Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
– Đề tài người nông dân trước cách mạng.
– Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt.
II. Thân bài:
a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ.
– Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe.
– Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.
– Cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
b. Xóm ngụ cư:
– Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
– Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.
c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:
– “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.
– Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống.
– Trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.
III. Kết bài:
– Khái quát lại vấn đề
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Vợ nhặt – mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt – một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:
Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma và sau đó là ‘”người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya” Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư là ”những khuôn mặt hốc hác u tối” trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng “ngồi ủ rũ dưới những xó đất ; không buồn nhúc nhích”. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”… Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.
Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như chứng tích văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên.
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Vợ nhặt – mẫu 2
Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều những tác phẩm và những cây bút xuất sắc, nhưng ở mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại thấy một khía cạnh riêng, mang tính cá nhân của người viết. Ví như Nguyễn Công Hoan là giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẩu truyện ngắn cười ra nước mắt ví như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Hay Ngô Tất Tố là nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế má trong Tắt đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy bi kịch của Chí Phèo.
Và rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn và cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt đẹp của con người. Lấy tư tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ có tính phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.
Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đáng lý ra nên ở nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước đến nghĩa địa. Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. Có thể nói rằng nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng. Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường như đã nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin mình sống nổi” trong đó có cả 3 con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ. Bởi dẫu Chí Phèo dù đã ở dưới đáy của xã hội, nhưng vẫn có lúc tin vào hạnh phúc với Thị Nở, còn mẹ con Tràng và những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ cư ấy dường như đã bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ là một bức màn mỏng, mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống, thảm hại và bi thương. Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm trên xóm nhỏ. Đồng thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Vợ nhặt – mẫu 3
Trong nền văn học VN hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng góp tích cực về thể loại truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai đoạn sáng tác ông viết không nhiều tuy nhiên khi nhắc đến ông người đọc không thể không nhớ đến các truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ nhặt….
Trong đó có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ nhặt người đàn bà về làm vợ trong hoàn cảnh XH đang diễn ra nạn đói khủng khiếp Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá trị nhân phẩm của con người và những phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn cảnh XH tối tăm.
Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị XH thấp kém. Anh có một ngoại hình xâu, quê kệch với đôi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống với bà mẹ già trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh cũng không có một nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày anh gò lưng kéo xe bò chở thóc mướn để kiếm miếng ăn nuôi thân và nuôi bà mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN trước kia.
Với thân phận và địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong cảnh cô đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ không một người đàn bà nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế nhưng trong diễn biến câu chuyện Tràng lại có vợ hay nói đúng hơn là tình cờ nhặt được vợ không phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.
Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe bò vào dốc tỉnh thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đỡ mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh ni”. Tràng không có chủ tâm chọc ghẹo cô nào nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này, nhà tôi ơi nói thật hay nói khoác đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu Tràng không nhận ra chị là ai khi người đàn bà gợi nhắc Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ Tràng phải mời chị ăn trầu nhưng chị không chịu ăn trầu mà lại đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều: “Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà chẳng nói năng gì. Chị ăn xong Tràng ổm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như nói chơi: “Này nói đùa chớ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng không ngờ người đàn bà đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.
Tràng có vợ là việc khác thường ngoài sức tưởng tượng của mọi người từ người dân xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nửa vì sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình ở Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngã rạ. Không buổi sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai. Trong hoàn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang hoành hành, một thanh niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm đó là vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu có ý nghĩa phê phán xã hội gây gắt.
“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực thống trị, tác phẩm còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện và khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh xã hội tối tăm.
Trước hết đó là khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc lướt qua truyện chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung sống với nhau diễn ra hình như là hết sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ ấy không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi thì chắc hẳn họ đã không nên vợ nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ những tình cảm mới lạ. Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường, anh tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc Tràng quên đi cuộc sống tối tăm ê chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy một cái gì mới mẻ lạ lắm nó ôm ấp mênh mang khắp da thịt. Còn người đàn bà mặc dù chị có vẻ khó chịu trước ánh mắt tò mò và những lời trêu chọc trong xóm ngụ cư nhưng vẫn không giấu được vẻ e thẹn.
Đặc biệt là sau đêm chung sống với nhau. Tràng và người đàn bà như được lột xác biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn bà thì trông hiền hậu đúng mực còn Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng phấn chấn tràng ngập trong lòng. Hơn nữa anh còn ý thức được rằng mình là một người chồng, người chủ gia đình phải có trách nhiệm gánh vác.
Rõ ràng là đằng sau vẻ tình cờ ngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt được vợ thì chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thúc đẩy Tràng và người đàn bà đến với nhau và nên vợ nên chồng bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè nặng lên xã hội.Đáng lưu ý hơn nữa dù sống trong cảnh tối tăm thê thảm nhưng người lao động vẫn thể hiện một tấm lòng nhân hậu vị tha cao cả. Điều đó thể hiện tập trung qua thái độ suy nghĩ của bà cụ Tứ đối với người đàn bà xa lạ mà Tràng nhặt về nhà làm vợ. Theo lẽ thường trong hoàn cảnh nạn đói đang đe doạ từng ngày, từng giờ, bà cụ Tứ có đủ lí do ngăn cấm và xua đuổi người đàn bà kia. Bởi vì nếu bà đồng ý cho người đàn bà về chung sống với con mình thì điều đó cũng có nghĩa là rước về nhà thêm một miệng ăn, trước cái đói về nhà. Thế nhưng bà cụ Tứ lại không làm như vậy. Trái lại, bà cụ còn cảm thông, tủi hổ cho chị và vui vẻ chấp nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Không xua đuổi hắt hủi một con người cùng đường khốn khổ mà còn xem như là một ân nhân, tấm lòng nhân hậu vị tha của bà cụ Tứ thật là cao cả hiếm thấy.Cùng với khát vọng hạnh phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm, giành lấy sự sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính đáng ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe bà cụ Tứ nói đến chuyện đóng thuế. Đặc biệt là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện ra trong suy nghĩ của Tràng.Truyện thành công với tình huống truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và cách dùng ngôn ngữ lời ăn tiếng nói của người dân lao động. “Vợ nhặt” được xem là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân.
“Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân lấy đề tài về nạn đói 1945 nhưng truyện được sáng tác sau CM tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng thời gian cần thiết để suy ngẫm nhìn nhận vấn đề và dụng công nghệ thuật. Nhờ đó Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề XH, con người một cách sâu sắc dựa trên tình huống truyện độc đáo kết hợp với nghệ thuật kể chuyện linh hoạt và ngòi bút miêu tả tinh tế.
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Vợ nhặt – mẫu 4
Vợ nhặt có tiền thân là truyện dài Xóm ngụ cư được tác giả hoàn thành khá lâu sau Cách mạng tháng Tám theo đơn đặt hàng của tờ báo Văn. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết về nông thôn và người dân nông thôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Một trong những giá trị cơ bản làm nên sự thành công của tác phẩm kể đến chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Tác phẩm lấy bối cảnh của truyện là khung cảnh nông thôn Việt Nam trong cái năm mà những người lớn tuổi vẫn quen gọi là năm đói – đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945 – khiến cho hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Có thể nói, đến bây giờ nhắc lại chúng ta cũng không khỏi cảm thấy rùng mình.
Truyện bắt đầu bằng khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát (…) không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” ở cái xóm ngụ cư khi cái đói bắt đầu tràn đến: những đứa trẻ con nhà nghèo “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”, những người sống thì “xanh xám” dật dờ lặng lẽ đi lại như những bóng ma dưới những gốc gạo, còn người chết thì vô số “Không buổi sáng nào người đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường”, những ngôi nhà thì “úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa”. Một cảnh tượng thật thê lương, ảm đạm, tối tăm, ngột ngạt. Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn ở đây là không hề có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân, phát xít (chúng bắt dân ta nhổ lúa trồng đay) nhưng những tội ác dã man của bọn chúng vẫn hiện lên trong từng trang viết.
Trong hoàn cảnh đó cuộc sống của người dân lao động luôn luôn bị cái chết rình rập, đe dọa và có lẽ khó có ai có thể thoát ra khỏi cái chết. Tính mạng của họ lúc này thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể “nhặt” được vợ như nhặt được một thứ gì đó ở ngoài đường, người ta có thể bỏ qua cả nhân phẩm để mà có được cái ăn.
Qua tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, Kim Lân đã phản ánh một cách rõ nét thực trạng xã hội nước ta những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, đồng thời cũng phản ánh một cách chân thực thân phận của người dân lao động xã hội cũ. Tràng chỉ cần hai bận tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc cùng với một bữa cơm no nê ngoài chợ mà có được vợ. Còn “thị” vì cái đói, vì miếng ăn mà “thị” trở nên cong cớn và sẵn sàng đánh đổi cả nhân phẩm của mình để được ăn và chấp nhận theo Tràng về nhà cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi.
Đáng chú ý là hình ảnh bữa cơm trong buổi sáng đầu tiên tại nhà Tràng, bữa cơm ra mắt của nàng dâu mới “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” mà mỗi người chỉ được có hai lưng lưng đã hết và “món tráng miệng” là một nồi “chè khoán” (cháo cám) với vị đắng chát trong cổ.
Đó là sự đồng cảm, thương xót của nhà văn trước cuộc sống tăm tối của người dân lao động trong nạn đói, thông qua đó nói lên tiếng nói tố cáo tội ác dã man của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta. Vợ nhặt thể hiện ra bản chất tốt đẹp của người dân lao động trong sự đói túng quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, “người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, mà để vui, mà hy vọng”.
Vợ nhặt cho dù được hoàn toàn thành khá lâu sau năm đói nhưng cảm quan về cái đói thì vẫn thấm đẫm trong từng trang viết. Thông qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của mình đối với cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp trên đất nước ta năm 1945. Vợ nhặt vì thế còn là tác phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc.
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Vợ nhặt – mẫu 5
Người ta thường nói nghèo thường đi đôi với hèn. Nhưng khi đến với truyện ngắn “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta sẽ hiểu vẫn có những con người đã sống rất thanh cao, rất lương thiện trong cái đói khủng khiếp với cái nghèo bần cùng. Không những thế, tác phẩm còn ẩn chứa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc mà Kim Lân đã gửi gắm vào đó. Bản thân ông cũng là một người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khổ, nên hơn ai hết, ông hiểu rất rõ sự kham khổ của mọi người. Vì thế, trong những trang văn của ông vẫn thường thấp thoáng bóng dáng của những người nông dân tuy sống khắc khổ nhưng tấm lòng trong sạch.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng vậy, Kim Lân cũng viết về cuộc sống cùng cực của vùng quê nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khi đó, người sống và người chết xuất hiện lẫn lộn nhau. Người chết như ngả rạ, còn người sống dật dờ lang thang như những hồn ma. Kim Lân miêu tả rất chi tiết: những cái thây nằm còng queo bên đường, không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, xóm chợ về chiều xơ xác hắt hiu, hai bên dãy phố úp sụp tối om không nhà nào có ánh đèn ánh lửa. tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết… Cảnh đói được nhà văn miêu tả lại quá thê lương và xót xa. Chỉ qua một vài hình ảnh, người đọc cũng có thể hình dung ra ngay trước mắt mình cảnh những người chết đói nằm rải rác ngoài đường ngoài chợ, người ta không cả nghĩ đến chuyện chôn cất, ma chay.
Cái đói còn làm cho người ta không dám nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả chồng. Khiến cho Tràng – một người cùng khổ trong nạn đói ấy phải “nhặt” vợ. Trong bữa cơm ngày đầu của gia đình mới lẽ ra là một mâm cơm dù không thịnh soạn thì chí ít cũng có đầy đủ chút cơm rau dưa muối. Nhưng không, không cơm, không rau, cũng chẳng dưa cà dưa muối. Bữa cơm ngày đói chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Mỗi người chỉ ăn được hai lưng bát là hết sạch. Mẹ Tràng phải mang cháo cám ra cho cả nhà ăn. Nồi cháo cám đắng xít nhưng lại trở thành một thứ đồ ăn hiếm có.
Chính bọn thực dân phong kiến đã nhẫn tâm bắt người dân phải nhổ lúa trồng đay. Đay nào có thể ăn được. Rồi các loại sưu cao thuế nặng càng làm cho người dân khổ cực. Ăn còn không có miếng mà ăn thì lấy đâu ra tiền ra thóc mà đóng thuế. Bọn chúng đúng là muốn dồn người ta vào bước đường cùng, vào chỗ chết.
Tất cả những điều trên đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm. Thế nhưng, giữa cảnh đời thê lương ấy, tình người và niềm ước mong hạnh phúc vẫn luôn rực sáng trong lòng mỗi người. Đây chính là giá trị nhân đạo rất lớn mà tác phẩm đã mang lại cho người đọc. Giữa những cái xác ven đường, giữa những người đói dật dờ như những bóng ma, Tràng và thị lại dắt díu nhau về. Có lẽ sự kiện này có điều gì đó rất nghịch lý. Ngay chính bản thân Tràng cũng chợn nghĩ ở cái thời buổi này đến bản thân mình còn không biết có lo nổi không mà còn đèo bòng. Nhưng rồi, Tràng vẫn bước qua mọi lo lắng, thậm chí là sự sợ hãi, Tràng chậc kệ một cái và cùng thị bước tiếp trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Cuộc “nhặt” vợ chóng vánh đầy hài hước và rất ngẫu nhiên của Tràng tưởng như một chuyện đùa nhưng lại chính là điểm mấu chốt thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, tin rằng ngày mai cuộc đời sẽ tươi sáng hơn, bớt khổ hơn. Hơn thế nữa, sự kiện này còn thể hiện tình thương yêu, niềm đồng cảm lớn lao giữa những con người cùng khổ. Đúng như câu tục ngữ lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều. Chỉ có điều trong cái xã hội này, có lẽ ai cũng rách như ai. Hai con người cùng chung một số phận nghèo nàn đói khổ, dắt nhau về dù chưa hề có dự tính gì cho tương lai. Trước mắt họ vẫn chỉ là những xác chết ngổn ngang, những bóng người đói dật dờ. Họ thật can đảm, hay nói một cách khác là quá liều lĩnh. Bởi trong lúc đói khổ như thế này, có được miếng ăn đã là một việc lớn lao lắm rồi. Vậy mà họ còn lấy vợ, lấy chồng – một việc quá lớn lao, quá sức tưởng tượng của mọi người. Nhưng dù sao, điều này cũng khiến cho những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Cảnh “nhặt” vợ tuy đầy bi hài nhưng lại chính là niềm khát khao hạnh phúc của những con người đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Sự sống của họ có thể bị cơn đói nhấn chìm bất cứ lúc nào. Nhưng có lẽ, càng cận kề cái chết bao nhiêu thì niềm ham sống lại càng cao bấy nhiêu. Tràng và thị đã cùng nhau đi qua cơn đói, cùng bước qua những xác chết ngổn ngang. Vì niềm hạnh phúc, niềm hy vọng đang tràn ngập trong họ. Đến ngay cả bà cụ Tứ – mẹ Tràng là người đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, bà hiểu hơn ai hết những khó khăn phía trước của đôi vợ chồng trẻ, nhưng bà vẫn mừng lòng. Hơn nữa, chính bà là người khơi dậy thêm nhiều niềm tin cho con mình ngay trong những ngày đầu tiên có vợ. Nhất là bữa cơm đầu tiên với nàng dâu. Dù chẳng có gì cao sang ngoài rau chuối và cháo nhưng họ đã cùng nhau ăn với tất cả niềm đồng cảm và lòng yêu thương của mình dành cho nhau. Bà nói đến những chuyện vui: khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem. Một niềm ước muốn thật giản dị, thật đơn sơ nhưng đã có sức thúc đẩy niềm hy vọng trong Tràng và vợ Tràng rất lớn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Cháo hết, bà lão nghĩ ngay đến nồi cháo cám. Bà thừa hiểu cháo cám đắng xít, rất khó ăn. Nhưng giữa lúc vui như thế này, bà đã hào hứng dỗ dành con ăn cháo cám như một người mẹ dỗ dành cho con nít ăn một thứ gì đó ngon lắm. Bà hồ hởi: Tao có cái này hay lắm cơ. Bà bưng nồi cháo cám lên, rồi vẫn với giọng vui tươi ấy: Chè đây. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ. Những phút giây vui vẻ dẫu chẳng bao nhiêu nhưng vẫn là niềm hi vọng lớn lao của cả gia đình. Mỗi người đều tự nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm với căn nhà này.
Nếu như ở ngoài đường, ngoài chợ, người ta đang nằm la liệt, kiệt sức vì sắp chết đói thì ở đây, trong căn nhà nhỏ bé xơ xác này dẫu cũng đói, cũng thiếu thốn nhưng có một niềm tin đang được nhóm lên. Họ tin rằng, ngày mai sẽ tươi sáng hơn, nạn đói sẽ sớm được đẩy lùi. Nhất là khi hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới, công cuộc phá kho thóc của Nhật nổ ra. Người nông dân sau bao cam chịu ắt sẽ đứng lên giành lấy độc lập tự do cho chính mình. Họ sẽ không còn phải đói phải khổ như bây giờ nữa. Người dân càng khổ cực bao nhiêu thì lòng căm phẫn của họ dành cho bọn đế quốc càng sâu sắc bấy nhiêu. Trước sau gì bọn chúng cũng sẽ phải trả giá. Đó là một quy luật tất yếu: có áp bức ắt có đấu tranh. Và đấu tranh vì chính nghĩa vẫn luôn luôn giành thắng lợi.
Như vậy, với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã gieo vào lòng những đọc sự xót xa, đồng cảm cho những kiếp nghèo cùng cực. Đồng thời cổ vũ họ hãy đoàn kết lại rồi tự đứng lên giải phóng cho cuộc đời mình. Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nên câu truyện hấp dẫn này. Cho đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị.