang quyến. Đó là niềm vui bỗng lại có công ăn việc làm, hai cảnh bình thuộc bộ thứ mười tám Min Đơ và Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám ma “đã trông nom rất hết lòng”.
Các ông “tai to mặt lớn” – những người bạn của cụ cố Hồng nhân dịp đến chia buồn với tang gia mà tiện có dịp khoe công trạng một đời với đủ loại huân chương “Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vân Tượng bội tinh…”. Tuy nhiên, cái đám đầy râu ria ấy lại đang mãn nguyện, sung sướng khi đến chia buồn bỗng lại được thưởng thức cái làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh ngực Tuyết.
Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo trên một chiếc xe vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở phố, thể nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”
Với đám giai thanh, gái lịch Hà thành, những kẻ không dính líu chút nào về quan hệ họ hàng, ruột thịt với người đã khuất thì niềm vui của họ ở đây là cơ hội để “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Nhưng có lẽ người hạnh phúc nhất là Xuân Tóc Đỏ, dù anh ta không có ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói lố lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thời cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kì dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút của Vũ Trọng Phụng như có sức lây lan rất rộng : từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang quyến đến người ngoài tang quyến. Tác giả đã vạch trần cái xã hội Âu hóa đầy lố bịch với những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa.
Phân tích tâm trạng các nhân vật – mẫu 5
Tiếng cười căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “khốn nạn”, “chó đểu” trong Số đỏ nói chung và Hạnh phúc của một tang gia nói riêng cứ xoáy sâu vào tâm trí độc giả. Ấy là một “thế thái nhân tình” được xây dựng trên hai điều, sự tàn nhẫn và sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu văn tưởng chừng ngược đời mà lại có lí: “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”.
Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ cố Hồng là cả một xã hội phong kiến tư sản nực cười. Khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành bước vào đời, con người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không có gì hơn ngoài mong muốn được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi “suối vàng”, cái chết của cụ tổ lại mang lại bao nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ Hồng. Tình cảm người ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối nát, bẩn thỉu. Câu chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã mang lại cho tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Ngay ở tiêu đề của đoạn trích, tác giả đã có ý nhấn mạnh sự tàn nhẫn và dối trá. Hạnh phúc đi liền với tang gia và tang gia tạo nên hạnh phúc. Đoạn trích đã làm nổi bật hai mặt trái ngược này bằng một trường phúng dụ gây cười rất tự nhiên, hợp lí.
Nhìn nét mặt, hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người đọc cảm nhận cái hạnh phúc mà họ sẽ được nhận và đã mong chờ từ rất lâu. Khi tắt thở, không biết cụ tổ có nhận thấy cái chết ấy đã làm cho nhiều người được sung sướng lắm. Niềm hạnh phúc được tràn ra qua cái nhắm mắt mơ màng của cụ cố Hồng khi nghĩ “đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ :
– Úi kìa, con giai nhớn đã đến thế kia kìa!
Cụ nhắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế… Viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà lạ lùng và cay đắng quá, Người ta đến đưa thi thể của cụ cố xuống nơi suối vàng, chứ đâu phải ngắm nhìn “con giai” cụ đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ ấy đã phản ánh đúng tâm trạng của cụ Hồng trong cái đám ma “rộn ràng”, “huyên náo”.
Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế?”. Ông hạnh phúc khi được nghe thấy cụ Hồng nói nhỏ vào tai là sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Dường như đến đưa ma cụ cố, ông Phán mọc sừng lại được đón nhận số tiền lớn ấy đến bất ngờ. Dù sao “cái chết kia” cũng mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với cái sừng mà Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cũng đủ để ông cám ơn hắn. Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo, “thằng bồi tiêm đã đếm được một nghìn tám trăm bảy hai, câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” của cụ cố Hồng thì ông Phán mọc sừng đã kịp chi tính với Xuân công cuộc doanh thương… mà trước tiên là đã trả nốt năm đồng cho Xuân. Ngay trong giờ phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc ấy mà người ta vẫn không quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó say đắm và đam mê hơn.
“Trước những cặp mắt của một bầy con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ”, thì cụ cố Hồng lại nhắm nghiền mắt kêu khổ lắm. Sao mà bộ mặt giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người “chiêm ngưỡng”. Cậu Tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà cậu mãi không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – là “những sáng tạo mốt mới nhất”. Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng xê ra thì có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Vậy là, họ đi đám ma dường như là đi dự đám cưới. Họ chỉ biết thỏa mãn cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi không hề để ý đến ai đã khám cho cụ tổ khi cụ bị bệnh và sau khi qua đời. Còn cô cháu gái của cụ – cô Tuyết thì rất tự nhiên phơi bày những bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục Ngây thơ của Tuyết và vẻ ngóng nhân tình của cô ta đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chỉ làm cho họ hạnh phúc, sung sướng mà thôi.
Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Min Đơ và Min Toa cũng sung sướng cực điểm khi được cái đám ma “to lớn” này thuê giữ gìn trật tự. “Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả”. Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, “có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, có cậu Tú Tân chỉ huy” lộn xộn, lao xao và huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các nhà tài tử thi nhau chụp ảnh. “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”. Câu văn nghe sao mà chua chát và cay đắng đến vậy. Dường như trong cái xã hội phức tạp ấy không còn tồn tại tình người. Họ đối xử với nhau, đến với nhau chỉ là do ánh sáng chói chang của đua đòi lối sống “văn minh hiện đại” đưa lối, đôi chút suy nghĩ của họ đâu có gì gửi gắm vào bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như không còn có sự tồn tại của tình thương giữa người với người. Giữa họ là khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá.
Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn con cháu cụ cố tổ ghê tởm đến thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo kia lại muốn khẳng định chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà chúng đang tổ chức phải trở thành một kiểu mẫu trong thiên hạ. Những kẻ mong chờ cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật vang, cái mong muốn “bẩn thỉu” ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả bao phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, “chó đều”.
Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội. Từ cái hạnh phúc, sung sướng của một “lũ người gớm ghiếc” là một “thế thái nhân tình” được xây dựng trên nền tảng là sự tàn nhẫn và sự dối trá. Con người với con người đối với nhau mà như băng đá tê cứng, đông lạnh, không còn một chút hơi ấm của yêu thương. Cụ cố tổ mất đi lại không hề mảy may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng tìm đến đám ma là để lấy và thực hiện sớm di chúc. Chỉ còn lặng lẽ sau trang sách là nỗi đau cười ra nước mắt và căm phẫn của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, con của cụ tự cho mình là chí hiếu, chúng không nhận thấy trong suy nghĩ, hành động của chứng là sự tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để với đến hai chữ “chí hiếu” là từ tàn nhẫn và dối trá mà ra.
Cố lấy cái vẻ bề ngoài che đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự dối trá đến tàn nhẫn. Thế giới họ đang sống, đang tồn tại đâu có phải là một thế giới ân tình. Cái thế giới của tình người chỉ có khi con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn nhau. Còn ở đây con người như là vật hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân, bất hiếu.
Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều quy tụ chung dưới hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thật đông đảo, sự xấu xa, đồi bại của xã hội có mặt ở khắp nơi. Bằng điệp khúc: “đám cứ đi”, tác giả đã đặc tả một đám ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng đi đưa đám. Tất cả trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, tuy cố giữ bộ mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì đó. “Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra không hề khép lại và chẳng biết sẽ kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái thế giới tình người mà tác phẩm, đoạn trích có nói, có thể hiện chỉ là sự tàn nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, dối trá ấy đâu chỉ diễn ra trong xã hội “người dưng”, mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong bản thân những con người cùng một gia đình, họ hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang, phú quý, ồn ào của cụ tổ đâu có thể che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá của cụ Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư cụ Tăng Phú…
Sự lố lăng của đám tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện – Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao bà cụ cố Hồng lại hí hửng vì sự có mặt của hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng cắm trên chở sư chùa Bà Banh? Vì hai vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự có mặt của những thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lăng. Chỉ biết sư cụ Tăng Phú đã chớp lấy “thời cơ tang gia để kiếm lợi trong cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng cố thanh thế của Hội Phật giáo”. Còn Xuân Tóc Đỏ lại là ân nhân của gia đình cụ cố Hồng và là “người chồng ăn hỏi” của cô Tuyết.
Hạnh phúc gia đình, dưới con mắt sắc sảo của Vũ Trọng Phụng, những con người xấu xa ấy không phải là một “nhóm người”, chúng thật đông đảo và có mặt ở khắp nơi. Bởi vậy, có người coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống mộ của toàn xã hội thực dân phong kiến. Bởi sự dối trá, tàn nhẫn của nó đã đến hồi bộc lộ trắng trợn, vui vẻ ầm ĩ thế kia thì ai để cho nó tồn tại, làm trò hề mãi được.