Phong cách Hồ Chí Minh

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây

Đề bài: Qua văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”, trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới như hiện nay, việc học tập phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa như thế nào.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

– Dẫn dắt, nêu vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai của đất nước.

– Có thể dẫn dắt lời thư của Bác Hồ: “Non sông Việt Nam…công học tập của các em” hoặc một số câu khác có nội dung tương tự. (0,5 đ)

2. Thân bài:

*  Giải thích thế nào là tuổi trẻ?

– Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh niên, thiếu niên. Là lứa tuổi được học hành, được trang bị kiến thức và rèn luyện đạo đức, sức khỏe, chuẩn bị cho việc vào đời và làm chủ xã hội tương lai.
 – Tuổi trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, là chủ nhân của thế giới, động lực giúp cho xã hội phát triển. Một trong những việc làm quan trọng nhất của tuổi trẻ chính là nhiệm vụ học tập.

* Vì sao thế hệ trẻ lại ảnh hưởng đến tương lai đất nước?

– Thanh niên học sinh hôm nay sẽ là thế hệ tiếp tục bảo vệ, xây dựng đất nước sau này.

– Vốn tri thức được học và nền tảng đạo đức được nhà trường giáo dục là quan trọng, cơ bản để tiếp tục học cao, học rộng, đem ra thực hành trong cuộc sống khi trưởng thành.

– Một thế hệ trẻ giỏi giang, có đạo đức hôm nay hứa hẹn có một lớp công dân tốt trong tương lai gần. Do đó, việc học hôm nay là rất cần thiết.

*  Thực tế đã chứng minh, việc học tập của tuổi trẻ tác động lớn đến tương lai đất nước. 

– Thế giới không ngừng phát triển, muốn “sánh vai các cường quốc” thì đất nước phải phát triển về khoa học kĩ thuật, văn minh – điều đó do con người quyết định mà nguồn gốc sâu xa là từ việc học tập, tu dưỡng thời trẻ.

– Những người có sự chăm chỉ học tập, rèn luyện khi còn trẻ thì sau này đều có những cống hiến quan trọng cho đất nước:

+ Ngày xưa: những người tài như Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… từ thời trẻ đã chăm chỉ luyện rèn, trưởng thành lập những chiến công làm rạng danh đất nước

+ Ngày nay: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng. Các nhà khoa học xã hội có nhiều đóng góp cho đất nước trong mọi lĩnh vực như nhà bác học Lương Định Của, tiến sĩ Tạ Quang Bửu, anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, …

– Từ xưa đến nay, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xông pha vào những nơi gian khổ mà không ngại gian khó, hi sinh.

+ Trong chiến tranh: (dẫn chứng cụ thể)

+ Trong thời bình:  (dẫn chứng cụ thể)

– Các thế hệ học sinh, sinh viên ngày nay cũng đang ra sức luyện tài, đã gặt hái được những thành công trong học tập, nghiên cứu khoa học… đó sẽ là tiền đề quan trọng để đưa đất nước phát triển hơn trong tương lai.

* Làm thế nào để phát huy được vai trò của tuổi trẻ?

– Đảng và nhà nước cần có những chính sách ưu tiên hơn nữa cho việc đào tạo thế hệ trẻ.

– Nhà trường phải đẩy mạnh công tác giáo dục thế hệ trẻ về tài, đức.

– Mỗi người trẻ cần ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất nước, phải chăm chỉ học hành, rèn luyện đạo đức…

3.  Kết bài:

– Khẳng định tầm quan trọng của việc học tập, rèn luyện của thế hệ trẻ đối với tương lai của đất nước.

– Liên hệ bản thân, rút ra bài học…

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới như hiện nay – mẫu 1

Từ văn bản ” Phong cách Hồ Chí Minh” của Lê Anh Trà, tác giả đã gợi cho em những suy nghĩ sâu sắc về nhiệm vụ của thế hệ trẻ với việc tiếp thu văn hóa nhân loại đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. “Thế hệ trẻ” được coi là tương lai của một đất nước của một dân tộc. ” Văn hóa nhân loại” là trí thức, lối sống, văn hóa thế giới; còn ” bản sắc văn hóa dân tộc” là truyền thống, nét riêng của dân tộc.

Ở giới trẻ ngày nay, đã có một bộ phân biệt hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và đồng thời cũng vẫn còn tồn tại một bộ phận khác đang tiếp thu văn hóa nhân loại này một cách thụ động, không có chọn lọc và coi đó là ” mốt thời thượng”. Đầu tiên là từ những cái dễ thấy nhất như cách đi đứng, ăn mặc, nói năng và trang phục. Xu hướng chung của giới trẻ ngày nay là bắt chước, học theo phim nước ngoài, học theo các diễn viên, ca sĩ, thần tượng nổi tiếng. Những mái tóc nhuộm đầy màu sắc, những bộ quần áo ngắn cũn cỡn, rách te tua, những câu nói lẫn lộn giữa Tiếng Anh và Tiếng Việt… là biểu hiện của sự ăn chơi, đua đòi, là thứ văn hóa phù phiếm và nó cũng đã thể hiện việc quay lưng với bản sắc văn hóa dân tộc. Và một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cách quan niệm, cách suy nghĩ cũng như lối sống của giới trẻ ngày nay. Họ cho rằng những nét văn hóa, bản sắc dân tộc là sự cũ kĩ, cổ hủ, lạc hậu,… Khi tiếp xúc với những công dân trẻ tuổi, ta thường thấy dấu ấn của bản sắc văn hóa Việt Nam rất lu mờ nhưng đậm nét lại là một thứ văn hóa ngoại lai hỗn tạp. Nhưng đó cũng chỉ là nguyên nhân khách quan, là do sự tác động của môi trường sống mà thôi; còn nguyên nhân chủ quan lại là do ý thức của thế hệ trẻ ngày nay. Họ không quan tâm nhiều đến bản sắc văn hóa dân tộc, họ không hiểu và cũng không cần hiểu bản sắc văn hóa dân tộc là gì. Bản sắc văn hóa dân tộc là linh hồn, là gương mặt riêng của mỗi dân tộc nếu như ta đánh mất nó thì chúng ta chỉ là con số không ở giữa nhân loại. Vậy cần phải làm gì để thực hiện điều đó? Trước hết là sự tự giác ý thức của mọi người để thấy được giá trị của văn hóa dân tộc. Sau đó là sự giúp đỡ của gia đình, xã hội làm cho những nét văn hóa đó được tô đậm trong sự trà trộn phức tạp của các luồng văn hóa khác. Mặc dù chúng ta phải giữ gìn những nét văn hóa dân tộc nhưng không có nghĩa là ta loại bỏ những nền văn hóa khác. Chúng ta cần phải học hỏi một cách chủ động, có chọn lọc, tiếp thu những cái tinh hoa văn hóa của nhân loại để hình thành một nền văn hóa Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại, đa dạng mà vẫn đảm bảo được yêu cầu ” hòa nhập nhưng không hòa tan” trong xã hội mới. Vì vậy, thực hiện điều này là trọng trách của mọi công dân. mỗi thanh thiếu niên ngày nay. Là học sinh, em đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc tiếp thu văn hóa nhân loại đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Em sẽ nỗ lực cố gắng để khiến những nét văn hóa truyền thống của dân tộc ta ngày càng được tô đậm và được toàn thế giới biết đến.

Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới như hiện nay – mẫu 2

Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, vì vậy việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mỗi người là vô cùng cần thiết, trong đó, phong cách sống của mỗi người, đặc biệt là lớp trẻ ngày nay cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc đổi mới đất nước. 

Ta đều biết phong cách là tính cách, là cá tính riêng của mỗi người. Vậy phong cách sống là lối sống riêng thể hiện tính cách, cá tính của họ. Phong cách sống của lớp trẻ ngày nay là vô cùng phong phú, nó được thể hiện ở cả hai mặt tích cực lẫn tiêu cực. Đối với phong cách sống tích cực, ta có thể thấy ở mọi nơi, mọi lúc như: sống hy sinh vì người khác, học tập tích cực, sống có đạo đức, có chuẩn mực, sống hòa nhập và bảo vệ thiên nhiên,…Với lối sống tích cực đó, nó góp phần ảnh hưởng không nhỏ không chỉ đói với bản thân mà còn đối với cộng đồng xã hội. Những phong cách sống tích cực như vậy sẽ làm cho giá trị bản thân họ được đề cao hơn, gây thiện cảm, niềm tin yêu, sự tôn trọng của mọi người, bên cạnh đó còn làm cho xã hội phát triển mạnh mẽ hơn, sánh vai bình đẳng với thế giới, thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Bên cạnh những phong cách sống tích cực thì việc lớp trẻ vẫn hình thành nên lối sống tiêu cực là không thể tránh khỏi. Họ luôn sống ích kỷ, sống vì lợi ích bản thân, sống không có mục đích, luôn gây ra những trào lưu vô bổ nhằm mục đích phản động,… Tất cả những phong cách sống đó không những hủy hoại, làm mất đi giá trị bản thân trong mắt mọi người mà còn làm mọi người ghét, xa lánh, không tôn trọng mình hơn, qua đó còn làm cho đất nước ngày càng lạc hậu, không phát triển, không thể đứng lên sánh vai với thế giới. Chính vì những lối sống tiêu cực gây ảnh hưởng lớn như vậy nên chúng ta phải biết sống sao cho phù hợp với hoàn cảnh, sống có ích, biết sống cống hiến vì người khác, phê phán và lên án những lối sống không lành mạnh để rồi từ đó làm gương cho mọi người học tập và noi theo. Phong cách sống của lớp trẻ ngày nay là vô cùng quan trọng đối với đất nước. 

Bác Hồ của chúng ta, tuy là một vị Chủ tịch nước nhưng Bác luôn sống giản dị, sống trong sạch, sống “cần – kiệm – liêm – chính”, vì vậy mà mỗi chúng ta – những thế hệ trẻ của đất nước phải sống sao cho đẹp, sống có ích với bản thân và đất nước. Tôi cũng vậy, là một học sinh, chủ nhân tương lai của đất nước, tôi đã và đang cố gắng sống sao cho thật tốt, cho phù hợp với hoàn cảnh, sống cống hiến vì đất nước để trở thành một con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan của Bác Hồ kính yêu.

Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới như hiện nay – mẫu 3

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa hết sức to lớn: trang bị hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng cả mỗi người, để làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.

