Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích:
+ Nguyễn Du (1765 – 1820), là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Sự ngiệp văn học rất phong phú và đồ sộ.
+ Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều: nằm ở phần đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương.
2. Thân bài
– Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, bút pháp miêu tả của Nguyễn Du.
+ Mã Giám Sinh được Nguyễn Du miêu tả đúng với bản chất của một tên buôn người.
– Nhân vật Mã Giám Sinh
+ Diện mạo và cử chỉ
+ Sinh viên trường Quốc Tử Giám
+ Người khách ở xa
+ Tên: Mã Giám Sinh
+ Quê: huyện Lâm Thanh
+ Tuổi: ngoại tứ tuần
+ Cách ăn mặc: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
+ Nói năng: thô lỗ, vô lễ
– Hành động: ghế trên ngồi tót sỗ sàng
– Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự, trơ trẽn, hỗn láo.
– Bản chất
+ Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh
+ Bản tính con buôn, lưu manh
– Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là một kẻ giả dối, vô học, con buôn, mất lịch sự.
– Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
+ Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều: Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán.
+ Ý thức được nhân phẩm.
+ Nỗi đau đớn, tái tê
– Tâm trạng đau khổ, xấu hổ, đau đớn.
– Tấm lòng của tác giả
+ Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
+ Tác giả có cái nhìn mỉa mai, châm biếm, lên án diện mạo và cử chỉ thô lỗ, sỗ sàng của Mã Giám Sinh.
– Tác giả thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng con người bị hành hạ, bị chà đạp.
– Hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi tủi hổ, đau đớn của Kiều.
3. Kết bài
– Nội dung: Bằng nghệ thuật tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Qua đó lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
– Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều năm 2021 – mẫu 1
Truyện Kiều là một tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây là tác phẩm lớn và có giá trị cao về mặt nội dung cũng như nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều không chỉ là tác phẩm lớn của văn học trung đại Việt Nam mà đây còn là tác phẩm góp phần đưa nền văn học Việt Nam đến với độc giả trên thế giới. Truyện Kiều là tác phẩm thơ Nôm viết về nhân vật Thúy Kiều, một con người “tài sắc vẹn toàn”, một con người tài hoa xuất chúng, nhưng càng tài hoa bao nhiêu thì cuộc đời của cô gái này càng bất hạnh, thăng trầm bấy nhiêu. Vốn là một tiểu thư đài các sang trọng, cao quý nhưng những biến cố bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều đã vô tình đẩy nàng vào biến cố lớn nhất của cuộc đời mình. Đoạn trích đánh dấu chuyển biến của cuộc đời Thúy Kiều từ một tiểu thư cao quý sang cuộc sống đầy cay đắng của một cô gái lầu xanh, đó chính là đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và cả gia đình. Qua cuộc ngã giá mua bán ấy ta thấy được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều cũng như lột trần bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh, lên án thế lực đồng tiền đã chèn ép, bức con người vào bước đường cùng của sự đau khổ. Mở đầu bài thơ là không gian của cuộc mua bán, đó chính là hình ảnh của mụ mối khi dắt vào một người khách xa lạ, người sẽ mua Kiều:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần”
“Mụ nào” ở đây ta có thể hiểu là bà mối, trước yêu cầu Thúy Kiều thì bà mối này đã dắt đến một người khách lạ “Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”, hỏi ra thì hắn tên là Mã Giám Sinh, cái tên này thể hiện hắn ta là một người có học, mà cụ thể hơn là một nho sinh của trường Quốc Tử Giám, người ở Lâm Thanh. Nghe lời giới thiệu đầy nhiệt tình, tha thiết của mụ mối thì Mã Giám Sinh có vẻ là một người đàng hoàng, có gốc gác lại còn là một nho sinh có học, nhưng không để cho người đọc tò mò lâu, ngay những câu thơ sau đó thì Nguyễn Du đã cho người đọc biết trọn vẹn về bản chất của con người ngỡ như là tử tế, có học này:
“Quá niên trạc tuổi tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang”
Khác với cái tên đầy thư sinh, gốc gác rõ ràng để chứng minh là người tử tế thì những mô tả ngoại hình lại mang đến một cảm giác trái ngược hẳn, đó là một người đàn ông đã “trạc tuổi tứ tuần” có nghĩa là đã hơn bốn mươi tuổi, hơn thế nữa “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Trong xã hội phong kiến xưa thì tứ tuần có thể xem là người trung niên, với một độ tuổi như vậy mà vẫn còn là một nho sinh trường Quốc Tử Giám thật khiến cho người khác có cảm giác khó tin, hơn nữa sự chải chuốt quá đà ở diện mạo, trang phục lại gợi ra hình ảnh của một con người có phần lố lăng, kệch cỡm, vì dù đã nhiều tuổi nhưng vẫn cố tỏ ra rằng mình còn trẻ. Chỉ xét ngoại hình thôi cũng thể hiện được sự giả tạo đáng coi thường ở nhân vật này.
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”
Quả nhiên như ta dự đoán, không chỉ có diện mạo trơ trẽn, lố lăng mà ngay cả hành động cũng thể hiện sự vô học, vô giáo dục, khác hẳn với cái mác thư sinh mà hắn ta giới thiệu “Chỗ trên ngồi tót sỗ sàng”. “Chỗ trên” ở đây là để dành cho những người trên ngồi, tức những bậc sinh thành, những bậc tiền bối, nhưng ở đây Mã Giám Sinh đã không hề biết đến phép tắc cơ bản ấy, hoặc cũng có thể biết nhưng vẫn cố tình ngồi, vì hắn ta vẫn đang tự cho mình là người có thế chủ động, bởi hắn ta sẽ bỏ tiền ra để mua Kiều. Hắn tự cho mình cái quyền được lộng hành, thể hiện một cách vô giáo dục như vậy. Không chỉ chủ là Mã Giám Sinh mà những tên đầy tớ của hắn ta cũng tỏ rõ là những người đi thuê, đi mượn, bởi nếu đúng là đầy tớ của hắn thì sẽ không có cái cảnh lao xao, lộn xộn như thế “Trước thầy sau tớ lao xao”. Trái với sự ngỗ ngược, hống hách của chủ tớ Mã Giám Sinh thì nàng Kiều lại vô cùng đau khổ.
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, lúc này đây Thúy Kiều đang mang nặng những tâm trạng, suy tư cùng với sự đau khổ bởi nàng biết rồi sau đó nàng sẽ phải trải qua những đắng cay, đau khổ vì cuộc hôn nhân được mua bằng tiền mà không hề có tình yêu này. Lúc này nàng vừa buồn, vừa tủi cho mình nhưng cũng lại chồng chất thêm nỗi lo lắng cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” những bước chân của nàng giờ đây mới thật đau đớn, nặng nề làm sao, bởi trên đôi vai nàng nặng trĩu những đau khổ cũng như những trách nhiệm lớn lao mà bổn phận của một người con phải làm, những giọt nước mắt của nàng rơi xuống làm cho người đọc cảm thấy xót xa, thương cảm.
“Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
Trước tương lai đầy bất định,Thúy Kiều dường như đã có những dự cảm về cuộc đời mình, những dự cảm ấy làm cho Kiều cảm thấy lo sợ, ngại ngùng, bởi đó sẽ là những ngày tháng đầy đau khổ “Ngại ngùng dợn gió e sương”, đây cũng là tâm trạng tất yếu của con người khi đứng trước những sóng đó, những dự cảm không lành. Nét buồn bã, đau khổ không thể kiềm nén mà thể hiện ra hết trên gương mặt của nàng Kiều “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”. Trước dự đau khổ, u uất của nàng thì mụ mối vẫn đang rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc của mình “mối càng vén tóc bắt tay”, gương mặt buồn bã của nàng Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc và sự mỏng manh, yếu gầy như những cánh mai “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”.
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”
Đến câu thơ này, hình ảnh của Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương, bởi họ coi nàng như một món hàng dùng để trao đổi, buộc nàng phải trổ tài đánh đàn, làm thơ “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, khi đã rất hài lòng với người mà mình sẽ mua thì Mã Giám Sinh và mụ mối bắt đầu cuộc ngã giá của mình “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”. Một con người tài sắc như vậy, tài năng trời phú ấy không phải thể hiện ở một dịp nào khác hơn mà dùng để làm vừa lòng người mua mình, sự tình ấy thật xót xa làm sao, đau đớn làm sao.
“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Mối rằng đáng giá ngàn vàng
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài”
Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai”, và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”.Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một đoạn trích vạch trần đến tận cùng của cái xã hội “ăn thịt người”, khi con người bị mang ra mua bán như một thứ hàng hóa ở chợ. Đoạn trích này cũng thể hiện được bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh cũng như tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của nàng Kiều trước bước ngoặt của cuộc đời mình.
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều năm 2021 – mẫu 2
Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với những lời thơ thống thiết: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung”. Thời nhà thơ sống, dường như bạc mệnh đã trở thành quy luật chung của thân phận phụ nữ. Cuộc đời Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn chứng minh cho quy luật ấy. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của đời nàng.
Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa bắt bớ, khảo tra. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.Bút pháp tả thực sắc sảo, tài tình của Nguyễn Du đã vẽ lên chân dung sống động của Mã Giám Sinh, tên lưu manh bán thịt buôn người; đồng thời thể hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều – người con gái tài sắc tuyệt vời mà bị coi như một thứ hàng hóa vô tri, bị mua đi bán lại không chút xót thương. Lời tố cáo tội ác của xã hội phong kiến suy tàn và lời kêu gọi thống thiết: Hãy cứu lấy con người của Nguyễn Du ẩn chứa sau từng hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích này.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.Một điều dễ nhận thấy trong bút pháp tả người của Nguyễn Du là khi tả những nhân vật chính diện (như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ; còn tả những nhân vật phản diện (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút pháp tả thực. Qua công thức này, người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó.Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả dài dòng mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (viễn khách). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh / Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mù mờ, không rõ ràng. Giám Sinh là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn huyện Lâm Thanh rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao? Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng giám sinh, hạng người có học.
Hình dáng bên ngoài của Mã có nhiều mâu thuẫn. Tuổi tác: Quá niên trạc ngoại tứ tuần. Một loạt từ phỏng đoán đứng liền nhau (quá, trạc, ngoại), từ Việt có, từ Hán có, cùng với nhịp thơ chậm, ngập ngừng càng làm tăng cảm giác khó xác định tuổi tác của Mã. Ngoại tứ tuần có thế là bốn mốt, bốn hai; mà cùng có thể là bốn lăm, bốn sáu tuổi. Thuở ấy, đàn ông ngoại tứ tuần là sắp lên lão (ngữ tuần – năm mươi tuổi). Vậy mà diện mạo và cách ăn mặc của hắn lại cố làm ra vẻ trẻ trung như trai mới lớn: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Những từ tả thực đến mức dung tục như nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý mỉa mai, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Du đối với nhân vật này. Rõ ràng là Mã Giám Sinh cố tìm mọi cách dùng cái mẽ ngoài hào nhoáng để che đậy bản chất bên trong, nhưng nực cười thay, cái lố lăng, kệch cỡm của hắn vẫn cứ lộ ra.Chỉ một câu: Trước thầy sau tớ lao xao, Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ lưu manh lấc cấc, hỗn hào. Riêng Mã, thái độ của hắn là hợm hĩnh, vênh váo, cậy tiền, không thèm biết đến lễ nghi, phép tắc: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng. Ghế trên là ghế dành riêng cho chủ nhà hoặc khách quý. Ngồi tót là ngồi rất nhanh, co cả hai chân lên, chẳng đợi ai mời, ai thỉnh. Sỗ sàng là ngổ ngáo, coi thường mọi người. Hành động ấy, thái độ ấy là của kẻ tiểu nhân vô học. Chỉ qua vài chi tiết, chân tướng Mã đã dần dần bộc lộ.
Khi mụ mối dẫn Kiều ra, Mã nhìn ngắm, xem xét nàng với đôi mắt của một tên lái buôn lọc lõi: Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Hắn ép Kiều phải đánh đàn, làm thơ để có cơ sở chắc chắn mà định giá nàng. Tài sắc Thúy Kiều làm cho hắn rất hài lòng: Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ đặt dìu. Mã chắc mẩm trong bụng sẽ mua được món hàng vô giá, chuyến này ắt có lời to, nhưng hắn chẳng vội vàng mà còn Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Thần tình thay là những tiếng chợ búa nôm na như cò kè, ngã giá của Nguyễn Du. Bằng mấy tiếng này, nhà thơ đã lột sạch áo mũ giám sinh giả và lời lẽ cố làm ra vẻ văn chương hoa mĩ cho đúng điệu giám sinh đi hỏi vợ: Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?… của gã lưu manh này. Trước mắt người đọc, chỉ còn lại một hiện thực trần trụi đáng sợ: Mã Giám Sinh – tên tú ông bán thịt buôn người đã lộ nguyên hình.Đọc đoạn thơ này, chúng ta căm ghét, khinh bỉ Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng xót thương Thúy Kiều bấy nhiêu bởi người con gái tài sắc nhường ấy đã rơi vào nanh vuốt lũ sói lang. Nguyễn Du đã tả tâm trạng Kiều lúc bán mình hằng tất cả nỗi quằn quại, đau đớn, tưởng như nước mắt rơi, máu chảy ở đầu ngọn bút:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.”
Vẫn bứt pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một dẫn chứng chứng minh cho tài năng miêu tả tâm lí và xây dựng hình tượng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều một trong muôn tiếng kêu thương trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, nó là lời kết án âm thầm mà không kém phần mãnh liệt cái xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những kẻ bất lương như Mã Giám Sinh; Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng chà đạp thô bạo lên nhân phẩm. Thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta là: Hãy chặn đứng những bàn tay tội ác! Hãy cứu lấy con người!
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều năm 2021 – mẫu 3
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”.
Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu ” trâm gãy bình tan”.Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu “kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối “vén tóc bắt tay” món hàng mình; Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Khi khách đã “mặn nồng một vẻ một ưu” mới hỏi giá. Mụ mối thách: “một nghìn vàng”. Hai bên “cò kè” mua bán với cái giá “vàng ngoài bốn trăm”. Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: “đưa canh thiếp” và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để “cò kè” mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ “Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong” là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi “rước vào lầu trang”. Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), “vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:
Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.Mã Giám Sinh là “viễn khách” đến để “vấn danh” – khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là “hỏi – đáp”. Cách trả lời cộc lốc, khiếm nhã. Hai chữ “rằng” làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh cũng gần”. Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: “Nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”
Cũng “thầy”cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” chẳng có nề nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ “sỗ sàng”, không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi “tót”! Nếu là sinh viên trường Quốc Tử Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh!
“Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…”
Một chữ “tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ “Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”. “Cân sắc cân tài”, “ép”, “thử”,… những cử chi, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa”, Mã Giám Sinh mới “dặt dìu” mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”
Hai chữ “cò kè” đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như “hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì “ba xuân”, một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ:
“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”
Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu “lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: “ngại ngùng”,… “bóng thẹn”,… “mặt dày”, “nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”. Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh “ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài”. Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”, khi bị hắn “cò kè bớt một thêm hai”… Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.”Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: “Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!”. Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dập vùi. Đó là giá trị nhân đạo.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều năm 2021 – mẫu 4
Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn trường mười lăm năm đời Kiều.Sau lần thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở, gia đình Kiều gặp tai biến. Bọn “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá tan tành, Vương Ông, Vương Quan bị trói đánh hành hạ:
“Giường cao rút ngược dây oan.
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.”
Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã bán mình để cứu cha và em. “Tin sương đồn đại”, xa gần xôn xao, nghe tin đó anh chàng họ Mã đã “ngửi” thấy món lợi lớn vội nhờ người mai mối để đến “vấn danh”, nói dối là cưới Kiều về làm vợ.Mã Giám Sinh xuất hiện, ta hãy nghe hắn giới thiệu về tên họ, quê quán:
Dừng lại với khóm hoa ngâu, tay lựa và gỡ nhẹ từng chùm hoa, chiếc lá, cụ hỏi: “Văn thơ hay là văn thơ thế nào?”. Tôi lúng túng giây lát. Cụ bảo: “Đừng vội trả lời. Vài năm nữa, ba bốn mươi năm nữa trả lời cũng được, tôi chết rồi thì anh cứ viết ra, lúc nào tiện thắp cho tôi một nén hương rồi đọc câu trả lời cũng được”. Đoạn, cụ nói: “Văn thơ hay là phải làm cho người thoát tục đi một ít, thanh sạch hơn lên một chút … phải không?. Chừng như để cho tôi lờ mờ vỡ vạc ra, cụ nói tiếp: “Cái đoạn thằng Mã Giám Sinh mà anh vừa nhắc tới đọc ghê ghê là, nó gớm lắm và tức lắm. Tôi thường lượt qua thôi”. Rồi cụ cười nhẹ không thành tiếng.
Vậy là không phải các cụ ta xưa chưa chú ý đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, mà thực ra, là đã có thành kiến về nó. Đọc lên, nhớ lại, thấy “ghê ghê” và “tức”, thì không bàn tới nữa. Thẩm thơ bình văn là khoa học và cũng là do cái tạng người, biết làm sao khác được?
Cái cảm giác “ghê ghê” khi đọc Mã Giám Sinh mua Kiều, phải chăng bắt nguồn từ ý nghĩ này: Thì ra, từ dăm trăm năm trước, cái chuyện bán người, mua người đã thành một nghề hẳn hoi. Nghề đó được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Du. Mới đem “Sự lòng” – Một chuyện nhà éo le “ngỏ với băng nhân” (Tại sao không “ngỏ” với bà con, hàng xóm, mà với “băng nhân”? Chắc là vì gia đình Kiều đã biết là trong xã hội bây giờ, đã có hẳn một loại người này, phải nhờ họ giả quyết mới được), mới thế thôi, mà đã “đồn đại, xa gần xôn xao”. Vì đã “xôn xao” nên mụ mối mới có cơ hội làm ăn, mới đưa được người từ nơi xa (viễn khách) đến. Là nghề bán mua người, nên giá trị của người, sắc đẹp và tài năng của người từng được coi là “nghiêng nước nghiêng thành”, may ra chỉ có một hai người như thế trông thiên hạ, đã bị đem ra cân nhắc, ép buộc thử thách … thật lạnh lùng.Trong cuộc mua bán này không hề có sự cảm thông, nhân nhượng mà chỉ là một sự “Cò kè bớt một thêm hai” suốt buối để rồi “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”. Trong cuộc mua bán đó, là hàng hóa, nên Thúy Kiều đâu có được nói năng chi Người nói (cười) lúc này chỉ là mụ mối và gã Giám Sinh họ Mã – Họ là người hành nghề thực thụ mà!Thế nhưng cuộc mua bán ấy lại được ngụy trang bằng một cuộc “tìm hiểu” để cưới người ta về làm vợ, nên mới kết thúc bằng việc “Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm nghi, rồi hẹn ngày nạp thái vu quy”!
Xã hội văn minh là xã hội có nhiều ngành nghề với hàng loạt người có chuyên môn ở từng lãnh vực, từng công đoạn nghề nghiệp rõ ràng. Nhưng ở một xã hội tài năng và sắc đẹp đức hạnh và phẩm giá con người, như Thúy Kiều mà rơi vào tay bọn nghề buôn người kia, thì thật là ghê tởm! Xã hội đó đâu phải là xã hội văn minh.Nhiều người đọc đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều cũng có cảm giác tức. Tức vì thấy dung mạo ra vẻ chải chuốt nhẵn nhụi, bảnh bao rất khả nghi của Mã, sự đi lại ồn ào, xôn xao của thầy tờ nhà Mã, và nhất là cái kiểu “Ghế trên ngồi tót số sàng” của hắn. Ai cho phép hắn ngang nhiên như vậy? Tiền đấy. Hắn cậy có tiền. Còn dân chúng đôi khi cũng đã thấy kẻ có tiền “nói quấy, nói quá” thì “người nghe ầm ầm” rồi. Ở đây, cách xử thế của Mã, không chỉ bộc lộ cái tư cách kém cỏi, hợm hinhgx của hắn, mà còn bộc lộ cả cái tình thế oái oăm đau đớn của gia đình Thúy Kiều, cả cái tâm thế để cho đồng tiền trong tay bọn bất lương được hoành hành của xã hội đang trên đà suy vi.Có người đã trách Nguyễn Du sao lại dựng đoạn này tỉ mỉ đến thế. Càng tỉ mỉ càng đau tức thôi. Đã tỉ mỉ thế, sao không cho ai nói vài câu, không cho ai lam vài cử chỉ an ủi động viên Thúy Kiều? … Tôi nghĩ: ấy là chì chúng ta ghét Mã Giám Sinh, thương xót Thúy Kiều mà nghĩ ra thế. Đây là luật mua bán, lại là bán mua ở trong nhà lầu có lẽ cũng kín đáo, nghiêm cẩn( như đi dạm vợ cơ mà!), thì cụ Nguyễn viết thế, dựng thế cũng đã là hết nhẽ.
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Hắn không nói tên chỉ xưng họ ngụ ý khoe khoang mình cũng là một kẻ danh giá, có học hành, một giám sinh của trường Quốc tử giám. Lời nói lại cộc lốc, nhát gừng đúng giọng điệu của những kẻ thiếu văn hoá, nghe rất chói tai. Tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu diện mạo của hắn:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Ngoại tứ tuần” nhưng lại chải chuốt, đỏm dáng râu mày tỉa tót nhẵn nhụi, áo quần chưng diện bảnh bao làm cho người gặp lần đầu đã nghi ngờ về tư cách của hắn. Rồi thì “trước thầy sau tớ xôn xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng lộ rõ bản chất huênh hoang, thô lỗ của hắn. Chỉ bằng một cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du bóc trần sự bịp bợm của tên lưu manh giả dạng một giám sinh.Một đoạn thơ ngắn chỉ 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng lên một chân dung sinh động của anh chàng họ Mã từ diện mạo, cử chỉ, lời nói đến bản chất bỉ ổi, bịp bợm. Bức chân dung của Mã Giám Sinh được hoàn chỉnh như nhà thơ tả cảnh hắn mặc cả cò kè mua Kiều. Kiều ra mắt trong tâm trạng nhục nhã ê chề:
“Ngại ngùng dợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.”
Một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc, hất tay” nàng tủi nhục biết nhường nào. Nhưng Mã Giám Sinh coi nàng là một món hàng không hơn không kém, hắn cân nhắc xem xét kĩ càng:
“Đắn đo cân sức, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.”
Và khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa” hắn liền hỏi giá, cho đến lúc này hắn vẫn đóng kịch làm bộ một kẻ có học, ăn nói văn hoa kiểu cách tỏ vẻ khiêm nhường lễ phép:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.
Nhưng bộ mặt thật của hắn chẳng đánh lừa được ai, hắn đã lộ nguyên hình một tên bán thịt buôn người đê tiện. Hắn rõ hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách dìm giá, ép giá, mặc cả “cò kè bớt một thêm hai” để rồi mua với giá rất hời:
“Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”
Kết thúc màn “bi hài kịch” mua người này, Nguyễn Du đã thốt lên chua xót: “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Nhà thơ tố cáo thế lực tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã tác oai tác quái chà đạp đạo lí và lương tâm con người. Một xã hội mà “Trong tay sẵn có đồng tiền – Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” thì giá trị của con người chỉ là món hàng.Bức tranh mua bán người thật xót xa não lòng làm ta liên tưởng đến những chợ bán nô lệ một thời dã man của lịch sử. Ngòi bút Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh khách quan khi miêu tả nhưng rồi lòng căm phẫn và xót thương không kìm nén được. Nguyễn Du lên án gay gắt cái xã hội tàn ác đã giày xéo lên quyền sống con người mà nạn nhân bi thảm nhất là những người phụ nữ.