Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Đề bài: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
– “Tây Tiến” (1848) của Quang Dũng là một bài thơ tiêu biểu viết về người lính Tây Tiến. Họ là những con người mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng, bi tráng, sẵn sàng lấy máu mình tô thắm cho lá cờ Tổ Quốc, đồng thời họ còn là những con người mang tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
II. Thân bài:
1) Khái quát chung:
Viết về những người lính chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc, “Tây Tiến” được viết bằng bút pháp lãng mạn: là bút pháp sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, tô đậm những cái phi thường, khác thường nhằm tác động mạnh vào cảm xúc người đọc.
2) Vẻ đẹp người lính Tây Tiến:
– Trước hết người lính Tây Tiến hiện lên là những con người hào hùng, bi tráng:
+ Hoàn cảnh xuất hiện của họ được xây dựng từ đời sống, môi trường chiến đấu rất phi thường: đó là bối cảnh thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ, dữ dội, hiểm trở với đủ núi cao, vực thẳm, sông dài, mưa nguồn, thú dữ…:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
=> Giữa bối cảnh phi thường, dữ dội như vậy khiến người lính cũng trở nên thật phi thường.
+ Và rồi họ xuất hiện, trên cái nền thiên nhiên hoang vu hiểm trở, hùng vĩ đó, người lính Tây Tiến thật oai phong, lẫm liệt và phi thường:
=> Phi thường trước hết ở sự gian khổ, cùng cực: ăn đói, mặc rách, bệnh tật, sốt rét rừng đến da xanh trọc đầu:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Sốt rét đã khiến cho thân thể họ tiều tụy, tuy nhiên họ vẫn giữ được vẻ hào hùng “dữ oai hùm”. Với bút pháp lãng mạn, tác giả nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa hình thức có phần xanh xao, tiều tụy với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong.
=> Người lính Tây Tiến còn phi thường và tràn đầy khí phách ở chỗ, chẳng những dám đương đầu với mọi thử thách, gian truân như đói rét, bệnh tật, rừng thiêng, nước độc, thú dữ…mà còn có thái độ, tư thế hiên ngang trước cái chết:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Nếu câu thơ thứ nhất gợi lên cái gì đó hơi bi thảm về những nấm mồ của những người phải bỏ xác lại trên đường hành quân đầy hiểm trở thì câu thơ thứ hai đã nâng ý thơ thành bi tráng bởi cái phương châm, triết lý, lẽ sống của tuổi trẻ thời bấy giờ là “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
=>Thực tế chiến đấu gian khổ cùng cực, chết bệnh nhiều hơn chết trận, thậm chí khi chôn cất một manh chiếu che thân cũng không có, nhưng chủ nghĩa lãng mạn khi nói về nỗi buồn, cái chết với ý nghĩa biểu hiện cái đẹp, chất bi hùng nên hình ảnh người lính trong thơ vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng. Họ ngã xuống trong tiếng nhạc bi tráng của núi sông:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Chính điều đó đã làm cho cái chết của người lính có bi mà không lụy, vẫn đẹp và hào hùng.
– Ngoài ra những chiến sĩ Tây Tiến còn là những con người lãng mạn, hào hoa: Điều này thể hiện ở chất hào hoa, lãng mạn, thanh lịch của những chàng trai, cô gái đất Hà Thành:
+ Dù chiến đấu trong môi trường khắc nghiệt nhưng họ vẫn nhạy cảm trước những hình ảnh đẹp nên thơ, tinh tế của cảnh và người: một làn sương mờ ảo; một dáng hoa lau phất phơ; những đêm hội đuốc hoa với những xiêm áo rực rỡ, điệu bộ e ấp của những cô gái vùng cao:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
(…)
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
=> Điều đó làm cho hình ảnh người lính trở nên đẹp cả về tâm hồn, sức mạnh, như trong bài “Lên Tây Bắc”, Tố Hữu cũng đã nhấn mạnh vẻ đẹp lãng mạn của người lính:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
+ Cuộc sống và chiến đầu của họ gian khổ, thường xuyên phải đối mặt với tử thần nhưng người lính vẫn lạc quan, yêu đời, gửi niềm tin vào cuộc sống, vào chiến thắng, vẫn mơ về những nét đẹp, thanh lịch, dịu dàng của những cô gái đất Hà thành:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
=> Người lính ra trận luôn phải đối mặt giữa cái sống và cái chết, nhưng họ không nghĩ đến cái chết, trái tim vẫn mơ về thiên thu, về tình yêu, “Vẫn bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Tình yêu riêng tư hòa quyện với tình yêu đất nước đã nâng đỡ tâm hồn, tinh thần người lính vượt qua mọi gian khổ, hi sinh để chiến thắng kẻ thù. (Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần).
3) Nghệ thuật:
– Bằng bút pháp lãng mạn, sử dụng từ ngữ giàu sức gợi hình, âm điệu hùng tráng mạnh mẽ, bài thơ đã khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo, rất đáng tự hào.
III. Kết bài:
– Quang Dũng đã khắc họa một cách đầy đủ, chân thực về chân dung tập thể của người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ.
– Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ mà vui tươi hào hùng:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông”
B/ Bài văn mẫu
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến – mẫu 1
Trong thời kỳ đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng trung tâm được nhiều nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống Pháp trong đó có vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.
“Tây Tiến” là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất Hà thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ, Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn và cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi tráng mà không hề bi lụy.
Chất bi tráng ở đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà diễm lệ, thơ mộng mà đầy hoang sơ, bí ẩn. Mảnh đất Tây Bắc vừa là môi trường sống và chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên lại vừa đối lập và bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập ghềnh của “dốc thăm thẳm”, của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, người lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: “súng ngửi trời”. Vượt qua núi đá gập ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Vượt qua ái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm hơi… Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng đầu tinh nghịch, lãng mạn của người lính Tây Tiến.
Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng, khác thường:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh và niềm vui sống nó lại trở thành nét rất riêng, thành cái “uy” của họ. Cụm từ miêu tả “dữ oai hùm” vừa thể hiện sức mạnh oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập độc đáo:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai Hà thành tâm hồn lãng mạn và một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.
Những khó khăn mà người lính phải đối mặt là vô cùng, nhiều khi là cả cái chết. Ấy vậy mà khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh thật đặc biệt:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính truyền cảm. Nó phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vãn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng có sự trầm lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải phóng quân thời chống Mỹ hy sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.
“Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tì súng trên xác trực thăng Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng là cái nhìn của tất cả những người lính Tây Tiến cũng khác thường và tạo hình dữ dội. Nó nói lên cái tột cùng cơ cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, “rải rác biên cương mồ viễn xứ” là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến đều tâm niệm: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nghĩa là họ tình nguyện cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà không đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.
Cái chết thiếu thốn không vì thế mà làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành “áo bào” đưa anh về với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. Nó là khúc bi ca tiễn đưa những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.
Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang, bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ mà vẫn đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.
Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến là cảm hứng và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng của cộng đồng, của dân tộc. Chính nó đã tạo ra ở nhà thờ cái nhìn có tính anh hùng cổ điển trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc họa người lính Tây Tiến ở những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng người đọc những tình cảm tốt đẹp.
Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn ở giọng điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết có ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên và con người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực tế chiến đấu và đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.
“Tây Tiến” là bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm, khi “những ngày vui sao cả nước lên đường” đi chiến đấu: “Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến sĩ chung câu quân hành”. Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ…”
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến – mẫu 2
Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, là thành tựu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Trần Lê Văn đã từng có những nhân xét như: “ Trước Tây Tiến Quang Dũng đã có những khúc dạo đàn khá hay nhưng thật sự chỉ đến Tây Tiến Quang Dũng mới thực sự trình làng một phong cách thơ, một diện mạo thơ”. Đó là một phong cách hồn hậu, hào hoa. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến.
Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như thế, nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom nhưng cũng rất vui tươi hào hùng. Nỗi nhớ đây là nỗi nhớ chơi vơi. Hiệp vẫn “ơi” cho ta thấy một cảm giác vang xa nỗi nhớ ấy như vọng vào mấy năm trước để trở về những kỉ niệm vui tươi ấy. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. Thật khá khen cho cái “ đêm hơi”. Đó là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân.
Cuộc hành quân ấy còn nhiều gian nan và chính những gian nan ấy đã làm nên vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng tây tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những câu thơ ấy đã mang đến những hình ảnh của cuộc hành quân gian khổ của Tây Tiến. Những câu thơ với mật độ thanh trắc dày đặc đã cho thấy được sự trúc trắc trong chính đường đi của đoàn quân. Nó như lột tả hết những độ cao sâu thăm thẳm mà những đoàn quân tây tiến kia phải vượt qua. Dẫu có xuống nơi vực sâu thăm thẳm hay đến những núi cao tưởng như ngọn súng chạm đến tầng mây kia thể hiển một vẻ đẹp hiên ngang của người lính tây tiến. Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước. mục đích của nó nhâm nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Đến câu thơ cuối thì một dòng toàn thanh bằng lại được xuất hiện như bù lại cho những câu thơ mang nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình.
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. câu nói ấy thể hiện sự nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Mất đi nhưng người lính ấy chết trong tư thế nhẹ nhõm không đau đớn chỉ là bỏ quên đời thôi. Tác giả lại nhớ đến những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên. Quang Dũng nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Đến đoạn thơ tiếp theo hình ảnh những người lính Tây tiến hiện lên với những đêm liên hoan văn nghệ trên mảnh đất Lào với những cô gái Viên Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Và từ những đêm liên hoan ấy những người con của tổ quốc lại ra đi trong buổi chiều với sự quyến luyến của bao người. và từ đó hình ảnh của những chàng trai Tây Tiến cũng hiện lên thật khổ cực mà lại thật oai hùng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những cô gái Viên Chăn trong đêm liên hoan ấy e ấp trong những điệu kèn tiếng trống. sau đêm liên hoan ấy những chàng trai tây tiến lại lên đường ra đi để bảo vệ biên giới. Hình ảnh những người chiến sĩ tây tiến hiện lên với những ngoại hình cụ thể:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đây là những câu thơ tả về những người chiến sĩ tây tiến. Những người lính ấy xuất hiện với hình ảnh một đoàn binh không mọc tóc. Những câu thơ có thể hiểu theo hai cách. Đó là đoàn quân ấy cắt tóc đi để phù hợp với điều kiện chiến đấu gian khổ. Hay cũng có thể hiểu rằng sinh hoạt trong chốn rừng thiêng nước độc rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Hay nó chính là kết quả của những trận sốt rét rừng. Dù hiểu cách thì đoàn quân Tây Tiến vẫn hiện lên thật đẹp. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Hay đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. những câu thơ này được coi là mộng rớt buồn rơi.
Những đoạn thơ cuối bài là đoạn thơ thể hiện rõ nhất vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. ”
Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thành ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng trong tim mong một ngày nào đó sẽ được gặp lại mà giờ đây có những người mồ rải rác khắp biên cương. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lý tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Và con sông Mã một mình vang lên khúc nhạc như đưa tiễn linh hồn các anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Qua đây ta thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương mà quyết tâm gìn giữ thà hi sinh tất cả cũng không chịu rời bước để rồi trở thành một bức tượng đài bằng thơ vĩnh cửu với thời gian.
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến – mẫu 3
Không thể phủ nhận được rằng cũng chính trong cuộc kháng chiến cứu nước ( 1945 – 1954) của dân tộc Việt Nam ta thì có những người lính có vị trí rất quan trọng. Cho nên hình ảnh của người lính dường như cũng luôn được coi là một trong những hình ảnh thơ thật đẹp. Tác phẩm “Tây Tiến” cũng chính là một trong những tác phẩm hay của nhà thơ Quang Dũng, và là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi viết về biểu tượng người lính của thời kỳ trước.
Không thể nào có thể nói hết lên vẻ đẹp bi tráng của người lính trong chiến tranh trước đây được, Người ta như cũng đã lại cảm nhận thấy được cũng chính nhà thơ Quang Dũng ông cũng đã thật tài tình để mà có thể sử dụng bút pháp nghệ thuật lãng mạn. Có lẽ người đọc như cũng có thể cảm nhận thấy được cũng chính với bút pháp này có khuynh hướng dường như cũng đã lại tô đậm những cái đặc biệt, cái khác thường và sử dụng được thủ pháp đối lập nhằm tác động mạnh mẽ vào cảm quan, gây ấn tượng mạnh sâu sắc cho người đọc. Chính vì lý do đó mà ta cảm nhận được hình ảnh ấn tượng nhất về người lính Tây Tiến như hiện lên cũng chính với những phẩm chất cam trường. Người đọc dường như cũng nhận thấy được cũng thấy được những sự quả cảm nhưng cũng rất lãng mạn, nên thơ. Thế rồi nhận thấy được cũng chính hai phẩm chất này đan cài hòa quyện vào nào tạo nên một tượng đài như thật đẹp về người lính cụ Hồ của tầng lớp tri thức, tiểu tư sản.
Đầu tiên khi nói về vẻ đẹp bi tráng của người lính, Quang Dũng đã dựng nên một khung cảnh thiên nhiên nó chứa đựng được sự khốc liệt đầy gian nan, thử thách. Người đọc cũng có thể cảm nhận thấy được rằng đấy chính là nơi những người lính Tây Tiến từng đi qua, đã từng chiến sống và chiến đấu. Thế rồi người đọc như cũng lại nhận ra được cũng chính trong con mắt đầy cảm hứng lãng mạn và giàu trí tưởng tượng của người lính Tây Tiến thật đẹp. Tất cả những cảnh vật ấy lại càng trở nên hung hãn và người ta cũng nhận thấy được vẻ như thật dữ tợn. Tất cả đều như muốn án ngữ, đe dọa, vồ chụp lấy con người thông qua những câu thơ như:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
…
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
Thực ra, không ai là không thấy được khi mà chúng ta đứng trước thiên nhiên dữ dội con người, những người lính không hề sợ hãi, mà thông qua đây ta như cũng nhận thấy được nó dường như cũng đã còn làm tôn lên vẻ kỳ vĩ. Ta cũng nhận thấy được nó cũng lại mang được nét đẹp cũng thật là khỏe đẹp của con người. Tác giả Quang Dũng cũng thật tài tình biết bao nhiêu, khi chính bằng việc sử dụng thiên nhiên làm nền cho chính sự xuất hiện thật hiên ngang của người lính Tây Tiến. Người đọc như cũng có thể cảm nhận được cũng chính bởi lẽ trên cái đỉnh núi cheo leo hiểm trở kia chúng ta vẫn thấy dáng vẻ sừng sững, nó mang được sự ngang tàn đầy tình sáng tạo của nhà thơ Quang Dũng. Thế rồi cũng chính từ độ cao, và cái độ sâu ngàn mét kia tầm mắt người lình vân thâu tóm được chính là vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Thiên nhiên như hiện ra đó chính là những bản làng trong cơn mưa rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Tuy nhiên vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến lúc này đây cũng đã lại được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ sau của bài:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Người đọc cũng có thể nhận thấy được đây cũng chính là một đoàn quân với hình hài thật kỳ dị hiện lên đó là “không có tóc” nước da của người lính lại có màu “xanh tàu lá” . Người đọc cũng thấy đây là một hình ảnh trần trụi và khốc liệt về người lính ngày ấy. Những người lính dường như học cũng lại phải sống chiến đấu nơi nước độc rừng thiêng, trải qua biết bao những cơn sốt rét liên miền, họ sống trong cảnh thiếu ăn, thiếu thuốc men phương tiện đi lại,… gì cũng thiếu. Chính những điều này đã tàn phá sức khỏe của họ, thế rồi ngay cả mái tóc đã rụng trọc, nước da thì xanh xao nhưng hơn hết tác giả Quang Dũng dường như thật tinh tế khi ông cũng đã lấy cái “bi” để toát lên cái “tráng”. Lý do ở đây đó chính là ngay trong dáng vẻ kỳ dị xanh xao đó của những người lính Tây Tiến thì dường như cũng lại vẫn toát lên cái bừng bừng khí thế “dữ oai hùm” thật dữ tợn biết bao của đoàn binh. Hêm một điểm nữa đó chính là cách miêu tả mang tính tương phản giữa ngoại hình cùng với chính nội tâm đã làm toát lên vẻ đẹp tinh thần của người lính năm xưa thật hiên ngang và hào hùng vậy.
Những người lính thì họ sống anh hùng thì chết cũng thật anh hùng. Trong bài thơ “Tây Tiến” người đọc như cũng nhận thấy được cũng lại thật nhiều lần Quang Dũng đã nói về cái chết. Thế nhưng ta vẫn nhận thấy được âm hưởng bài thơ lúc này đây dường như cũng không hề có cảm giác bi lụy mà vẫn mạnh mẽ hào hùng mag nó cũng cứ vẫn truyền đến tay người đọc cái tinh thần quả cảm của lớp người ra trận ngày ấy. Họ đã ra đi trong lòng một mực vì nghĩa lớn vì chính cuộc sống hạnh phúc và ấm lo của chính những người thân yêu của họ. Họ – Những người lính Tây Tiến cũng coi cái chết tựa như lông hồng qua câu thơ “gục bên súng mũ, bỏ quên đời” đó cũng chính là sự ra đi của họ thật nhẹ nhàng. Họ chết trong tư thế không chịu khuất phục trước cái chết và có chăng nó cũng chính là giấc ngủ ngàn thu mà thôi.
Khi những người lính Tây Tiến họ cũng đã lại dấn thân vào nguy hiểm họ biết rõ sự gian khổ và ác liệt biết bao nhiêu. Có lẽ chính vì thế những “nấm mồ viễn xứ” như đã nằm rải rác biên cương. Hình ảnh này có thể ghê sợ và ớn lạnh nhưng với những người lính Tây Tiến họ ra đi vì nghĩa lớn nên học cũng không sợ gì cả. “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” chính là câu thơ mang được một sự quyết tâm. Đó cũng chính là lời thề, đó cũng chính là quan niệm sống, phương châm sống của các những người lính. Người lính Tây tiến cũng chính là những người có trách nhiệm công dân đối với Tổ Quốc. Thế rồi cũng thật đau đớn biết bao khi các anh ngã xuống thì chính bộ quân phục của các anh hóa thành những chiếc “áo bào” để có thể đưa các anh về với đất mẹ quê hương, đất mẹ như cũng ôm lấy các anh, bao bọc các anh – những người lính lập được chiến công. Không thể nào không nhắc đến con sông Mã gắn với vui buồn của các anh, và rồi nó dường như cũng lại đã “gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng đã thật tinh tế khi sử dụng từ “gầm” để có thể truyền được vào câu thơ tất cả nỗi đau đớn, và hơn hết đó chính là sự bi tráng của người chiến sỹ.
Chính bằng tài năng sáng tạo Quang Dũng thực sự cũng đã rất thành công trong việc khắc họa được tinh tế, chân thực được vẻ đẹp bi tráng của người lính thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Tây Tiến dường như cũng lại đã khắc họa rõ nét hình tượng người lính như một tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hay ngụ ý nói đến những người lính vô danh một thời đánh giặc không thể nào quên được.
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến – mẫu 4
Chiến tranh qua đi, lớp bụi thời gian có thể phủ dày lên thế hệ những người anh hùng vô danh. Nhưng văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của mình sẽ luôn lưu giữ trong tâm hồn người đọc hình ảnh những người anh hùng của dân tộc đã ngã xuống cho độc lập tự do. “Tây Tiến” của Quang Dũng chính là một tác phẩm như thế. Trong bài thơ, nhà thơ đã tạc dựng thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp bi tráng, để lại những rung động sâu sắc trong lòng người đọc.
Được sáng tác khi Quang Dũng rời binh đoàn đã gắn bó không lâu, “Tây Tiến” chính là dòng hồi ức nhiều thương nhớ về thiên nhiên và con người, đặc biệt là những người đồng đội của ông, những người đã từng sống và kề vai chiến đấu. Có những người đã anh dũng hi sinh, lặng lẽ ngã xuống, mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.
Với việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp nghệ thuật độc đáo như tương phản, nhân hoá, … Quang Dũng đã tạc dựng thành công hình ảnh những người chiến sĩ anh hùng dũng cảm đồng thời cũng có một tâm hồn giàu tình cảm. Đó là bức tượng đài sừng sững hiên ngang giữa một không gian hùng vĩ.
Trước hết, hình tượng người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên trong hoàn cảnh sống gian khổ trên đường hành quân, trong nỗi nhớ của tác giả:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Ở đây, nhà thơ đã tái hiện hiện thực chiến tranh gian khổ cùng thiên nhiên khắc nghiệt mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng. Những năm tháng ấy, họ đã cùng nhau kề vai chiến đấu, vượt qua cuộc sống đầy khó khăn, vất vả. Cụ thể nhất là những điều mà Quang Dũng miêu tả:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Nhà thơ không tránh né hiện thực khắc nghiệt mà tái hiện hết sức chân thực. Chúng ta có thể thấy được nơi núi rừng nhiều hiểm nguy, những cơn sốt rét rừng khiến tóc người lính không thể mọc được. Hay nhiều người cho rằng, người lính chủ động đối mặt với hiện thực, chủ động cạo trọc đầu để tăng thêm vẻ dữ dằn và thuận lợi trong đánh giáp lá cà hơn. Những cơn sốt rét rừng cũng khiến cho da người lính trở lên xanh xao, vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại vô cùng sâu sắc, thể hiện sự lạc quan và dũng cảm, sức mạnh áp đảo quân thù. Trước hiện thực khắc nghiệt, Quang Dũng miêu tả dáng hình những người chiến sĩ tiều tụy nhưng vẫn gợi âm hưởng hào hùng của cuộc sống.
Câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với việc sử dụng tù ngữ mang âm điệu mạnh mẽ như “tiến”, “mọc tóc” cùng 2 chữ “đoàn binh” Hán Việt đã thể hiện khí thế nghiêm trang, hùng dũng đầy hào khí bi tráng. Bên cạnh đó, thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” còn vừa làm nổi bật sức mạnh tinh thần của người lính vừa thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc.
Không dừng lại ở đó, trong nỗi niềm hoài niệm của Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến còn hiện lên vô cùng đẹp đẽ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những người lính Tây Tiến năm ấy đều xuất thân từ tầng lớp trí thức, họ ra đi khi những mối tình còn đang dang dở, chính vì thế trong tâm trí của họ, ngoài hướng về Tổ quốc và quê hương còn tồn tại một bóng hình. Người lính Tây Tiến vẫn hoàn niệm về một “dáng kiều thơm”. Từ nơi biên cương xa xôi, họ gửi gắm niềm thương nỗi nhớ với dáng hình nơi quê nhà song vẫn không quên nhiệm vụ của mình.
Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong dòng mạch cảm xúc của nhà thơ vừa mang những đường nét tương phản, vừa kết hợp khéo léo chất hiện thực và lãng mạn.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến được miêu tả trong tư thế hiên ngang vang dội khí thế hào hùng cùng một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây, bức tượng đài người lính Tây Tiến lại được chạm khắc những đường nét nổi bật về sự hy sinh của mình. Không nhấn mạnh sự hi sinh và cái chết, Quang Dũng đã khéo léo nói giảm nói tránh về sự hi sinh của người lính và thể hiện tinh thần lạc quan, tư thế chủ động chấp nhận sự hi sinh của người lính. Cái chết xuất hiện trong câu thơ bi mà không lụy, Quang Dũng đã mô tả hết sức chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng người lính khi ngã xuống vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng, nhẹ tựa lông hồng.
Câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu đứng một mình có lẽ sẽ khiến trái tim người đọc như chùng xuống khi nói về cái chết đau thương của người lính về hiện thực những người ra đi để bảo vệ tổ quốc nhưng phải nằm lại nơi xứ người. Từng chữ từng chữ nối tiếp nhau như nhấn thêm một nốt nhạc buồn thăm thẳm của khúc ca hồn tử sĩ.
Tuy nhiên câu thơ ngay sau đó, tác giả lại khắc họa hình ảnh những người anh hùng dân tộc với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Ngay tại thời điểm quyết định rời thành thị để lên đường đi bảo vệ biên giới quốc gia, vượt muôn ngàn trắc trở, trước mọi hiểm nguy và khắc nghiệt, người lính đã sớm chủ động tiếp nhận hậu quả xấu nhất. Họ sẵn sàng hi sinh ngay cả khi tuổi thanh xuân còn đang dang dở “chẳng tiếc đời xanh”. Dẫu hiện thực muôn vàn bi thương khi manh áo niệm thân cũng không có, song trong cảm nhận của Quang Dũng, “áo bào thay chiếu anh về đất” vẫn là hình ảnh vô cùng đẹp đẽ. Hiện thực dù đau đớn đến đâu vẫn làm nổi bật hình tượng người lính vô cùng bi tráng.
Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính vốn là mất mát xót xa lại là sự trở về với đất nước, với núi sông. Nói “anh về đất” để diễn tả khéo léo cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ.
Có thể nói, với sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã xây dựng thành công một tượng đài về người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp dân tộc ta trong thời đại toàn dân cùng đứng lên kháng chiến vệ quốc những năm dài chống thực dân Pháp. Bức tượng đài đó là sự kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến nhiều mất mát nhiều đau thương nhưng vô cùng anh dũng. Không chỉ là nỗi nhớ, sự hoài niệm về một thời đã qua mà còn là sự trân trọng, khắc ghi của Quang Dũng.
Vẻ đẹp bi tráng của người lính đã góp phần tạo nên giá trị sâu sắc cho bài thơ “Tây Tiến”, đưa bài thơ trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời đại đồng thời khẳng định phong cách thơ độc đáo của ngòi bút Quang Dũng. Năm tháng qua đi, hình tượng bi tráng ấy vẫn sống mãi trong lòng người đọc với sự trân trọng và muôn vàn biết ơn thế hệ anh hùng đã ngã xuống.