Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang (trích Rô-bin-xơn Cru-xô)

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang của Đi-phô.

A/ Dàn ý chi tiết

– Giới thiệu nhân vật và đoạn trích

2. THÂN BÀI

1. Bức chân dung tự họa của nhân vật Rô- bin- sơn trong Rô- bin- sơn ngoài đảo hoang

– Bằng giọng kể dí dỏm, hóm hỉnh đã thể hiện nên được một bức họa vô cùng ngộ nghĩnh, tức cười,

– Rô –bin-sơn với trang phục cổ xưa, sự khác lạ và sáng tạo thông minh về cách ăn mặc

– Những vật dụng trang bị của Rô-bin-sơn đều đầy đủ nhưng nó lỉnh kỉnh, nhiều và thô kệch

– Diện mạo của Rô-bin-sơn không thể tả, không đen lắm, râu để dài

2. Con người của Rô-bin-sơn sau bức chân dung:

– Có tinh thần lạc quan yêu đời

– Nghị lực phi thường, dũng cảm

– Lao động sáng tạo và có những sáng kiến trong lao động

– Rô-bin-sơn đã vượt qua thời tiết khắc nghiệt, những hoàn cảnh khó khăn để thể hiện bản thân mình

– Chống chọi để có cuộc sống tốt hơn

=> Đánh giá: 

+ Nội dung: ca ngợi ý chí, sức mạnh, tinh thần lạc quan của con người trong những hoàn cảnh Chống chọi để có cuộc sống tốt hơn

đặc biệt

+ Nghệ thuật: việc lựa chọn ngôi kể, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn

3. KẾT BÀI

– Khẳng định lại ý nghĩa và giá trị của đoạn trích

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn – mẫu 1

Trong cuộc sống thường hay xảy ra những điều không như ý ta muốn. Trước những thử thách của cuộc đời, không ít người đã gục ngã hay phó mặc số mệnh, tuy nhiên, cũng có người biết vượt lên hoàn cảnh, sống lạc quan và giàu niềm tin, ý chí. Robinson- nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết Robinson Crusoe là một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan và ý chí, nghị lực của một con người phải sống cô độc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Bằng giọng dí dỏm, hài hước, tự giễu, mở đầu đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang”, nhân vật Robinson tự đưa ra lời cảm nhận chung về chân dung của chính mình. Anh hình dung đang đi dạo trên quê hương, đất nước mình. Hình dáng, bộ dạng kì lạ và tức cười của anh chắc chắn sẽ làm cho người đối diện phải ngạc nhiên đến mức sợ hãi: “Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!” Lời tự thuật ấy đã phần nào hé lộ cuộc sống thiếu thốn và khắc nghiệt nơi đảo hoang mà anh đã trải qua 10 năm qua. Tiếp theo, chúng ta hãy cùng hình dung về trang phục và trang bị của một vị chúa đảo. Cái mũ to, cao lêu nghêu để che nắng, che không cho mưa hắt vào cổ. Cái áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến bắp đùi. Quần được làm bằng da của một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân. Tất và giày đều không có nên anh tự tạo cho mình một đồ dùng giống như ủng. Những trang phục kì lạ, tiện dụng được tác giả miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới. Còn về trang bị? Đó là một cái thắt lưng rộng bản bằng da dê dùng để đeo cưa, rìu. Hai cái túi làm bằng da dê đựng thuốc súng, đạn ghém. Gùi được đeo sau lưng, khoác súng bên vai, dù trên đầu. Bằng việc kể đan xen với miêu tả, những vật dụng linh tinh hiện lên thật kì dị. Chúng chính là kết quả của quá trình lao động và sáng tao, của nghị lực và tinh thần vượt lên hoàn cảnh sống.

Một mình sống trên đảo hoang hơn chục năm, diện mạo của Robinson ít nhiều cũng sẽ có sự thay đổi và càng ngày càng ít giống người văn minh hơn. Vẫn là cái giọng điệu pha chút hài hước: “Mặt tôi rám nắng, đen sạm lại, tuy chưa đến nỗi như cột nhà cháy; râu tuy thỉnh thoảng có cạo, nhưng vẫn đâm ra như chổi xể. Trên mép, theo ý thích riêng, tôi lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ-nhĩ-kỳ vừa dài vừa rậm khác thường, tô đậm thêm nét cổ quái vào diện mạo của tôi”. Dáng vẻ của Robinson hẳn rất kì quái, gần như người rừng. Cuộc sống tuy vô cùng khó khăn, vất vả và nguy hiểm nhưng ta không hề thấy sự bi quan, tuyệt vọng hay chán nản ở Robinson. Bằng trí thông minh, sự khéo léo, đầu óc thực tế, tính cách kiên cường, anh đã dần vượt qua hoàn cảnh bất hạnh và làm chủ được cuộc sống. Tâm hồn anh ngời sáng lên vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, vui vẻ, ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, thiên nhiên cũng không thể khuất phục.

Bằng việc sáng tạo trong lựa chọn ngôi kể thứ nhất và nhân vật kể chuyện, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn, đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang” chính là bức chân dung về nhân vật Robinson khi anh gặp biến cố và phải sống cô đơn một mình trên đảo hoang hơn 10 năm. Từ đó, tác giả ca ngợi sức mạnh, đặc biệt là tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực của con người trong những hoàn cảnh đặc biệt. Ông cha ta đã từng nói: Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Có ở trong những hoàn cảnh gian nan, khó khăn, đặc biệt, chúng ta mới biết ý chí, nghị lực của mình mạnh mẽ tới đâu. Chỉ cần có ý chí, nghị lực, ta sẽ vượt qua được mọi thử thách của cuộc sống, tôi luyện bản thân trở nên mạnh mẽ, kiên cường như nhân vật Robinson đã làm.

Cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn – mẫu 2

Kể từ khi nghiên cứu về não bộ con người, khẳng định sự phát triển của thùy não trái và thùy não phải trong hơi hướng hành xử và lựa chọn nghề nghiệp, hình như người ta đã nghiễm nhiên cho rằng những người làm kinh doanh hay các công việc liên quan đến tài chính – tiền tệ thường hoạt động thùy não trái với óc logic phát triển thì không thể làm nghệ thuật, bộ môn yêu cầu cao về óc thẩm mĩ và đòi hỏi nhiều xúc cảm. Thế nhưng, nếu biết nhà văn Đe-ni-ơn Đi-phô đã từng lao vào thương trường với các mặt hàng vải vóc, mũ áo, rượu vang… hoàn toàn xuất phát từ ý thích của bản thân thì quan niệm ấy sẽ thay đổi.

Cũng vì lẽ đó, khi viết tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nhân vật chính cùng tên đã được nhà văn lừng danh Walter Scott nhận xét: “Nhân vật này lập luận hệt như bất cứ một chủ tiệm buôn nào ở phố Sarinh Corx”. Song, dù mang nét tính cách và lập luận đặc trưng như thế nào, nhân vật ấy cũng để lại trong lòng ta ấn tượng vê’ một con người thông minh, tài trí và lạc quan qua đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang. Là nhà văn lớn của Anh thế kỉ XVIII, Đe-ni-ơn Đi-phô đến với tiểu thuyết khá muộn. Rô-bin-xơn Cru-xô với tư cách là tiểu thuyết đầu tay, đồng thời cũng nổi tiếng nhất của ông được hoàn thành khi ông năm mươi chín tuổi. Tác phẩm được viết dướt hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin- xơn Cru-xô xưng “tôi” tự kể chuyện của cuộc đời mình. Vào năm hai mươi bảy tuổi, nhân vật bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào hoang đảo không có dấu chân người. Năm năm mươi lăm tuổi, sau hai mươi tám năm hai tháng mười chín ngày một mình trên đảo hoang, Rô-bin-xơn mới trở vể được nước Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc nhân vật đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng mười lăm năm.

Trải qua thời gian đằng đẵng ấy trên đảo hoang một mình, nhân vật “tôi” đã tưởng tượng: “Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sỢ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi lang thang khắp miên Y-oóc-sai với trang bị và áo quấn như vậy..Có thể nhận thấy rằng, không cần trở về nước Anh thì chính nhân vật cũng phá lên cười bởi bộ dạng kì quái của mình. Và dù cho đã ở trên hoang đảo một mình nhưng nỗi nhớ cuộc sống trước đây, đất nước Anh với những quy chuẩn vê’ ăn mặc và tóc tai cũng như những nét đặc trưng bề ngoài khác chưa bao giờ mất đi trong con người Rô-bin-xơn Cru-xô. Đó không chỉ là niểm khao khát được trở về cuộc sống văn minh với đồng lọai mà còn là tình yêu, là động lực để nhân vật vượt qua những khó khăn, nguy hiểm trên hoang đảo.

Vẻ ngoài của mình được chính nhân vật miêu tả từ yếu tố trang phục. Đó là cái mũ: “to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, chiếc áo có vạt “dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi” cho đến cái quẩn “loe đến đẩu gối”. Quanh người Rô-bin-xơn là “một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây củng bằng da dể để thay cho khóa”, lại thêm một đôi giày mà theo như nhân vật: “chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…”. Tất cả trang phục của Rô-bin-xơn đều được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ từ trên xuống dưới, từ chất liệu đến công dụng. Trang phục của nhân vật được làm toàn bộ từ da dê. Mặc dù, nhân vật kể bằng một giọng hài hước, dí dỏm nhưng chính qua chất liệu ấy thôi ta đã thấy hiện thực tàn khốc, Rô-bin-xơn không còn lại dù chỉ một mảnh vải, điểu này phù hợp với thực tế quãng thời gian mười lăm năm trên đảo của nhân vật. Đổng thời, toàn bộ trang phục trên người Rô-bin-xơn có được đều phải trải qua quá trình săn bắt và “chế tạo” của bản thân.  Hiện thực khó khăn đó còn được khắc họa qua những trang bị của nhân vật. Hai bên thắt lưng nhân vật đeo “bên này một chiếc cưa nhỏ, bèn kia một chiếc rìu con”. Ngoài ra còn có hai cái túi, “một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém”. Rô-bin-xơn đeo gùi sau lưng và khoác súng bên vai. Trên đẩu còn giương một chiếc ô lớn “xấu xí, vụng về” nhưng cần thiết. Những trang bị ấy là phương tiện lao động giúp cho nhân vật tổn tại. Mặc dù chúng lỉnh kỉnh và cổng kềnh nhưng rất hữu ích. Đó là kết quả của quá trình lao động miệt mài và sáng tạo vượt lên trên hoàn cảnh của nhân vật. Có thể nói, qua trang phục và trang bị của nhân vật, nhà văn đã thể hiện trí tuệ siêu đẳng của con người cũng như nghị lực vượt lên trong cuộc sống. Mặc dù xuất phát từ một câu chuyện có thực vê thủy thủ Xen-kiếc bị lạc vào đảo hoang Gioăng Phéc-nan-đéc. Sau bốn năm Xen-kiếc trở vê’ với trạng thái hoang dã thì Rô-bin-xơn lại vẫn giữ được nếp sống văn minh. Đó là vẻ đẹp của nghị lực sống phi thường, một ý chí sắt đá, một bản lĩnh sống không gì khuất phục được.

Sau đó, Rô-bin-xơn lại tiếp tục đặc tả diện mạo của mình. Nước da “không đến nỗi đen cháy” dù nhân vật tự nhận rằng bản thân là một “kẻ chẳng quan tâm gì đến da dẻ” trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt tại một nơi có nhiệt độ rất cao, ở khoảng “chín hoặc mười độ vĩ tuyến miến xích đạo”. Rầu ria thì có lúc “dài đến hơn một gang tay” được cắt tỉa theo kiểu “Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Dù đã sống ở trên đảo hoang mười lăm năm, í! nhưng Rô-bin-xơn vẫn nhớ những nển văn hóa trước khi bị đắm tàu và vẫn biết rằng cặp ria của mình có “chiều dài và hình dáng kì quái” có khả năng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu ở Anh. Qua việc đặc tả diện mạo kì dị, khác thường bằng giọng hài hước, dí dỏm Đe-ni-ơn Đi-phô khắc họa cuộc sống gian nan và thiếu thốn trên đảo của nhân vật. Rô-bin-xơn không có gì, dù là những đổ vật thiết yếu nhất.

Tất cả những gì nhân vật có chỉ là kéo, dao cạo và một ít thuốc súng vớt được từ ngày con tàu bị đắm. Sau mười lăm năm, có lẽ chúng cũng hỏng hóc ít nhiều nhưng khó khăn và thiếu thốn đó không khuất phục được anh. Đằng sau bủc chân dung nhân vật, ta cảm phục nghị lực phi thường, luôn chủ động vượt lên chống chọi lại những khó khăn của cuộc sống. Khẳng định sức mạnh của con người đích thực, khát vọng trở về, làm nên số phận của chính mình. Vẻ đẹp ấy cũng giống như vẻ đẹp của Mai An Tiêm khi bị đày ra đảo hoang. Bằng sự chăm chỉ, chịu khó, trí thông minh và nghị lực sống kiên cường, Mai An Tiêm không chỉ sống sót trở vể mà con dâng lên đức vưa một loại quả ngọt lành, thơm mát. Kết quả ấy là kết tinh của ý chí con người. Dù là chuyện cổ tích Việt Nam thân thuộc từ thơ bé, hay câu chuyện tiểu thuyết từ nước Anh xa xôi, hai tác phẩm đểu là bài học quý báu vê’ tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực vượt lên nghịch cảnh.

Nếu bị lạc trên hoang đảo, em sẽ nhớ đến thái độ sống kiên cường, lạc quan của Rô-bin-xơn cũng như Mai An Tiêm để khắc phục khó khăn, vượt lên gian nan và thiếu thốn, tìm cách trở vê’ với cuộc sống văn minh, hiện đại. Thời gian sống trên đảo củng là thời gian rèn luyện những kĩ năng sống tự lập như nhân vật Rô-bin-xơn, thuần hóa đàn dê, gieo trồng lúa mạch để làm bánh. Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang có một nghệ thuật đặc sắc, hấp dẫn người đọc bằng lối kể kết hợp miêu tả và biểu cảm cùng với ngôi kể thứ nhất chân thực, giọng kể nhẹ nhàng, hóm hỉnh, khôi hài không chỉ tạo nên tiếng cười mà còn khắc sầu vẻ đẹp lạc quan của nhân vật.

Lịch sử từ lâu đã khẳng định vai trò của lao động đối với con người từ quá trình tiến hóa đến quá trình tổn tại và phát triển. Đoạc trích Ro-bin-xơn ngoài đảo hoang nói riêng và toàn bộ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nói chung là tiếng hát, bài ca về’ giá trị của lao động chân chính, cần cù, chịu khó, tài trí và sáng tạo. Dù lưu lạc trên hoang đảo mười lăm năm hay gần ba mươi năm Rô-bin-xơn vẫn sống rất lạc quan, sống đúng với vị thế con người tiến bộ, văn minh. Đó là điếu mỗi chúng ta ngưỡng mộ và học hỏi.

Cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn – mẫu 3

Con người, mi là ai? Câu hỏi ấy giúp cho nhân loại tự ngắm mình trong những trường hợp biến dạng đến dường như không phải là con người. Rô-bin-xơn rơi vào một trong những nghịch cảnh không bình thường như thế. Hơn mười năm ròng rã sống trên hoang đảo, bị cắt đứt mọi liên lạc với con người, anh có còn là chàng thanh niên hai mươi bảy tuổi quê ở miền Yoóc-sai nữa hay không? Thử thách vượt qua sức tưởng tượng này là một phép thử có hồi âm, một thông điệp không bi quan mà ngược lại.

Bản năng sống không cho phép con người bất lực khoanh tay. Dù thế nào, bằng cách nào cũng phải sống. Quyết tâm ấy, ý chí ấy có khả năng diệu kỳ biến không thành có. Nếu nghị lực là phẩm chất số một ở con người thì tại nơi đảo hoang này, ở Rô-bin-xơn nó luôn luôn toả sáng. Để định cư nơi đầu sóng ngọn gió, nơi góc bể chân trời xa lạ, những điều đầu tiên không thể không nghĩ đến: căn lều che nắng che mưa, cái ăn cái mặc hằng ngày. Căn lều chắc được dựng lên từ cây cối trong rừng bằng chiếc cưa nhỏ và chiếc rìu con mà lúc nào Rô-bin-xơn cũng đeo lủng lẳng bên người. Còn cái ăn chắc nhờ vào săn bắn và hái lượm, hình thái tự cung tự cấp sơ khai của người nguyên thuỷ cách đây hằng mấy chục ngàn năm nhờ khẩu súng trên vai cùng hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém. Nhưng, những điều đó không phải “kỳ cục”. Cái dị hình, dị tướng làm cho người ta “hoảng sợ”, hoặc “phá lên cười sằng sặc” là ở hình ảnh của một thứ “người rừng” hay con gấu cô đơn Bắc Cực.

Cách ăn mặc của Rô-bin-xơn quả thật là như thế. Thông thường quần áo được may bằng vải vóc hay len dạ tuỳ thuộc vào thời tiết ấm lạnh mỗi mùa, nhưng căn cứ vào cách ăn mặc của anh, ta cứ ngỡ thời gian ở đây không luân chuyển. Trái đất hình như đã ngừng quay để chỉ còn có một mùa đông lạnh giá quanh năm. Thôi thì mũ, giày, quần áo từ đầu đến chân chỉ có một thứ vật liệu đặc sản: da dê. Sự dung hòa giữa cái có ích và cái đẹp không còn. Cái mũ chỉ là một thứ để đội đầu với hình thù vượt khỏi khái niệm quy ước “to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì“, dính liền với nó rất lôi thôi là một mảnh da rủ xuống phía sau “vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Cả hai chức năng cần đến hai loại trang phục, nhưng Rô-bin-xơn chỉ cần đến một chiếc mũ đa năng. Cố tình làm chiếc mũ như thế, anh có một dụng ý riêng “ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”. Áo và quần cũng thế, nghĩa là không cần kiểu mốt. Chúng lại không ăn khớp với nhau. Hình như cái áo thì quá dài (khoảng lưng chừng hai bắp đùi) còn quần lại quá ngắn, quần là dạng “quần loe” nhưng chỉ đến đầu gối mà thôi. Lại nữa, vì quần được may bằng da một con dê đực già trông nó khó mà phân biệt được quần dài hay quần ngắn vì “lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân”. Đôi giày dưới chân thì cũng như chiếc mũ trên đầu, không biết gọi là gì cho đúng vì giày đi không có tất, gọi nó là đôi ủng thì có lẽ đúng hơn vì dây của cái gọi là giày ấy không xỏ lỗ nơi mu bàn chân mà lên tới bắp chân.

Sự luộm thuộm không chỉ thế. Nó còn là đặc điểm trong cách trang bị trên người, lỉnh kỉnh như một cái nhà kho di động. Không đeo kiếm và dao găm như những nhà quý tộc thời Đôn Ki-hô-tê, về góc độ này mà quan sát, người ta có thể nhầm anh với người thợ sơn tràng với “lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Nhưng có lẽ anh là thợ săn với đầy đủ súng khoác trên vai và hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cũng có thể nghĩ anh là một thổ dân da đỏ vào rừng trèo cây, đào củ với chiếc gùi đeo ở sau lưng. Biết vượt lên mọi thử thách, khó khăn, Rô-bin-xơn đã tồn tại, dù hình thức của sự tồn tại hoang dã, thô sơ gần như một con người ở vào thời tiền sử. Nhưng, tất cả chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, đằng sau những nét “hết sức kỳ cục” trên đây vẫn là một con người đang sống. Danh hiệu con người cao quý, con người viết hoa được anh trân trọng giữ gìn. Vì sao Rô-bin-xơn rất chú ý đến bộ ria, một bộ râu ria nếu để nó thả sức mọc dài phải đến “hơn một gang tay”? Ý thức về con người, mà ở đây là một người đàn ông cường tráng và đầy nam tính đã nhắc nhở Rô-bin-xơn, không cho phép anh tùy tiện, buông thả rất dễ bị coi thường cho dù anh không có nhu cầu giao tiếp với ai.

Và trên thực tế là ngoài anh ra, ở đây trên chốn đảo hoang không một bóng người. Thậm chí cái cách “xén tỉa” thật cẩn thận, kĩ càng như một người khó tính, vì bộ ria mà anh muốn có là “một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kỳ tôi gặp ở Xa-lê”. Với gương mặt đầy hãnh diện ấy, Rô-bin-xơn có thể tự hào cũng như nước da sạm màu nắng gió của vùng đất “khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo” vẫn trông được, nghĩa là “nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ”. Đó là niềm vui duy nhất lúc này mà Rô-bin-xơn tự cảm nhận được. Ý nghĩ ấy khoẻ khoắn, trong trẻo biết bao. Đó mới là chân dung con người đích thực. Về nghệ thuật, đây là một bức chân dung tự hoạ, nó đảm bảo tính chân thực, khách quan. Đọc một đoạn văn không dài, ta vẫn có thể hình dung được một con người cụ thể đến từng chi tiết. Bức vẽ chân dung ấy gắn với hoàn cảnh sống đầy rẫy gian truân khi một mình sống trên hoang đảo. Nhưng, một mặt khác, do sự đồng cảm và tài năng của người kể chuyện, bức tranh chân dung ấy rất sinh động, như có linh hồn. Ấn tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ ở giọng văn, một giọng văn không đơn điệu, một chiều mà vô cùng đa dạng. Chẳng hạn như miếu tả cách ăn mặc và trang bị của Rô-bin-xơn có ý vị hài hước, cường điệu, bông phèng, nhưng đoạn văn miêu tả diện mạo, gương mặt lại rất nghiêm trang, trân trọng.

Chính sự đa dạng về giọng điệu của trích đoạn trên góp phần tạo nên một tính cách nhân vật không hời hợt mà có chiều sâu, vừa sôi nổi vừa trầm tư, vừa có những nét trần tục vừa có những nét thiêng liêng như một vị thánh. Những hàm nghĩa đa tầng ấy, trong nhiều trường hợp được thể hiện bằng cách so sánh. Khi thì nhà văn so sánh bộ ria theo kiểu Hồi giáo của mình trước cái nhìn của người Ma-rốc và người Anh (người Ma-rốc không để ria theo kiểu người Thổ, còn bộ ria ấy sẽ làm cho mọi người khiếp sợ nếu ở nước Anh).

Cũng là cái cười, nhưng có nhiều cung bậc. Người nhìn tranh (bức chân dung tự hoạ) rất có thể vì ngạc nhiên hay hoảng sợ mà “phá lên cười sằng sặc”, còn người được vẽ trong tranh Rô-bin-xơn, thì chỉ “mỉm cười” khi đứng lặng mà ngắm nghía bản thân. Một đoạn văn ngắn nhưng thật là đặc sắc.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1085

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống