Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Cực Ngắn)
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 8
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 2
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 8
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
Câu 1:
Trả lời:
– Qua “lời con hổ ở vườn bách thú” tác giả Nhớ rừng đã gửi gắm tâm sự: Chán ghét những cảnh tầm thường, giả dối và cuộc sống tù túng mất tự do, khát khao mong mỏi được sống với một thời oanh liệt thỏa sức tự do giữa đại ngàn hùng vĩ. Tất cả những cảm xúc ấy đã gửi gắm tâm sự muốn được tháo cũi sổ lồng của tác giả.
– Bài thơ nhận được sự đồng cảm rộng rãi nơi công chúng bởi vì: Bài thơ được viết khi hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, dưới ách cai trị của Pháp xã hội trở nên nhố nhăng, tầm thường, ngột ngạt, bức bí, tâm lí chung của con người Việt Nam khi ấy chính là mong ước được thoát khỏi ách kìm kẹp của Pháp, sống một cuộc đời tự do.
Câu 2:
Trả lời:
Qua hai cảnh miêu tả Ông đồ thời “đắc ý” và thời “tàn tạ”, tác giả thể hiện niềm tự hào về một nét đẹp văn hóa truyền thống một thời của dân tộc đó là chơi chữ. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm tiếc nuối, thương xót bởi nhưng giá trị văn hóa ấy ngày càng bị mai một và cuối cùng không còn nữa. Đó chính là tâm sự hoài cổ của một con người nặng lòng với những nét đẹp cổ truyền xưa.
Câu 3:
Trả lời:
Sau hai câu đầu giới thiệu quê hương thân yêu của mình là một làng chài, tác giả đã vẽ lên một bức tranh khoer khoắn, sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của con người ở làng chài. Nhịp thơ linh hoạt gợi không khí vui tươi, nhôn nhịp. Khung cảnh thiên nhiên hiện ra thật nhiều màu sắc, hình ảnh sinh động:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thyền đi đánh cá..
Thời điểm đoàn thuyền ra khơi là một bình minh lí tưởng: “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”. Bầu trời trong sáng, không một gợn mây, gió nhè nhẹ thổi, ánh hồng bình minh phớt hồng chân trời. Khung cảnh ấy dự báo một chuyến ra khơi gặp trời êm biển lặng. Những chiếc thuyền buồm là biểu tượng cho sức mạnh và khí thế ra khơi đánh cá của đoàn trai tráng làng chài:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
“Hăng” nghĩa là hăng hái, hăng say gợi tả khí thế ra khơi vô cùng mạnh mẽ, phấn chấn. Con thuyền được so sánh “hăng như con tuấn mã” là một so sánh độc đáo. Những con thuyền lướt sóng như đoàn tuấn mã phi như bay với khí thế hăng say, với tốc độ phi thường. “Phăng” gợi hình ảnh con thuyền xuống mặt nước, một cách nhanh chóng, mạnh mẽ. Đặc biệt nổi bật ở đó hình ảnh cánh buồm.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Cánh buồm “giương” lên cao to, được gió thổi căng phồng để “bao la thâu góp gió”. Tế Hanh sáng tạo nên một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp: “Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng”. Cánh buồm tượng trưng cho sức mạnh và khát vọng ra khơi đánh cá, chinh phục biển để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cánh buồm – mảnh hồn làng ấy còn là niềm hi vọng to lớn của làng chài quê hương. Chữ “rướn” là từ gợi tả, đặc sắc. Con thuyền, cánh buồm như ưỡn ngực ra, hướng vẻ phía trước, xốc tới với sức mạnh to lớn, với khí thế hăm hở phi thường, vượt qua mọi trở lực, khó khăn
Câu 4:
Trả lời:
Trăng và người trong tác phẩm Ngắm trăng của Bác có mối quan hệ vô cùng khăng khít, gắn bó. Bác ngắm trăng trong cảnh tù ngục không rượu không hoa với lòng nung nấu căm thù giặc . Nhưng với Bác hoàn cảnh không thể làm phai mờ đi tình cảm của Bác đối với trăng. Đây chính là cuộc vượt ngục về tinh thần của Bác. Ở đó ta thấy được rõ mối giao hòa tuyệt đẹp giữa người và trăng: Người nhìn ra cửa sổ để ngắm nhìn vầng trăng, còn ánh trăng cũng xuyên qua cửa sổ để tìm đến nhà thơ. Qua đây đã cho thấy tình yêu thiên nhiên tha thiết và mối quan hệ gắn bó giữa Bác và vầng trăng.
Câu 5:
Trả lời:
Truyền thống yêu nước, sự phát triển của ý thức độc lập và tinh thần tự hào trong “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo” là sự phát triển liên tục, ngày càng phong phú, sâu sắc và toàn diện hơn. Trước hết là ý thức về quốc gia độc lập, thống nhất với việc dời đổa chốn trung tâm trời đất thể hiện khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, bền vững đời sống nhân dân thanh bình, triều đại thịnh trị. Đồng thời cũng thể hiện khí phách của một dân tộc tự lực, tự cường. Đến “hịch tướng sĩ”, tình yêu nước được thể hiện ở những biểu hiện riêng, đó là lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược bởi trong giai đoạn này, đất nước đang trong hiểm họa xâm lược của kẻ thù lớn mạnh quân Mông – Nguyên, vì thế yêu nước cần được biểu hiện ở những hành động cụ thể. Cuối cùng là “nước Đại Việt ta”, lòng yêu nước được phát triển cao nhất qua tư tưởng nhân nghĩa vì dân trừ bạo và quan niệm toàn diện, sâu sắc về sự tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc. Mỗi tác phẩm mang đến một nội dung khác nhau nhưng qua đây ta thấy rõ được sự phát triển của tinh thần yêu nước, ý thức độc lập và tinh thần tự hào dân tộc.
Câu 6:
Trả lời:
Sự thống nhất giữa lí lẽ và tình cảm đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao của các văn bản nghị luận Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ,, Nước Đại Việt ta:
“Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư ra thành Đại La. Bằng một lý lẽ ngắn gọn nhưng sắc sảo, cùng với dẫn chứng thiết thực, nhà vua đã khẳng định: không thể không chuyển dời. Trước tiên, tác giả dẫn ra một loạt các tấm gương triều đại đã từng dời đô khiến cho đất nước ngày càng thịnh trị, sau đó đưa ra bài học mất nước vì không chịu dời đô của những triều đại trước. Từ những cơ sở thực tiễn ấy, Lí Công Uẩn đã đưa ra căn cứ để tìm một nơi “trung tâm của trời đất”, một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi” đúng nơi Nam Bắc Tây Đông. Có thể nói, với trí tuệ anh minh tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã bày những lí lẽ vô cùng thuyết phục. Phần đầu nhà vua đưa ra những lý lẽ thuyết phục là nhờ những bằng chứng sử sách. Nhưng phần sau nhà vua đã đưa ra những suy nghĩ của riêng mình về miền đất mà vua định lập đô, không chỉ là cho ta thoả mãn về lí trí mà quan trọng hơn là bị thuyết phục bằng tình cảm . Ta bắt gặp ở đây 1 giọng nói đầy nhân từ , tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực . Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó.
“Hịch tướng sĩ” cũng là một tác phẩm có sức thuyết phục vô cùng lớn. Trước tiên thể hiện ở những lập luận vô cùng chặt chẽ, sắc bén. Các luận điểm được trình bày rất cụ thể: Để khích lệ tinh thần yêu nước, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược, tác giả đã khích lệ lòng căm thù ngoại xâm bằng cách chỉ ra những tội ác dã man của kẻ thù, nỗi nhục của kẻ mất nước, khích lệ tinh thần trung quân ái quốc, ý thức ân nghĩa thủy chung, khích lệ ý chí lập công danh, vì đất nước cũng là vì chính mình, khích lệ ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng trước điều hơn lẽ thiệt. Không chỉ thuyết phục bằng lí lẽ mà tác giả còn thể hiện thuyết phục bằng tình cảm với những lời lẽ tha thiết nghiêm khắc vừa nhẹ nhàng bảo ban, lấy ân tình chủ tới, lấy nỗi nhục mất nước của cả dân tộc để đánh và tâm lí của những binh sĩ dưới quyền.
“Nước Đại Việt ta” là áng văn hay khẳng định niềm tự hào, chủ quyền độc lập của dân tộc thông qua những lí lẽ và dẫn chứng vô cùng thuyết phục. Trước tiên tác giả đưa ra tiền đề nhân nghĩa đó là yên dân và trừ bạo để khẳng định cuộc chiến của ta là chính nghĩa, vì dân mà đứng lên diệt trừ bạo tàn. Tiếp đến là lời khẳng định về độc lập dân tộc qua một loạt những lí lẽ thuyết phục về văn hiến, lãnh thổ, chủ quyền, phong tục tập quán, lịch sử, con người. Những yếu tố này là hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, nếu cố tình vi phạm sẽ gặp những thất bại thảm hại. Những lí lẽ ấy được thể hiện với một giọng điệu cứng rắn nhưng cũng đầy cảm xúc đem đến sự thuyết phục cao nơi người đọc.
Câu 7:
Trả lời:
Ngòi bút châm biếm, đả kích mạnh mẽ, sắc sảo trong bài “Thuế máu” được bắt nguồn từ lòng yêu nước mãnh liệt và tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Điều này hoàn toàn chính xác bởi vì: Sự châm biếm, đả kích chính sách và bộ máy cai trị độc ác, giả dối của thực dân Pháp, là sự xuất phát từ lòng yêu nước tư tưởng nhân đạo. Lòng yêu nước và tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong việc lựa chọn các vấn đề phê phán như chính sách bắt lính phục vụ cho chiến tranh của bọn thực dân, trong việc đưa ra những sự thật không thể chối cãi của những cách sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ châm biếm sắc sảo.