Xem toàn bộ tài liệu Lớp 6 – Cánh Diều: tại đây
1. Định hướng
a. Ở phần nói và nghe, các em sẽ không viết văn mà kể lại truyền thuyết hoặc cổ tích đó bằng lời
b. Để kể lại một truyện truyện truyền thuyết hoặc cổ tích các em cần:
– Bám sát sự kiện chính nhưng có thể sáng tạo thêm những chi tiết hình ảnh, cách kết thúc truyện
– Phân biển kể miệng ( văn nói) với kể bằng viết ( văn viết), chú ý cách kể, giọng kể, kết hợp với ngôn ngữ hình thể ( cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,…) phù hợp với nội dung câu chuyện. Trong trường hợp cần thiết, người kể có thể sử dụng các thiết bị hỗ troh ( tranh, ảnh, video,…)
2. Thực hành
Bài tập: Kể lại truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời của em
a. Chuẩn bị
– Yêu cầu đầu tiên cần đọc lại thật kỹ truyện Thánh Gióng
– Tìm một số tranh ảnh để hỗ trợ phần kể chuyện của mình, dưới đây là một số hình ảnh các em có thể tham khảo.
b. Tìm ý và lập dàn ý
* Tìm ý
– Xem lại phần dàn ý ở phần Viết để bổ sung chỉnh sửa
– Các sự kiện chính trong truyện:
+ Sự ra đời kì lạ, hoang đường của Gióng
+ Khi vua cho sứ giả đi tìm người tài đánh giặc, Gióng tự nhiên biết nói và nhận nhiệm vụ.
+ Sau hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi
+ Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, cầm roi đi đánh giặc
+ Sau khi đánh tan quân giặc, rồi lên núi, cởi bỏ áo giáp sắt bay về trời.
+ Vua lập đền thờ phong danh hiệu Phù Đổng Thiên Vương.
+ Những dấu tích còn sót lại của Thánh Gióng
– Có thể sáng tạo phần kết truyện như sau:
+ VD1: Giặc tan xác, ôm đầu chạy về nước. Nhân dân vui mừng mở tiệc, Thánh Gióng quay lại làng Gióng gặp mẹ của mình. Mẹ cậu rất cảm động về việc làm vừa rồi của con mình. Vua chúc mừng và khen cậu rất nhiều, vua còn tổ chức hội khỏe Phù Đổng và rất biết ơn cậu. Nhân dân trong làng rất biết ơn cậu, các em bé nhỏ đều vây quanh Thánh Gióng. Nhìn cậu lúc này không còn cao lớn như khi đánh giặc mà trở lại hình dáng như người thường, nói chuyện lưu loát. Câu và mẹ cậu lại trở về một thế giới đầy tình yêu gia đình.
+ VD2: Sau khi đánh thắng giặc Ân, Thánh Gióng ở lại trần gian và được vua Hùng nhường ngôi . Anh ra sức giúp đỡ bà con dân làng,được mọi người yêu quý và giúp đỡ. sau khi anh qua đời đã được bà con dân làng lập đền thờ. từ đó trở đi năm nào môi người cũng tổ chức hội khỏe Phù Đổng để tưởng nhớ người anh hùng trẻ tuổi
– Đây là câu chuyện truyền thuyết kể về người anh hùng nên cần lựa chọn giọng điệu chính là hào hùng, mạnh mẽ và đầy tự hào
* Lập dàn ý
I. Mở bài
– Xin chào các bạn, hôm nay tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe câu chuyện truyền thuyết mà tôi yêu thích nhất đó là truyện Thánh Gióng.
– “Thánh Gióng” là một trong những truyện dân gian hấp dẫn và lôi cuốn nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.
– Anh hùng Gióng tiêu biểu cho lòng yêu nước, quyết tâm thắng giặc ngoại xâm của nhân dân ta, đặc biệt của thiếu niên Việt Nam.
II. Thân bài
1) Cậu bé làng Gióng ra đời
– Đời Hùng Vương thứ 6
– Cha mẹ cậu Gióng: chăm làm ăn, phúc đức, ao ước có con.
– Mẹ cậu Gióng ra đồng, đặt chân mình lên vết chân khổng lồ trên đường ướm thử, về nhà thụ thai mười hai tháng.
– Cậu bé làng Gióng ra đời: Mặt mũi khôi ngô, ba tuổi vẫn không biết đi, biết nói, biết cười.
2) Sự lớn lên kì diệu của Gióng
– Giặc Ân, thế rất mạnh, đến xâm chiếm nước ta. Vua truyền sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
–Gióng nói lời đầu tiên với mẹ: Mời sứ giả, lời thứ hai: tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, mũ sắt.
–Gióng lớn nhanh như thổi (ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ), cha mẹ Gióng nhờ bà con, làng xóm gom góp thóc gạo nuôi Gióng, ai cũng sẵn lòng.
3) Gióng xung trận
– Thế nước rất nguy, giặc đến chân núi Trâu, người người hoảng hốt, sứ giả đem ngựa, roi, áo giáp sắt đến cho Gióng.
– Cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ, mặc giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt: vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang.
– Tráng sĩ phi ngựa tiến thẳng tới nơi có giặc; đánh đón đầu giặc; giết hết lớp này đến lớp khác; giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre cạnh đường quật vào giặc; ngựa phun lửa. Giặc tan tác.
4) Tráng sĩ Gióng bay lên trời
– Đuổi giặc đến núi Ninh Sóc, tráng sĩ cởi bỏ giáp sắt, cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
– Nhớ ơn cứu nước, Vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà.
5) Vết tích còn lại
– Làng Gióng và đền thờ Phù Đổng Thiên Vương. Hội Gióng vào tháng tư hàng năm.
– Những bụi tre đằng ngà, bị ngựa phun lửa cháy, ngả màu vàng óng, ở huyện Gia Bình.
– Những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp; lửa do ngựa phun ra thiêu cháy một làng nay gọi là làng Cháy.
III. Kết bài
– Niềm ao ước được một lần về dự hội Gióng, về thăm quê hương Phù Đổng Thiên Vương, niềm tự hào của nhân dân nước Việt, của thiếu niên Việt Nam.
– Cảm ơn các bạn đã lắng nghe câu chuyện của tôi và rất mong sẽ được lắng nghe những câu chuyện của các bạn.
c. Nói và nghe
Bài tham khảo: Kể chuyện Thánh Gióng
Xin chào các bạn, hôm nay tôi rất vui khi được kể cho các bạn nghe một câu truyện truyền thuyết mà tôi cực kì tâm đắc đó là truyền thuyết Thánh Gióng.
Các bạn biết không, vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?
Lúc đó tình hình đất nước ta lâm nguy lắm các bạn ạ, giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.
Một điều kì lạ đã xảy ra, từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.
Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.
Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà. Vừa rồi, tôi đã kể cho các bạn nghe câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng, các bạn có thấy câu chuyện đó thật hấp dẫn và nhiều ý nghĩa không. Mặc dù đã đọc câu chuyện này rất nhiều lần nhưng mỗi lần đọc lại niềm tự hào lại trào dâng trong tôi. Nhắc nhở tôi phải cố gắng học tập, rèn luyện để cống hiến cho đất nước.
d. Kiểm tra và chỉnh sửa
– Sau khi đã kể xong câu chuyện học sinh lắng nghe những góp ý từ giáo viên và các bạn trong lớp rút kinh nghiệm cho những lần trình bày tiếp theo.
– Trong quá trình kể chuyện các em hãy thử quan sát của những người lắng nghe xem mọi người hào hứng, say mê hay có thái đó thế nào nhé?
Tham khảo các bài Soạn văn lớp 6 ngắn nhất sách Cánh diều hay khác: