Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 11 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11 (Cực Ngắn)
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 11
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2
Sách giải văn 11 bài người cầm quyền khôi phục uy quyền (Ngắn Gọn), giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 11, sách giải ngữ văn lớp 11 bài người cầm quyền khôi phục uy quyền sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 11 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 11, giải bài tập sgk văn 11 đạt được điểm tốt:
1. Tác giả
Vic-to Huy-gô (1802 – 1885) là một thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu thế kỉ XIX cho tới nay.
Các tác phẩm tiêu biểu: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chín mươi ba (1874),… Thơ ông trải dài suốt cuộc đời: Lá thu (1831), Tia sáng và bóng tối (1840), Trừng phạt và tội ác (1853)…
Tên tuổi của Huy-gô đã được thế giới ngưỡng mộ, không chỉ do những kiệt tác của nhà văn, mà còn do những hoạt động không ngừng nghỉ vì sự tiến bộ của con người. Ông là nhà văn đầu tiên của nước Pháp khi mất được đưa chôn cất ở điện Păng – tê – ông, nơi trước đó chỉ dành cho vua chúa và các danh tướng. Năm 1985, vào dịp một trăm ngày mất của ông, thế giới làm lễ kỉ niệm Huy-gô – Danh nhân văn hóa của nhân loại.
2. Tác phẩm
Những người khốn khổ là một bộ tiểu thuyết được nhân loại biết đến nhiều nhất trong kho tàng sáng tác “mênh mông” của Huy-gô.
Những người khốn khổ được chia làm năm phần. Phần thứ nhất mang tên: Phăng-tin, phần thứ hai: Cô – dét; phần thứ ba: Ma – ri – uýt; phần thứ tư: Tình ca phố Pơ – luy – mê và anh hùng ca phố Xanh Đơ – ni; phần thứ năm: Giăng Van-giăng.
3. Đoạn trích
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm ở cuối phần thứ nhất. Vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú mình là ai, và Ma – đơ – len chỉ là một cái tên giả. Bởi vậy, ông phải đến từ giã Phăng-tin trong khi nàng chưa biết gì về sự thật tàn nhẫn…
Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Nghệ thuât đối lập hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve:
* Nhân vật Gia-ve:
a, Chân dung, tính cách của Gia-ve:
– Bộ mặt gớm ghiếc
– Giọng nói như tiếng thú cầm.
– Điệu cười: ghê tởm, phô ra tất cả hai hàm răng.
=> Chân dung của một con ác thú hung bạo.
b, Ngôn ngữ và hành động của Gia ve khi tới gặp Giăng Van-giăng và Phăng-tin:
– Khi gặp Giăng Van-giăng
+ Ngôn ngữ: giong nói thú gầm, xưng hô: mày – tao.
→ Hống hách.
+ Hành động: quát tháo, đứng lì, túm lấy cổ áo.
– Khi gặp Phăng-tin:
+ Ngôn ngữ: quát chửi, xưng hô thô bỉ.
+ Hành động: nói toạc ra hết mọi chuyện về con gái Phăng-tin.
→ Hành động như một con thú rình mồi, là một con người vô nhân đạo, vô cảm trước nỗi đau của con người.
=> Bằng bút pháp miêu tả trực tiếp, nghệ thuật so sánh, phóng đại, ẩn dụ, tác giả đã làm lên nhân vật Gia-ve một con người ác thú.
* Nhân vật Giăng Van-giăng
a, Tính cách của Giăng Van-giăng qua đoạn trích:
– Muốn cứu người bị bắt oan, Giăng Van-giăng tự thú.
– Sẵn sàng bị bắt.
– Cố gắng kéo dài thời gian đề tìm con cho Phăng-tin
b, Giăng Van-giăng con người đối lập với cái ác:
– Giọng nói:
+ Với Gia-ve: tế nhị, nhẹ nhàng nhưng đầy uy quyền.
+ Với Phăng-tin: nhã nhặn, điềm tĩnh, quan tâm.
– Hành động:
+ Đối với Gia-ve: biết rõ mục đích của Gia-ve → cúi đầu cầu xin → tức giận, cầm lấy thanh sắt trừng trừng nhìn Gia-ve.
+ Đối với Phăng-tin: quan tâm, ân cần, lo lắng.
=> Mục đích: Giăng Van-giăng cố gắng giữ bí mật chuyện chưa tìm được Cô – dét cho Phăng-tin, lo lắng Phăng-tin bị sốc nếu biết tin.
c, Giăng Van-giăng qua sự miêu tả gián tiếp
– Lời cầu cứu của Phăng-tin.
– Cảnh bà xơ Xem – pli – xơ chứng kiến cái chết của Phăng-tin.
=> Giăng Van-giăng có sức mạnh của một đấng cứu thế, cứu rỗi những con người khốn khổ.
* Ý nghĩa của thủ pháp nhằm làm nổi bật sự đối lập giữa thiện, ác, tốt xấu, yêu thương tàn bạo.
Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
– Khi thể hiện tính cách của Gia-ve, Huy-gô đã sử dụng rất nhiều những so sánh và ẩn dụ. Đó là những so sánh có tính chất phóng đại và đều nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Điều đó được thể hiện qua bộ dạng, ngôn ngữ, giọng điệu: “Trong cái đệu hắn nói lên hai tiếng ấy (Mau lên) có cái gì man rợ và điên cuồng. […]. Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”; “Gia-ve phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.
– Ở Giăng Van-giăng trước hết hiện lên qua ngòi bút miêu tả trực tiếp của nhà văn: “Ông bảo Phăng-tin bằng giọng hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh”, lúc lại thì thầm hạ giọng… → Nói lên sự điềm đạm của Giăng Van-giăng.
Giăng Van-giăng cũng được miêu tả gián tiếp qua những lời cầu cứu của nhân vật Phăng-tin: hình ảnh Giăng Van-giăng của Phăng-tin như là một anh hùng, như là một cứu tinh. Giăng Van – Giăng còn hiện lên rất đẹp qua cảm nhận của bà xơ Xem – pli – xơ: “lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thất rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.
Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Đoạn văn từ câu “Ông nói gì với chị?” đến câu “có thể là những sự thực cao cả” là phát ngôn của tác giả. Thuật ngữ văn học này dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (hay “trữ tình ngoại để”).
Tác dụng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền:
– Thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn: con người với trái tim yêu thương có thể đánh đổ được cái ác, sự cường quyền.
– Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.
Câu 4 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa qua đoạn trích:
– Cái chết bi thảm của Phăng-tin đầy thương tâm nhưng không gợi sự bi lụy.
– Gương mặt sáng rỡ, nụ cười trên môi của Phăng-tin khi chết là lời khẳng định sức mạnh của tình thương yêu con người có thể đẩy lùi cường quyền và áp bức, nhen nhóm niềm tin vào tương lai.
– Thế giới lãng mạn của Huy-gô được biểu hiện qua hình ảnh người anh hùng lãng mạn (Giăng Van-giăng) giải quyết những bất công xã hội bằng tình thương.
Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Nghệ thuật miêu tả nhân vật Phăng-tin:
– Nghệ thuật đối lập:
+ Phăng-tin (nạn nhân) > < Gia – ve (cường quyền).
+ Phăng-tin (nạn nhân) > < Giăng Van-giăng (Vị cứu tinh).
– Nghệ thuật miêu tả tâm trạng: Phăng-tin từ tin tưởng tuyệt đối vào Giăng Van-giăng đến lo lắng, sợ hãi. Khi nghe những lời ghê tởm, hống hách của Gia-ve “Tao đã bảo không có ông Ma – đơ – len…” chị đã không chịu đựng nổi, chị hoảng hốt rồi mất đi.
→ Hình ảnh người phụ nữ đáng thương, tội nghiệp khi niềm tin về một chỗ dựa vượt qua cái ác bị đổ vỡ. Tuy nhiên, ngôn ngữ và hành động của Phăng-tin lại thể hiện một sức mạnh khác thường. Đó là nụ cười của Phăng-tin khi chết làm cho câu chuyện chứa chan tinh thần nhân đạo. Một cái kết có hậu cho người đàn bà khốn khổ.
Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Nhân vật Phăng-tin đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện. Nhân vật chính là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa thiện – ác. Qua đó làm cho tính cách nhân vật Gia-ve và Giăng Van-giăng hiện lên một cách nổi bật.
Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Trong đoạn trích, cũng như trong toàn thể thiên truyện, việc phân tuyến nhân vật có nhiều nét giống văn học dân gian.
Đó là sự phân tuyến nhân vật theo kiểu thiện – ác, các nhân vật Giăng Van-giăng, Phăng-tin đối lập với Gia-ve. Việc sắp xếp tuyến nhân vật như vậy làm nổi bật tính cách các nhân vật cũng như ý nghĩa, chủ để của tác phẩm.