Việt Bắc

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên và con người “Việt Bắc” của Tố Hữu.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

– Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và phong cách thơ ca của ông, bài thơ “Việt Bắc”.

– Dẫn vào đoạn thơ nói về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc.

2. Thân bài

1. Bức tranh mùa đông

– Sử dụng bút pháp chấm phá cổ điển, gợi chứ không tả, màu xanh thẫm của núi rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt.

– Màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh thẳm của núi rừng đã phần nào xua tan cái lạnh lẽo thay vào đó là chút cảm giác ấm áp, mang đến hình ảnh Tây Bắc tươi đẹp chứ không quá khắc nghiệt, nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.

– Hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

2. Bức tranh mùa xuân

– Sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng.

– Hình ảnh con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.

3. Bức tranh mùa hạ

– Mùa hè hiện ra thông qua sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ.

– Từ “đổ” gợi ra sự chuyển mùa nhanh chóng và đồng loạt của núi rừng Tây Bắc.

– Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.

4. Bức tranh mùa thu

– Hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung.

– Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc – mẫu 1

Việt Bắc là bài thơ lục bát mang tầm vóc của một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1954, ngày giải phóng thủ đô Hà Nội. Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ ” Việt Bắc ” đã được tác giả tập trung hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc.

” Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Trong hoài niệm của nhà thơ, núi rừng Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp đa dạng và phong phú. Trong những khoảng thời gian và không gian khác nhau, trong những thời tiết khác nhau núi rừng Việt Bắc được ví như “hoa” đã lần lượt hiện ra. Đan xen trong cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp đó hình tượng con người Việt Bắc gần gũi, mộc mạc hiện ra hòa hợp với thiên nhiên tạo nên sự gắn kết rất riêng của Việt Bắc.

Bằng sử dụng thiên nhiên, màu sắc đặc trưng của từng mùa làm chất liệu bốn mùa trong năm đã lần lượt đi qua với nhiều kỷ niệm, mỗi mùa lại có một hương vị rất riêng.

Để xua đi cái lạnh giá của mùa đông nơi rừng xanh thì tác giả đã nhớ đến những bông hoa chuối “đỏ tươi”. Những bông hoa chuối này như những bó đuốc làm sáng rực cả khu rừng Việt Bắc. Con dao của người đi nương đi rẫy phản quang nắng ánh rất gợi cảm.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Màu xanh của núi rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của nắng chiếu lên những con dao… đã làm nổi bật lên sức sống tiềm tàng, mãnh liệt làm chủ thiên nhiên của con người Việt Bắc. Không những thế, bằng cách miêu tả này Tố Hữu còn giúp bức tranh rừng Việt Bắc bỗng trở nên ấm áp lạ thường, mất đi sự hoang sợ lạnh lẽo.

Xuân sang, núi rừng Việt Bắc ngập trắng hoa mơ, một màu trắng tinh khôi, dịu nhẹ phủ kín cả cánh rừng. “mơ nở trắng rừng” gợi nên hình ảnh hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết, mênh mông và bao la:

“Ngày xuân mở nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi nan”

Hè sang, núi rừng Việt Bắc sống động hơn hẳn lên cùng với cảnh sắc của những cây phách là tiếng ve kêu râm ran như những bản nhạc rừng. Tiếng ve kêu là âm thanh những tác giả lại cảm nhận bằng màu sắc vàng rực, sóng sánh đổ loang cả rừng phách. Từ “đổ” diễn ta sự thay đổi luân phiên về thời gian mang đến cho người đọc cảm nhận sự chuyển biến giữa các mùa.

Câu thơ thứ hai lại là một câu thơ giàu âm điệu và thanh nhạc: có vần lưng: “gái” vấn với “hái” có điệp âm M: măng – một -mình. Đây là những vần nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui. Dù ” cô gái hái măng một mình” những không hề cảm thấy lẻ loi mà vẫn mang nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.