Nội dung của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh: Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chính là việc nghiên cứu và vận dụng hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh, bao gồm các tư tưởng chủ yếu như: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức Cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân;… Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải nắm bắt được yếu tố cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Việc học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người học tiếp cận, hiểu rõ hơn về con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969) là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Người là nhà lãnh đạo nổi tiếng được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, một vị nguyên thủ tài ba mà gần gũi, được hàng triệu đồng bào Việt Nam yêu mến. Hồ Chí Minh đồng thời cũng là một nhà văn hóa lớn với nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị để lại cho đời. Có thể nói, có rất nhiều yếu tố để tạo nên một con người vĩ đại với những thành tựu xuất chúng và dành được trái tim, tình cảm của nhiều đồng bào trong nước nói riêng và nhân dân thế giới nói chung. Song một yếu tố quan trọng then chốt và cơ bản đó chính là nội lực tự thân bên trong Hồ Chí Minh – là toàn bộ tư tưởng, quan điểm, nhận thức cũng như phẩm chất đạo đức của Người. Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta khám phá và hiểu rõ hơn những phẩm chất, quan niệm sâu sắc của Người, cũng là qua đó tìm ra cho mình một tấm gương sáng để noi theo và những bài học bổ ích để vận dụng trong cuộc sống. Đối với Hồ Chí Minh, giữa tư tưởng với đạo đức – phong cách – lối sống là luôn thống nhất nên việc nghiên cứu tư tưởng của Người không chỉ cho ta cái nhìn giản đơn về những quan niệm của Người trong các lĩnh vực, mà mặt khác còn cho ta cảm nhận được phẩm chất, đạo đức cao đẹp của Người. Hồ Chí Minh là con người “bằng xương bằng thịt” nhưng Người làm được những việc phi thường, to lớn không phải bất cứ một ai cũng làm được. Hồ Chí Minh cùng thành quả của Người chính là tấm gương sáng “người thực việc thực” cho những ai am hiểu sâu sắc về những tư tưởng của Người có thể học tập, làm theo. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn là một trong những con đường để nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về công lao to lớn của Người đối với nhân dân, đất nước Việt Nam và nhân dân của các nước thuộc địa trên thế giới. Thấm thía công lao của Người cũng sẽ khơi gợi trong mỗi một người dân Việt Nam lòng biết ơn, lòng tự hào dân tộc, thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc – đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác trong thời đại ngày nay. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh mặc dù có tính khái quát cao về các lĩnh vực có nội hàm rộng lớn như dân tộc và cách mạng dân tộc, chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản, Nhà nước, tư tưởng đại đoàn kết, quân sự, nhân văn, đạo đức, văn hóa… nhưng lại có tính thực tiễn và áp dụng rất cao, có thể được vận dụng hiệu quả trong từng công việc nhỏ lẻ của mỗi người dân. 

Thấm nhuần được các tư tưởng chủ đạo, ta sẽ có nền tảng vững chắc về mục đích lao động, mục tiêu đúng đắn để phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa và có bản sắc riêng. Từ đó ta sẽ tìm ra đường hướng cụ thể để phát triển năng lực của bản thân, xây dựng đất nước. Trên nền tảng kiên định lập trường, vững vàng quan điểm ấy, việc nắm rõ được bản chất của các tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho mỗi người nâng cao được khả năng tư duy lý luận sắc bén và cải tiến phương pháp lao động hiệu quả và khoa học hơn. Thay đổi được tư duy nhận thức đúng đắn cũng chính là loại bỏ, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện, phản động, hướng con người đến những tư tưởng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển. Nếu đổi mới tư duy có vai trò dẫn dắt khởi nguồn cho sự tiến bộ thì cải tiển phương pháp cũng quan trọng không kém trong việc hiện thực hóa những dự định, quan điểm đổi mới đó. Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, mặt trái của cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ, tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, phần tầng xã hội, sự suy đồi về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, Đảng viên đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin, tư tưởng và tình cảm của quần chúng nhân dân vào Đảng. Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, noi gương đạo đức của Người trở nên cần thiết, cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết giúp đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội. Nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Luôn luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới và sáng tạo. 

Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, các thế lực phản động thù địch không từ bỏ âm mưu nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối với nước ta thông qua cơ chế thị trường và trao đổi, giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, chúng ta có thể làm gì để vừa mở cửa, hợp tác phát triển kinh tế mà vẫn giữ được độc lập, chủ quyền dân tộc. Muốn vậy chúng ta phải tạo ra nguồn sức mạnh nội lực làm cơ sở cho sự phát triển. Một trong những sức mạnh nội lực đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh. Người có căn dặn: học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần cách mạng và khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, tức là phải luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung làm phong phú thêm lý luận. Do vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là việc học tập có ý nghĩa về mặt định hướng giá trị, tạo nên sức mạnh đồng thời là kim chỉ nam, là nền tảng tư tưởng cho mọi hành động của cả dân tộc.

 Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung và sinh viên ngành Luật nói riêng: Trong huấn thị gửi Đại hội Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam lần thứ II, Người viết: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy, cho nên phải tự giác, tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người.” Điều này cho thấy Người luôn quan tâm đến thanh niên – những người chủ tương lai của đất nước. Là sinh viên Luật, không chỉ là những người chủ tương lai của đất nước, mà còn là lực lượng nòng cốt xây dựng nên hệ thống pháp chế nước nhà, xương sống của quốc gia, chúng ta cần phải luôn quan tâm phát triển và nâng cao chất lượng của mỗi sinh viên Luật ngay từ trong ghế nhà trường. Rèn luyện tài: Tự giác trau dồi kiến thức pháp luật, tận dụng triệt để những điều kiện mà xã hội đang tạo ra, không để làm phí hoài tuổi trẻ. Học phải có lý tưởng, phải trả lời được hai câu hỏi của người “Học để làm gì? Học để phục vụ ai?”. Mặt khác, phải thường xuyên tham khảo nhiều phương pháp học trong và ngoài nước để tìm hiểu, đóng góp cho pháp luật nước nhà. Rèn luyện đức, ngành luật là chuyên ngành xương sống của quốc gia nhưng cũng vô cùng nhạy cảm cả trong nghề lẫn trong chính trị. Sinh viên luật phải tự nhắc nhở đạo đức nghề nghiệp, đạo đức với quốc gia dân tộc. Kết hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội sinh viên, thường xuyên tổ chức tham gia các buổi học về tư tưởng chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng nhau thảo luận vai trò của sinh viên Luật và để thấm nhuần hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh trong thế kỉ mới. Kế thừa tư tưởng đó của chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại học Luật Hà Nội nói riêng trong thời đại mới đang ra sức học tập, để đưa nước nhà “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. Thực tiễn việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay: Việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cách mạng luôn được coi trọng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường cao đẳng, đại học. Không ít những đoàn viên, thanh niên noi theo tấm gương của Bác đạt nhiều thành công trong học tập cũng như những lĩnh vực khác. Cũng nhờ việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, các cán bộ, đảng viên và đông đảo tầng lớp nhân dân đã nâng cao được nhận thức tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách làm việc, kiên định mục tiêu, góp phần đưa công cuộc đổi mới đi tới những thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thật sự hiệu quả. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đơn vị, người dân chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa tự giác tham gia. Việc vận dụng, học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang tính dập khuôn, cứng nhắc. Một số cán bộ chủ chốt chưa gương mẫu và tích cực trong học tập do đó chưa tạo được phong trào học tập sôi nổi ở cơ quan đơn vị. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là một công tác vô cùng quan trọng, nhưng lại chưa thật sự mạnh mẽ, chưa huy động được nhiều lực lượng tham gia. 

Với những ý nghĩa hết sức to lớn như trên, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/ 1991), Đảng đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Và từ đó tới nay, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là ngọn đèn soi sáng cho con đường của chúng ta, là vũ khí lý luận có giá trị khoa học sâu sắc và có ý nghĩa thực tiễn to lớn; là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới như hiện nay – mẫu 4

Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta và đi vào lịch sử nhân loại như một trong những vĩ nhân có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX. Điều làm nên sự vĩ đại, nhưng gần gũi, giản dị của Hồ Chí Minh là ở nhân cách, đạo đức, tài năng, những cống hiến của Người cho dân tộc và nhân loại. Một trong những di sản mà Người để lại là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo – cơ sở, tiền đề cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là một trong những di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại (Trong ảnh: Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này). Phong cách là “lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động, như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó”(1). Tư duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”.

Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là một trong những nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh; là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và đương thời. Với Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra(2). Nhờ tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo hình thành rất sớm ở Hồ Chí Minh, ngay từ thuở thiếu thời, lúc Người mới bước vào tuổi thanh niên. Khác với các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh không lựa chọn sang phương Đông mà quyết định sang phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.

Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người. Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình cảnh, số phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1121

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống