Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
Đề bài: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
A/ Dàn ý chi tiết
a. Mở bài: Lịch sử đất nước với nhiều cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt và ngoan cường để bảo vệ đất đai, bờ cõi hoặc độc lập tự do; ấn tượng sâu sắc nhất về trận đánh.
b. Thân bài
– Hoàn cảnh tiếp xúc với câu chuyện.
– Khái quát về trận chiến đấu.
– Diễn biến chính của cuộc chiến đấu (trọng tâm)
+ Bằng nhiều đoạn văn kể lại các giai đoạn của cuộc chiến đấu (phòng thủ – cầm cự – tấn công – chiến thắng).
+ Cần thể hiện rõ sự cam go, ác liệt của cuộc chiến một mất một còn.
+ Nhân vật xuất hiện ở câu chuyện với một vai trò quyết định (người chỉ huy tài giỏi hoặc người lính quả cảm, anh hùng,…).
+ Kết hợp miêu tả – biểu cảm khi kể (tả nét mặt cử chỉ, tác phong, tâm lí,… của nhân vật; bộc lộ cảm xúc trực tiếp hoặc gián tiếp).
+ Xem miêu tả cảnh thiên nhiên phù hợp với câu chuyện.
+ Suy nghĩ của người kể chuyện (mến phục, quý trọng thành quả; học tốt để tiếp bước cha anh dựng xây đất nước).
c. Kết bài: Tự hào về trang sử vẻ vang.
B/ Bài văn mẫu
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể – mẫu 1
Kể lại trận chiến Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh xâm lược
Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh xâm lược có thật trong lịch sử Việt Nam. Giúp đánh đuổi được giặc Thanh xâm lược nước ta lúc bấy giờ. Đồng thời, mang lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
Mùa xuân năm Kỷ Dậu, tức năm 1789 sau Công Nguyên. Năm đó, khi quân Thanh xâm lược bờ cõi nước ta. Thương cho cuộc sống khổ sở của dân ta, và phẫn nộ triều đình nhà Lê thối nát. Nguyễn Huệ đã dựng cờ khởi nghĩa, chống lại quân xâm lược. Mồng 5, năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ đã duyệt binh và thần tốc mang quân đi chống giặc. Dẫn đầu đoàn quân là một trăm thớt voi khoẻ mạnh. Khi đoàn quân của Nguyễn Huệ tiếp cận quân thù. Đoàn ngựa thấy voi thì kinh sợ, liền rút lui bỏ chạy. Giặc vẫn chưa từ bỏ ý định, tiếp tục cắm trại, xây thành lũy ở phía xa.
Tiếp vào giờ Ngọ cùng ngày, đại quân Nguyễn Huệ lại bắn hoả tiễn, hoả châu vào trại địch. Đồng thời, dùng rạ bó to lăn tiên phong để tiến đánh. Quân ta khí thế hừng hực, tướng lính một lòng giết quân thù. Khí thế sục sôi, quân Nguyễn Huệ đánh đâu thắng đó. Quân Thanh tan tác, tử thương rất nhiều. Các trại của quân Thanh hầu như đều tan vỡ.
Lúc ấy, đề đốc của quân Thanh là Hứa Thế Thanh liền bảo lính mang triệu ấn đi. Sau đó, Hứa Thế Thanh quyết chiến rồi tử trận. Mất đi đề đốc, quân Thanh càng đánh càng thua. Quân ta bao vây giặc thành từng đoàn nhỏ để đánh. Sau khi mất liên hệ với đề đốc, thống soái quân Thanh là Tôn Sĩ Nghị truyền lệnh cho Phó tướng Khánh Thành và Đức Khắc Tinh mang ba trăm quân giải vây tháo chạy về phía bắc. Sau khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị tháo chạy tới bờ sông, thì tại đây quân tiếp ứng cho hắn. Đây chính là đoàn binh tiếp ứng được tổng binh Thượng Duy Thanh mang đến khi nhận triệu ấn mà Hứa Thế Thanh trước khi chết sai lính mang đi.
Tổng binh Lý Hoá Long nhận lệnh mang quân sang cầu để tiếp ứng tàn quân qua sông. Tuy nhiên, khi đến giữa cầu, ngựa của Lý Hoá Long trượt chân rơi xuống sông mà chết. Mất tướng lĩnh, quân Thanh trở nên sợ hãi. Lúc này, Thống soái Tôn Sĩ Nghị liền ra quân lệnh bắn súng sát thương quân truy kích của Nguyễn Huệ để yểm hộ. Còn riêng Tôn Sĩ Nghị, hắn mang quân lui về bờ bắc, rồi chặt đứt cầu. Toàn quân giặc rút về sông Thị Cầu.
Quân Thanh ở phía nam thấy cầu đã bị chặt, liền biết không có đường lui. Tàn quân tiến đánh thành Lê. Tất cả các tướng lĩnh quan trọng đều tử trận tại đây. Tri Châu Điền Châu Sầm Nghi Đống cùng quân lính cũng tự tử trong thành vì không có cứu viện. Vua An Nam lúc bấy giờ là Lê Duy Kỳ thấy binh thua, cũng bỏ chạy, từ đó, nhà Lê cũng biến mất.
Nguyễn Huệ cùng đại binh vào thành. Đề đốc quân Thanh là Ô Đại kinh mang quân xuất phát vào ngày 20/11/1788, đến 21/12/1788 thì vào Tuyên Quang. Nhưng khi thấy cầu bị chặt đứt ở sông Phú Lương, và thấy bốn bề chiến hoá, liền rút quân về nước. Quận Thanh không còn cứu viện nào khác. Cuộc chiến vẫn tiếp tục, và phần thắng đã thuộc về quân Nguyễn Huệ. Sau này, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, là vị vua thứ hai của triều Tây Sơn.
Cuộc chiến này đã mang đến cho tôi ấn tượng sâu đậm. Đồng thời, Nguyễn Huệ trước quân Thanh xâm lược đã mang đến cho ta một bài học lịch sử sâu sắc. Từ cuộc chiến đánh trên, ta có thể thấy được, chiến thắng sẽ thuộc về chính nghĩa. Và dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Sự đoàn kết và tinh thần anh dũng của dân tộc Việt Nam ta đã làm nên nhiều chiến thắng oanh liệt trong lịch sử thế giới.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể – mẫu 2
Kể lại trận chiến trên cầu Hoàng Mai – Nghệ An năm 1966
Lịch sử quân sự Hoàng Mai còn ghi rõ những trận đánh trên mảnh đất kiên cường này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Trong những dòng lịch sử đó, có tên Đỗ Lương Bằng, có cả thế trận chiến tranh nhân dân.
Trung tá Trần Quốc Mỹ kể lại cho chúng tôi nghe về một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa. Giọng ông chậm rãi, đôi mắt rực sáng khi hướng về những chiến công năm ấy.
13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một tốp máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời nổ súng bắn trúng chiếc máy bay A3J. Trúng đạn, chúng cố nhoài theo hướng Đông Nam để chuồn ra biển. Nhưng đến địa phận xã Quỳnh Liên, chiếc máy bay bốc cháy nghi ngút và rơi làm 3 mảnh.
Hai tên phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng 2.000m. Đài quan sát ở Hòn Ói lập tức báo tin: máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, giặc lái rơi ở tọa độ 210 77’ 2″. Cả vùng bãi Ngang không ai bảo ai đều hô to: “Máy bay địch cháy, bắt sống phi công bà con ơi”.
Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chủ lực, huy động mọi phương tiện vũ khí ra khơi bắt giặc lái.
Các chiến sĩ cảm tử trước khi ra đi đã gửi lại gói quần áo cho đồng chí mình và trao đổi nhanh: “Nếu tôi có hy sinh thì đưa lại cho bố, mẹ tôi và nói rằng tôi hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”, đội hình chiến đấu được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m nhằm thẳng mục tiêu lướt tới. Trên bờ, lực lượng triển khai đội hình sẵn sàng phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh được xuất phát.
Trong lúc chúng ta đang tiếp cận mục tiêu để bắt gọn 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động đủ các máy bay chiến đấu: 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến trực cách bờ biển 20km, sẵn sàng ứng cứu, giải thoát cho phi công Mỹ.
Trong lúc thuyền áp sát mục tiêu, chúng cho bọn AD6 ồ ạt bao vây các thuyền. Các chiến sỹ cảm tử vẫn không hề nao núng, vẫn bám sát mục tiêu bao vây, khép chặt giặc lái. Hai thuyền chủ lực vượt trước, quay trở lại tạo thành thế gọng kìm, thuyền thứ 3 lao tới áp đảo nổ súng. 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, 2 tên giặc lái Mỹ: Hen Béc Rô Mác Rôn, Đại uý và Rôbét Hanson Trung uý bị bắt.
Ghi lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn thể quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết vào nhật kí: “Ngày kỷ niệm thành lập Đảng tròn 36 tuổi, tối qua đơn vị phát động thi đua lập thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng, nhất là trong chiến đấu. Không khí thi đua sôi nổi hào hứng trong toàn đơn vị. Vừa hết giờ nghỉ trưa. Tiếng động cơ xuất hiện hướng 14. Lúc này là 13 giờ 5 phút, một máy bay phản lực A3J bay vào bắt mục tiêu ở cự ly 5000m và 4000m, đơn vị nổ súng. Đầu máy bay Mỹ bị bốc cháy vỡ thành 3 mảnh, cháy đỏ cả góc trời, rơi tại đất liền giữa tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân địa phương… bọn mình thật phấn khởi quá. Hò reo ầm ĩ cả trận địa. Chả là vì sau hơn 2 tháng, hôm nay mới nổ súng, lại bắn cháy ngay từ điểm xạ đầu”.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể – mẫu 3
Kể lại trận chiến của vua Quang Trung đại phá quân Thanh 1789
Nhà Tây Sơn gồm 3 anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỉ XVII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương, Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.
Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; loan lệnh ân xá khắp trong ngoài nước để yên kẻ phản trắc và giữ gìn lòng dân rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc thuộc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngoài khoác lên mình chiếc long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu đội mũ miện cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang lên đàng tế lễ trời đất. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đổi năm 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên niên hiệu Quang Trung.
Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng Chạp (1788). Vua Quang Trung đã tự mình đốc thúc quân lính cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 ở Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp người có tài tiên đoán để hỏi về mưu đánh và giữ Nguyễn Thiếp trả lời: chuyến này đi không quá 10 ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng hám hổ đầu tuyển lính ở Nghệ An. Cứ ba suất đinh thì lấy một người ai cũng có thân hình vạm vỡ bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn người, quân tinh nhuệ hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm tiền, hữu, tả, hữu là số quan ở Thuận Hóa, Quảng Nam. Còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám ăn ở hai lòng. Hôm sau, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.
Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công và tội của Sở và Lân. Vua đã cho Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân nhằm mục đích bày mưu tính kế. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười lần nước mình thua đau sẽ trả thù đời thì đời sống của nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng. Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu, quân lệnh nghiêm chỉnh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng Chạp vua cho mở tiệc ăn khao quân, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm lập tức lên đường hẹn ngày mùng 7 năm tới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quân lính. Xong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra bắc. Để giữ sức cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ 2 người khiêng 1 người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước yêu tổ quốc nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt vừa cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi.
Nửa đêm ngày mùng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789) vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng rồi dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi: “Quân”. Tiếng quân lính luân phiên nhau:
– Dạ…dạ…
Vang khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm thành 1 bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù mịt, cách gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo 2 bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy toán loạn giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối quân Thanh đại bại.
Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê yên duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía Đông. Đến lúc ấy, quân Thanh đều hết hồn vía, vội vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong này Tết mọi người chỉ chăm chú đến yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổ. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân Sĩ nghe tin hoảng hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước ở sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã.
Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Hằng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể – mẫu 4
Kể lại diễn biến trận đánh của nghĩa quân Tây Sơn
Tôi là người lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Được tham gia trận đánh nên tôi thấy rất vẻ vang khi một đất nước nhỏ bé có thể đánh thắng khi quân địch vô cùng mạnh. Đặc biệt là trận đấu Ngọc Hồi- Hà Hồi đại phá quân Thanh. Sau đây tôi xin kể cho các bạn nghe về diễn biến trận đánh ấy mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789.
Các bạn cũng biết hồi đó vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, nhân cơ hội đó Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi vạn quân Thanh đi thẳng vào Thăng Long xâm lược nước ta mà không tốn một mũi tên hạt đạn nào. Được tin đó Bắc Bình Vương- Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay hôm đó nhà vua đã mở một đội quân ra Bắc và tôi có mặt trong đấy. Có thể nói rằng đó là một cuộc lùi binh thần tốc. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ. Thật là không gì bằng sức con người.
Đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Là đồn nhỏ vua Quang Trung cho chúng tôi dùng mưu kế và trận đánh diễn ra nhanh chóng quân Thanh phải đầu hàng. Quả thực vua Quang Trung đúng là một người tài giỏi.
Nhưng khi đánh đồn Ngọc Hồi thì quả là khó khăn bởi đây là đồn lớn ở địa thế bằng phẳng, bảo vệ kinh thành Thăng Long, xây dựng kiên cố, đội quân tinh nhuệ đó là điều bất lợi về phía chúng ta. Vì thế mà ta đã phải chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín mười người khiêng một bức, lung dắt dao ngắn dàn theo chữ “nhất” phía sau là đội quân binh tinh nhuệ chỉnh tề được vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy.
Trận đánh diễn ra mờ sáng mùng 5 Tết khi mà màn sương mù vẫn chưa tan, mưa phùn quân Tây Sơn lặng lẽ bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị tấm ván cản lại làm vô hiệu hóa. Quân Thanh trong đồn dùng súng bắn ra nhưng không chúng một ai. Nhân lúc có gió Bắc hắn phun khói lửa, khói tỏa mù trời phòng làm quân ta hoảng sợ. Nhưng bỗng trời chuyển gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Thật là gậy ông đập lưng ông. Trong thành quân địch rối loạn. Thừa thế quân ta xông thẳng vào trong thành văng ván xuống đất. Khi giao gươm của hai bên chạm vào nhau thì ai nấy đều cầm giao ngắn chém bừa. Đội quân phía sau thấy thế xông lên. Khung cảnh lúc thế trận đấu thật là hỗn loạn, tiếng gươm giáo, tiếng la hét reo hò của nghĩa quân Tây Sơn họ tung hoành trên chiến trường dũng cảm. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên lung voi điều khiển ba quân tiến thẳng vào thành. Thật là một hình ảnh oai phong lẫm liệt.
Trong phút chốc quân ta đã chiếm đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thân nằm đầy đồng, máu chảy thành suối quân địch còn lại bỏ chạy toán loạn. Trưa mùng 5 Tết vua Quang Trung cùng đội quân tiến thẳng vào Thăng Long với tiếng gieo hò của nhân dân, sắc đào của hoa xuân, tiếng pháo nổ của ngày tết. Tôi rất khâm phục khi vua Quang Trung là người trí tuệ, có tầm nhìn chiến lược. Là một người chiến sĩ tôi cũng rất tự hào vì mình cũng góp một công sức để đem thắng lợi về cho dân tộc.
Giờ đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi- Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn đời.