Thu về dưới ánh trăng thu vằng vặc mang đến vẻ thanh bình trong sáng cho vùng đất nơi đây. Người cán bộ về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu trăng rọi qua tán lá xanh, trăng thanh mát rượi màu hoa bình nên thơ. Câu thơ đã gợi nên được sắc thanh bình, thơ mộng trong ánh sáng dịu dàng của trăng sau chín năm kháng chiến. Trong đêm trăng thanh bình rất hợp với những câu hát giao duyên. Bởi thế, kết của đoạn thơ là nỗi nhớ về tiếng hát:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Cùng với đó để tạo nên sự biến chuyển về thời gian lúc giao mùa tác còn mô theo chiều dọc của thời gian. Buổi sáng “mơ nở trắng rừng” trưa thì thì nắng vàng như mật, đêm về thì trăng soi sáng cả cánh rừng.

Giữ bức tranh đầy màu sắc rực rỡ đó hình ảnh con người Việt Bắc xuất hiện đã khiến bức tranh trở nên hài hòa và sinh động hơn hẳn. Bằng thủ pháp một câu tả cảnh một câu tả người đã giúp con người và thiên nhiên đan xen vào nhau một cách hài hòa. Và đó là những con người đang hăng say lao động làm việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và đâu đây vang vọng tính hát của ai đó giữa núi rừng Việt bắc….

Bằng việc sử dụng các màu sắc rực rỡ nổi bật như: xanh, đỏ, vàng, trắng… từ câu thơ như đập mạnh vào cảm giác người đọc. Khiến người cảm nhận được bức tranh tứ bình sinh động trong từ câu thơ. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương rẫy, người đan nón, cô em gái hái măng là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả những nét tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc : Cần cù, làm chủ thiên nhiên và là chủ cuộc đời lao động, kiên nhẫn khéo léo, tài hoa, lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

Cũng qua những câu thơ trên chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp mềm mại, chân chất bình dị của con người Việt Bắc. Những con người nơi đây đối xử với nhau bằng tình bằng tình nghĩa mặn mà thủy chung bằng tấm lòng thủy chung “trước sau như một “.

Cùng bằng việc gợi nhớ về hình ảnh về con người, thiên nhiên nhà thơ đã thể hiện một tình cảm nhớ thương da diết giữa ‘ta’ và ‘mình’ . Mối tình mười lăm năm chia ngọt sẻ bùi đã ăn sâu vào tiềm thức người đi, để rồi mỗi khi nhớ lại vẫn luôn bùi ngùi xúc động. Nỗi nhớ tha thiết bồi hồi như thấm sâu và cảnh vật và lòng người kẻ ở người về, mình nhờ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi nhưng tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm vào lòng người.

Bằng giọng văn lục bát nhẹ nhàng đằm thắm, đã mang đến âm hưởng trữ tình ngọt ngào. Như một khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.

Đoạn thơ nói riêng bài thơ Việt Bắc nói chung đã gợi lên trong lòng người đọc tình yêu Việt Bắc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ ” nhịp mãi một tấm lòng sử điệp” để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.

Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc – mẫu 2

 “Việt Bắc” của Tố Hữu có thể coi là một khúc tráng ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã ghi lại cuộc kháng chiến trường kỳ bằng một giọng thơ đầy ân tình, khắc họa không chỉ sự anh hùng của dân tộc mà còn ánh lên vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc – ân tình, thủy chung. Và vẻ đẹp đó đã được thể hiện đầy đủ trong đoạn thơ:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Thơ của Tố Hữu là thơ trữ tình, chính trị, bởi vậy cảm hứng chính trị cũng là cảm hứng chi phối toàn bộ tác phẩm. Nhưng chất chính trị ấy lại hòa điệu nhịp nhàng, nhuần nhuyễn trong chất trữ tình đậm nét, chính điều đó khiến cho tác phẩm của Tố Hữu không chỉ là những bản tuyên truyền khô cứng, giáo huấn đơn thuần mà đó còn là tâm tư, tình cảm rất đỗi chân thành được tác giả gửi gắm trong đó. Hai chất liệu này hòa quyện với nhau, đem đến sự thuyết phục trong lòng bạn đọc.

Cả bài thơ “Việt Bắc” thấm đượm trong nỗi nhớ nhung khắc khoải, đúng như chính bản thân Tố Hữu đã khẳng định trong bài thơ: “Nhớ gì như nhớ người yêu/Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”. Bởi vậy, bài thơ trở nên da diết, thiết tha hơn trong sự hòa quyện của mối quan hệ khăng khít giữa con người và khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc. Qua đó vừa làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ, đầy sức sống của thiên nhiên, vừa khẳng định sự ân tình, thủy chung trong con người Việt Bắc.

Khổ thơ là bức tranh tứ bình đẹp đẽ, mang những đặc điểm riêng của bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa đông với sắc đỏ nổi bật:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng

Màu xanh thẫm của đại ngàn được tác giả khắc họa thật đẹp, nhưng nổi bật nhất trong bức tranh ấy không phải là màu xanh bạt ngàn của mà là màu đỏ rực của hoa chuối. Bằng bút pháp chấm phá, Tố Hữu đã khiến cả bức tranh bừng sáng. Dù bức tranh mùa đông, nhưng không hề u ám, lạnh lẽo mà trái lại với sắc đỏ bức tranh càng trở nên ấm nóng, ngập đầy sức sống hơn. Trong bức tranh ấy, con người xuất hiện thật chủ động và khỏe khoắn. Con dao – vật dụng lao động của người dân Việt Bắc, lại một lần nữa được ánh sáng của mặt trời làm cho bừng sáng. Con người ở trong khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên nhưng không hề bé nhỏ mà mang trong mình nét hiên ngang, hùng dũng giữa núi rừng.

Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống với sắc trắng tinh khôi của loài hoa mơ:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Hoa mơ – một loài hoa giản dị, mộc mạc nhưng đầy thanh cao, tinh khiết. Sắc trắng của hoa mơ khiến không gian rừng núi càng trở nên đẹp đẽ, tươi sáng hơn. Tương ứng vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân là hình ảnh “người đan nón” với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo. Họ hiện lên là những người lao động cần cù, chăm chỉ, khéo léo “chuốt từng sợi giang”.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Vẻ đẹp của thiên nhiên được khắc họa rõ nét nhất trong bức tranh mùa hè, vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Màu vàng đặc trưng của mùa hè và âm thanh ve kêu rộn rã khiến cho sức sống mùa hạ như bừng thức, trỗi dậy. Câu thơ đầu tiên là một câu thơ rất hay và giàu ý nghĩa, có thể hiểu tiếng ve kêu đã tác động, khiến cho rừng phách đổ vàng; nhưng cũng có thể hiểu là tiếng ve kêu trong rừng phách. Dù hiểu theo cách nào thì đây cũng là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, giàu sức sống. Nổi bật giữa khung cảnh thiên nhiên là người con gái xuất hiện thật thân thương, ngọt ngào – “cô em gái”. Giữa con người và thiên nhiên có sự đồng điệu, hô ứng với nhau, cô em gái cũng đang ở độ tuổi đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nhất, cũng như thiên nhiên ngập đầy sức sống. Mặc dù cô em gái chỉ xuất hiện một mình nhưng không hề tạo cảm giác cô đơn mà vẫn vô cùng đẹp đẽ, khỏe khoắn.

Khổ thơ kết lại bằng bức tranh mùa thu: “Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Ánh trăng vàng trải dài khắp rừng núi khiến cho bức tranh thêm phần lung linh, huyền hảo. Đồng thời bức tranh đó cũng tái tạo không khí yên bình, thanh tĩnh trong đêm khuya. Bởi vậy ánh trăng không đơn thuần là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của hòa bình. Con người được khai thác qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc, đó là những câu hát giao duyên, đầy ân tình, thủy chung.

Bằng lớp ngôn từ giản dị, giọng điệu tâm tình ngọt ngào, Tố Hữu đã đem đến cho bạn đọc một thiên nhiên Việt Bắc tràn đầy sức sống, một người dân Việt Bắc khỏe khoắn, cần cù, yêu lao động. Đoạn thơ đã cho thấy sự hòa điệp nhịp nhàng, giữa con người và thiên nhiên tạo nên vẻ đẹp hoàn chỉnh cho thiên nhiên và con người nơi đây.

Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc – mẫu 3

Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai – tiếng hát ân tình thủy chung.

Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, đế mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiện nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.

Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.

Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.

Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến đổi trong từng khoảnh khắc…

Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trơ nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao… Hình ảnh con người làm nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ dẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xừ với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.

Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.

Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…

Những câu thơ cùa Tô Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng

Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc – mẫu 4

Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Mỗi một chặng đường thơ của ông đều luôn gắn bó mật thiết với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn gắn liền với phong cách thơ mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp với tính dân tộc đậm đà bản sắc, góp phần to lớn trong việc cổ vũ và ủng hộ Cách mạng thành công. Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của nền thơ kháng chiến chống Pháp, tác phẩm vinh dự được xem là bản tổng kết bằng thơ của cuộc kháng chiến gian khổ, hào hùng của dân tộc đồng thời cũng là lời tri ân sâu sắc, nghĩa tình đối với nhân dân Việt Bắc, núi rừng Việt Bắc xa xôi. Trong suốt tác phẩm có độ dài khá lớn, hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc đã hiện lên thật đẹp đẽ và nhiều ý nghĩa. Dẫu rằng hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc được thể hiện kéo dài xuyên suốt cả tác phẩm, thế nhưng cô đọng và hàm súc nhất vẫn là bức tranh thiên nhiên con người gói gọn trong mười câu thơ từ câu số bốn mươi ba đến câu năm mươi hai. Mà người ta vẫn thường yên mến gọi đó là bức tranh tứ bình, ở đó cảnh sắc thiên nhiên và con người trong lao động, trong kháng chiến hiện lên theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với những nét đẹp vô cùng đặc sắc, ấn tượng.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Bức tranh mùa đông được gợi lên thật ngắn gọn qua hai câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, nhưng đã tái hiện được toàn vẹn vẻ đẹp của cả thiên nhiên và của cả con người. Vẻ đẹp của thiên nhiên rừng đông nằm ở sự hòa sắc tuyệt vời giữa hai màu xanh và đỏ, bằng bút pháp chấm phá chỉ gợi chứ không tả cụ thể với gam màu chủ là màu xanh. Màu xanh của rừng mùa đông không phải là màu xanh non mỡ màng của mùa xuân mà đó là màu xanh thẫm, một gam màu lạnh trải dài bát ngát, tạo nên cho núi rừng Tây Bắc một cảm giác âm u, trầm mặc. Nổi bật trên gam màu xanh ấy là màu đỏ tươi của hoa chuối, khiến người ta liên tưởng đến những ngọn đuốc đang cháy rừng rực giữa một vùng rừng xanh âm u trầm mặc và người ta còn thấy thấp thoáng một vài đốm nắng nhàn nhạt. Chính sự hiện diện của hai gam màu nóng trên nền xanh lạnh lẽo đã đem lại cho cả núi rừng Tây Bắc một chút ấm áp, xua tan đi bớt những cái giá rét cắt da cắt thịt của mùa đông. Như vậy điều Tố Hữu mong muốn là đưa vào thơ một thiên nhiên Việt Bắc bớt đi sự khắc nghiệt, những thứ đã từng là trở ngại, khiến bộ đội chùn bước trong kháng chiến, để đem đến cho núi rừng Việt Bắc một vẻ đẹp khác biệt, ấn tượng bên cạnh cái khắc nghiệt của thời tiết của địa hình. Bên cạnh vẻ đẹp chấm phá của thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn trong lao động “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” – lưỡi dao mà tác giả nhắc đến là lưỡi dao chuyên biệt để đi rừng của dân tộc nơi đây, để mở đường vào rừng. Tư thế của con người thể hiện qua từ miêu tả địa hình “đèo cao”, một dạng địa hình đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, chập chùng, gập ghềnh muôn kiểu, gợi ra vẻ đẹp mạnh mẽ hiên ngang, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Bức tranh thứ hai chính là bức tranh mùa xuân, thiên nhiên tái hiện qua cây “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”, tác giả đã có sự chuyển đổi màu sắc rất linh hoạt, chuyển từ một màu xanh thẫm lạnh lẽo sang sắc trắng dịu dàng, khỏe khoắn. Thiên nhiên nổi bật lên với màu trắng của hoa mơ, đó là màu trắng tinh khôi, thanh khiết, trải dài mang sức sống rất mãnh liệt, bức tranh thiên nhiên dường như bừng sáng hẳn lên. Trên nền thiên nhiên ấy ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp của con người đang trong công việc lao động nhẹ nhàng, với phẩm chất dồn tụ lại trong hai từ “chuốt từng”, cho thấy sự cần mẫn, chăm chỉ, sự cẩn trọng và đặc biệt là phẩm chất tài hoa trong lao động của con người Việt Bắc.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Bức tranh tiếp theo trong bộ tranh tứ bình chính là bức tranh mùa hạ, thiên nhiên được gợi lên trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng”, bức tranh thiên nhiên mùa hạ không chỉ được tái hiện bằng thị giác mà còn được tái hiện bằng cả thính giác, vẻ đẹp được kết hợp cả hình ảnh và âm thanh. Câu thơ dù chỉ sáu chữ thế nhưng nó đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn, tiếng ve gọi mùa hè, rồi mùa hè lại nhuộm vàng cả rừng phách. Đặc biệt bước đi của thời gian đã được Tố Hữu hữu hình hóa bằng phong cách dùng từ độc đáo “đổ vàng”, nhấn mạnh tốc độ chuyển màu nhanh chóng và đồng loạt. Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên rực rỡ chính là hình ảnh con người trong lao động, cách gọi “cô em gái” thể hiện tình cảm gắn bó, thân thuộc của tác giả với đồng bào Việt Bắc. Cô gái hái măng “một mình”, gợi ra vẻ đẹp bình dị, lặng lẽ, sự đóng góp âm thầm trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần làm nên đất nước.

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Cuối cùng chính là bức tranh mùa thu, đến đây phải nhắc đến một điều mà Tố Hữu đã cố tình dụng ý trong sự phá lệ của trình tự bốn mùa, bức tranh tứ bình bắt đầu vào mùa đông và kết thúc vào mùa thu, chính là sự song hành với cuộc kháng chiến của quân dân ta, sự khắc nghiệt của mùa đông chính là sự gian khổ trong những năm tháng kháng chiến, mùa thu chính là mùa của thu hoạch, là mùa để thu về những quả ngọt sau bao tháng ngày vất vả, đại diện cho sự thắng lợi của quân dân ta. Đồng thời sự khởi đầu và kết thúc này cũng trùng khớp với thời gian mở đầu và kết thúc chín năm kháng chiến ròng rã ở chiến khu Việt Bắc. Bức tranh thiên nhiên mùa thu mở ra với câu thơ “Rừng thu trăng rọi hòa bình”, hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, trước hết đó là vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, đồng thời cũng gợi ra những đêm thao thức không ngủ trong suốt chín năm kháng chiến gian khổ, cuối cùng ánh trăng cũng chính là ánh sáng của ấm no, hạnh phúc. Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là con người đang say sua cất tiếng hát trong giây phút xúc động, lưu luyến của sự chia ly.

Như vậy, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đã được Tố Hữu khắc họa thật sinh động qua những câu thơ trên.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1079

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống