- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Ngắn Gọn)
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 8
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 2
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 8
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
Sách giải văn 8 bài tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (Cực Ngắn), giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 8, sách giải ngữ văn lớp 8 bài tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 8 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 8, giải bài tập sgk văn 8 đạt được điểm tốt:
I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Câu 1 (trang 95 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Đọc văn bản và trả lời câu hỏi
a, Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:
– Từ ngữ: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
– Những câu cảm thán:
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ giống nhau ở chỗ cùng có sử dụng nhiều từ ngữ và nhiều câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Tuy nhiên, Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đều là văn bản nghị luận chứ không phải văn bản biểu cảm vì: Mục đích của 2 văn bản là để nghị luận nhằm cổ vũ, động viên, khích lệ. Yếu tố biểu cảm chỉ là yếu tố bổ sung làm tăng tính thuyết phục cho 2 văn bản nghị luận.
c. Các câu ở cột (2) hay hơn các câu ở cột (1) tuy cùng diễn đạt một nội dung thông tin như nhau là vì các câu ở cột (2), lí lẽ được hỗ trợ bởi các yếu tố biểu cảm
Tóm tắt
Câu 2 (trang 96 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận:
– Phải có luận điểm rõ ràng, mạch lạc
– Thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói)
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng nhiều từ ngữ, câu văn có sức truyền cảm
– Không phải bài văn cứ sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm và câu cảm thán thì giá trị biểu cảm tăng vì những yếu tố này chỉ là phụ trợ. Cảm xúc, sự rung động thực sự chứ không phải sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.
II. Luyện tập
Câu 1 (trang 97 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” :
– Những yếu tố đối lập:
+ những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu > < những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do
+ chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột > < đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường
+ cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi > < xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái
– Hình ảnh mang tính biểu tượng cao :
+ bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng
+ lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy
+ khạc ra từng miếng phổi
-Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm sâu cay, khi xót thương
Tác dụng: Thuyết phục người đọc đồng cảm với suy nghĩ của mình, căm thù sự độc ác và tráo trở của bọn thực dân, cảm thương cho số phận của nhân dân ta.
Câu 21 (trang 97 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Nỗi buồn trước thực trạng học tủ, học vẹt của học sinh
– Sự bức xúc, trăn trở trước tình trạng sự học của nước nhà.
Đoạn trích không chỉ thuyết phục lí trí mà còn rất gợi cảm:
+ Giọng băn khoăn, day dứt .
+Những câu văn được viết dưới dạng của những câu hỏi tu từ, mang tính chất bộc lộ thái độ và thể hiện nỗi đau của tác giả một cách kín đáo : “Nói làm sao cho”, “Không có lí do gì phải nhấm bút…”, “Sao không có một “hãng” nào đó in ra”.
+Những từ ngữ thể hiện thái độ, tình cảm được sử dụng nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái “nghiệp”, năm trời, không có lí do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi, bắt trẻ em ngày ngày phải đến trường
Câu 3 (trang 98 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Chúng ta không nên học vẹt học tủ. Học là quá trình lĩnh hội và nắm bắt kiến thức. Nếu học tủ, học vẹt chung ta chỉ lưu giữ được kiến thức trong một khoảng thời gian rất ngắn rồi mau chóng lãng quên. Thật sự quan ngại về hiện tượng học tủ, học vẹt trong trường học hiện nay. Học sinh chỉ học để đối phó, để trả bài cho giáo viên. Khi học vẹt, các em không hiểu bản chất vấn đề thì làm sao có thể ghi nhớ lâu kiến thức, làm sao có kết quả tốt trong học tập? Học vẹt, học tủ chính là đang tự lãng phí thsời gian học tập của mình.