Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây
A
A. Hoạt động khởi động
B
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. (trang 105, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Ôn tập văn học nước ngoài
a) Hoàn thành bảng thống kê theo mẫu sau:
Tác phẩm/Đoạn trích | Tác giả (năm sinh, năm mất, quốc tịch) | Thể loại | Nội dung chính | Đặc sắc nghệ thuật |
---|---|---|---|---|
b) Tác phẩm Cô bé bán diêm kết thúc có hậu không? Điều đó có ý nghĩa gì?
c) Theo em, nếu bối cảnh thời gian không phải là đêm giao thừa và ngày đầu năm mới thì giá trị nội dung của tác phẩm Cô bé bán diêm sẽ thay đổi như thế nào? Vì sao?
d) Sự tương phản trong tính cách của Đôn Ki – hô – tê và Xan – chô – Pan – xa có ý nghĩa gì trong đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió?
e) Tình cảm nào chi phối ngòi bút của Ai – ma – tốp trong đoạn trích Hai cây phong?
g) Chỉ ra hệ thống luận điểm và nhận xét về cách lập luận của Ru – xô trong đoạn trích Đi bộ ngao du.
h) Phân tích ý nghĩa biểu tượng của hình tượng chiếc lá cuối cùng trong tác phẩm cùng tên của O – Henri.
i) Kết cấu đảo ngược tình huống hai lần trong truyện Chiếc lá cuối cùng có ý nghĩa gì?
k) Những yếu tố nào tạo nên chất “hài” trong đoạn trích Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục?
tra loi
Trả lời:
a. Hoàn thành bảng:
Tác phẩm/Đoạn trích | Tác giả (năm sinh, năm mất, quốc tịch) | Thể loại | Nội dung chính | Đặc sắc nghệ thuật |
---|---|---|---|---|
Cô bé bán diêm | An- đéc- xen (1805 – 1875; Đan Mạch) |
Truyện ngắn | Khơi gợi lòng thương cảm đối với những em bé bất hạnh, thắp lên ngọn lửa của tình yêu thương và lòng nhân hậu. | Nghệ thuật kể chuyện, cách tổ chức các yếu tố mộng tưởng và hiện thực trong tác phẩm. |
Đánh nhau với cối xay gió | Xéc – van – téc (1547 – 1616;Tây Ban Nha) |
Tiểu thuyết | Kể câu chuyện về sự thất bại của Đôn- ki –hô-tê đánh nhau với cối xay gió, nhà văn chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, hão huyền, phê phán thói thực dụng thiển cận của con người trong đời sống xã hội | – Nghệ thuật kể chuyện tô đậm sự tương phản giữa hai hình tượng nhân vật – Có giọng điệu phê phán, hài hước. |
Chiếc lá cuối cùng | O-Hen-ri (1862 – 1910; Mỹ) |
Truyện ngắn | – Ca ngợi tình yêu thương cao cả của những con người nghèo khổ với nhau. – Sức mạnh của tình yêu cuộc sống đã chiến thắng bệnh tật. – Sức mạnh và giá trị của nghệ thuật chân chính. |
– Kết cấu truyện đảo ngược tình huống hai lần. – Xây dựng tình tiết truyện hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và khéo léo, gây hứng thú cho người đọc. |
Hai cây phong | Ai-Ma-Tốp (1928 – 2008, Liên Xô) |
Truyện ngắn | Hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người họa sĩ làng Ku- ku –rêu. | Cách xây dựng mạch kể ; Cách miêu tả giàu hình ảnh và lời văn giàu cảm xúc. |
b. Truyện Cô bé bán diêm:
Cái kết của tác phẩm Cô bé bán diêm là một cái kết không có hậu. Câu chuyện khép lại nhưng để trong lòng người đọc nỗi băn khoăn, day dứt khôn nguôi, suy nghĩ về tình người, cuộc đời. Nhà văn không né tránh sự thật phũ phàng. Em bé từ giã cõi đời vì không có ai thương em, che chở cho em. Trước khi chết đói, em đã chết bởi sự vô cảm của người đi đường. Cái chết của em đã để lại trong lòng mỗi người sự ám ảnh, như một sự tố cáo, phê phán xã hội lạnh lùng, thờ ơ và cũng là một thông điệp, một lời đề nghị của tác giả về hãy biết chia sẻ tình yêu thương đối với những người xung quanh, nhất là những mảnh đời bất hạnh.
c. Truyện Cô bé bán diêm:
Bối cảnh không gian là đêm giao thừa và ngày đầu năm mới là lúc mọi người, mọi nhà quây quần, đoàn tụ bên nhau với những ánh đèn rực rỡ, những món ăn ngon và không khí đầm ấm. Không gian này đặt vào hoàn cảnh của tác phẩm giúp tác giả thể hiện rõ ràng sự đáng thương, tội nghiệp, sự tương phản dữ dội giữa một em bé bơ vơ, lạc lõng, đói rách với không khí ấm cúng, vui vẻ của bao người. Chính vì thế, nếu không phải là bối cảnh không gian ấy thì giá trị nội dung của tác phẩm sẽ không được thể hiện thông điệp, ý niệm của tác giả một cách rõ ràng, sâu sắc.
d. Truyện Đánh nhau với cối xay gió:
+ Đôn-ki-hô-tê là nhân vật có lý tưởng tốt- hành hiệp trượng nghĩa- nhưng hành động thì điên rồ, phi thực tế bởi chính những ảo tưởng, mê muội khi đọc chuyện kiếm hiệp.
+ Xan-chô-pan-xa là nhân vật tồn tại cả những mặt tốt, xấu, hay dở. Xan-chô-pan-xa rất thực tế, tỉnh táo nhưng nhân vật này thực dụng, hèn nhát, tham lam.
⇒ Khi đối chiếu Đôn-ki-hô-tê và Xan-chô-pan-xa về các mặt: dáng vẻ bên ngoài, nguồn gốc xuất thân, suy nghĩ, hành động… ta thấy rõ nhà văn xây dựng một cặp nhân vật tương phản. Điều này giúp tác giả thể hiện nội dung của đoạn trích, đó là sự chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, hão huyền của Đôn Ki – hô – tê , phê phán thói thực dụng, thiển cận của Xan – chô – Pan – xa cũng như con người trong đời sống xã hội.
e. Đọc tác phẩm, chúng ta có thể thấy ngòi bút của tác giả hiện lên với tình cảm gắn bó, yêu quê hương, nhớ nhung nơi chôn rau cắt rốn tha thiết. Tình yêu đặc biệt đối với hai cây phong mà tác giả coi như những người bạn đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phối cả niềm vui và nỗi buồn của người họa sĩ.
g. – Hệ thống luận điểm của tác phẩm:
+ Đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa vì có thể hoàn toàn tự do, thoải mái làm theo ý thích, không bị phụ thuộc vào ai hay điều gì.
+ Đi bộ ngao du là một dịp tuyệt vời để trau dồi, tìm hiểu kiến thức qua thực tế.
+ Đi bộ ngao du tốt cho sức khỏe và tinh thần của con người.
– Nhận xét về cách lập luận: Cách lập luận trên rất chặt chẽ, logic, tạo cho văn bản sự mạch lạc, thống nhất. Các luận điểm được sắp xếp theo trình tự từ yếu tố chính đến phụ, yếu tố quan trọng nhất được đưa lên đầu tiên.
h. Hình tượng chiếc lá cuối cùng trong tác phẩm cùng tên của O-Henri là biểu tượng cho cái đẹp và nghệ thuật. Chiếc lá cuối cùng đã kiên cường vượt qua giông bão giúp giôn- xin thức tỉnh, thay đổi suy nghĩ và vượt qua bạo bệnh. Hình ảnh chiếc lá cũng là hiện thân cho niềm tin, niềm hi vọng của con người trong cuộc sống, nếu không ngừng chiến đấu chúng ta nhất định sẽ chiến thắng.
i. Kết cấu đảo ngược tình huống hai lần trong chuyện Chiếc lá cuối cùng là một sáng tạo đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Nghệ thuật đảo ngược là yếu tố giúp tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn và gây hứng thú, tạo yếu tố bất ngờ cho độc giả.
k. Vở kịch gây cười ở sự mất cân bằng đối xứng giữa hình thức với nội dung, giữa cái biểu hiện bên ngoài với cái bên trong.
+ Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng bất hòa giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn với giấc mộng học đòi làm sang.
+ Hàng loạt chi tiết gây cười: bộ lễ phục với bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tung hô, nịnh bợ, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc đanh khi mặc lễ phục.
+ Giấc mơ bước chân vào giới thượng lưu khi không có kiến thức, hiểu biết liên tục đẩy ông Giuốc đanh trở thành người lố bịch.
→ Mô-li-e tài tình trong việc khắc họa tính cách lố lăng của một tay trưởng giả muốn học đòi học làm sang, gây nên tiếng cười sảng khoái cho khán giả.
2. (trang 105, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Ôn tập văn bản nhật dụng
a) Lập bảng thống kê những văn bản nhật dụng đã học trong chương trình Ngữ văn 8 theo mẫu sau:
Văn bản | Tác giả | Nội dung chính | Phương thức biểu đạt |
---|---|---|---|
b) Những văn bản trên có điểm nào giống và khác nhau về hình thức và nội dung?
c) Văn bản nhật dụng có vai trò gì trong đời sống?
tra loi
Trả lời:
Văn bản | Tác giả | Nội dung chính | Phương thức biểu đạt |
---|---|---|---|
Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 | Sở Khoa học – Công nghệ Hà Nội | Môi trường | Thuyết minh |
Ôn dịch, thuốc lá | Nguyễn Khắc Viện | Tệ nạn ma túy, thuốc lá | Thuyết minh, nghị luận và biểu cảm |
Bài toán dân số | Thái An | Dân số và tương lai loài người | Thuyết minh và Nghị luận |
3. (trang 106, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Ôn tập phần Tập làm văn
a, Vì sao văn bản cần có tính thống nhất? Tính thống nhất của văn bản thể hiện ở những phương diện nào?
b, Vì sao phải tóm tắt văn bản tự sự? Muốn tóm tắt văn bản tự sự cần phải thực hiện những bước nào?
c, Yếu tố miêu tả và biểu cảm có tác dụng gì trong văn bản tự sự?
d, Khi viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cần chú ý những gì?
e, Văn thuyết minh có lợi ích gì trong cuộc sống? Nêu ví dụ minh họa.
g, Muốn viết văn bản thuyết minh, cần thực hiện các bước nào? Vì sao phải làm như vậy?
h, Nêu các phương pháp để thuyết minh sự vật.
i, Thế nào là luận điểm trong bài văn nghị luận?
k, Sự kết hợp các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm trong bài văn nghị luận có tác dụng gì?
l, Văn bản tường trình và văn bản thông báo cần đảm bảo những yêu cầu gì về hình thức, nội dung?
tra loi
Trả lời:
a. Văn bản cần có tính thống nhất:
– Văn bản cần có tính thống nhất để không bị lạc sang chủ đề khác
– Tính thống nhất của văn bản được thể hiện ở các phương diện: nhan đề, đề mục, quan hệ giữa các phần trong văn bản, các từ ngữ then chốt được lặp đi lặp lại.
b. Phải tóm tắt văn bản tự sự vì: Tóm tắt văn bản tự sự giúp người đọc nắm được ngắn gọn, nhanh chóng nội dung chính của tác phẩm tự sự được tóm tắt so với văn bản gốc.
– Muốn tóm tắt văn bản tự sự cần phải:
+ Đọc lại toàn bộ tác phẩm, nắm được ý tưởng nội dung của tác giả
+ Lựa chọn những nội dung chính cần ghi lại
+ Sắp xếp hợp lý nội dung chính theo trình tự hợp lý
+ Diễn đạt bằng lời văn của mình những nội dung đã xác định
c. Tác dụng của yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự: Yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự giúp sự việc được thể hiện cụ thể, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét, làm cho việc kể chuyện thêm sinh động, sâu sắc hơn, đồng thời thể hiện được thái độ, tình cảm của người kể.
d. Khi viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cần chú ý:
● Yếu tố tự sự là chính, cần lập dàn ý theo nội dung tự sự, khi viết phải luôn bám sát dàn ý đó.
● Các yếu tố miêu tả và biểu cảm chỉ có ý nghĩa bổ trợ, làm bài văn thêm sinh động, tránh lạm dụng một cách tùy tiện.
e. Văn thuyết minh có lợi ích trong cuộc sống như sau:
Văn bản thuyết minh cung cấp các tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân…của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội con người .
Ví dụ: Văn bản thuyết minh về hoa sen sẽ cho chúng ta biết được đặc điểm, hình dáng của hoa cũng như công dụng của nó trong cuộc sống của con người.
g. Muốn viết văn bản thuyết minh, cần thực hiện các bước:
+ Quan sát, tìm hiểu sự vật, hiện tượng
+ Nắm được đặc trưng, bản chất của sự vật đó
+ Trình bày, thuyết minh một cách rõ ràng làm nổi bật đặc điểm, tính chất, chức năng, tác dụng và mối quan hệ giữa đối tượng được thuyết minh với đời sống con người.
h. Để thuyết minh sự vật, có rất nhiều phương pháp kết hợp như: nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê, dùng số liệu so sánh, đối chiếu, phân tích, phân loại, nêu ví dụ,…
i. Luận điểm trong bài văn nghị luận là ý kiến thể hiện tư tưởng quan điểm của bài văn, được nêu ra dưới hình thức khẳng định hoặc phủ định, là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn thành một khối.
k. Sự kết hợp các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm trong bài văn nghị luận giúp bài cho việc trình bày các luận cứ trong văn bản được rõ ràng, cụ thể, có hiệu quả thuyết phục cao vì tác động tới cảm xúc của người nghe.
l. Văn bản tường trình và văn bản thông báo cần đảm bảo những yêu cầu về hình thức, nội dung như sau:
● Về hình thức: phải tuân theo thể thức, trình bày đầy đủ, chính xác thời gian, địa điểm, sự việc, họ tên những người có liên quan cùng đề nghị của người viết, có đầy đủ họ tên người gửi, người nhận, địa điểm.
● Về nội dung: trình bày rõ về sự việc, thiệt hại hay mức độ trách nhiệm của người người có liên quan đến sự việc
Yêu cầu của văn thông báo:
● Về hình thức: phải tuân thủ các thể thức hành chính, có ghi tên cơ quan, số công văn, quốc hiệu, tiêu ngữ, tên văn bản, ngày tháng, người nhận, người thông báo, chức vụ người thông báo thì văn bản mới có hiệu lực.
● Về nội dung: phải cho biết rõ ai thông báo, thông báo cho ai, nội dung công việc, quy định, thời gian, địa điểm cụ thể, chính xác.
C
C. Hoạt động luyện tập
1. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Từ hình tượng nhân vật Đôn – ki – hô – tê trong đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió, em rút ra kinh nghiệm gì về việc đọc sách?
tra loi
Trả lời:
Qua nhân vật Đôn – ki – hô – tê trong đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió, ta có thể rút ra cho mình kinh nghiệm:
Đầu tiên là cần phải chọn sách tốt để đọc. Khi đọc sách cần có sự chọn lọc thông tin, tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, gắn liền với thực tiễn, đùng để bản thân đắm chìm vào trong những trang sách đến mức mê muội, hoang tưởng.
2. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Em học được điều gì ở cách hành văn của Ru – xô trong đoạn trích Đi bộ ngao du?
tra loi
Trả lời:
Ở tác phẩm Đi bộ ngao du, cách hành văn của tác giả rất từ tốn, hồn nhiên, thoati mái, không có gì nặng nề, áp đặt. Giọng văn đặc biệt này khiến “Đi bộ ngao du” tựa như một cuộc đàm đạo, một thiên phiếm luận vậy.
Mở đầu văn bản là một phát hiện bất ngờ, khái quát rồi sau đó đến những luận điểm chứng minh. Mà sự chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống “nói chơi” nửa thực, nửa đùa. Chính từ giọng điệu độc đáo ấy đã tạo nên sức thuyết phục đặc biệt cho văn bản.
3. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Phân tích tính thống nhất của văn bản thể hiện qua đoạn trích Hai cây phong và Đi bộ ngao du.
tra loi
Trả lời:
– Tính thống nhất của văn bản qua đoạn trích Hai cây phong:
– Chủ đề văn bản: Hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người họa sĩ làng Ku- ku –rêu.
– Nhan đề “Hai cây phong” của văn bản cũng thể hiện chủ đề đó.
– Tất cả những nội dung, các phần của văn bản đều tập trung thể hiện chủ đề đó. Nhiều câu văn nói về hình ảnh hai cây phong:
+ “Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi… Cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. “
+ “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”.
+ “Hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”
+ “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”
+ …
Hai cây phong được quan sát, miêu tả tỉ mỉ, sinh động bằng đôi mắt họa sĩ, đôi tai nhạc sĩ và trái tim của nhà thơ. Toàn bộ văn bẳn đều toát lên tình yêu sâu sắc của người họa sĩ về quê hương, về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người ”…
4. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Viết một bài văn thuyết minh giới thiệu về phần văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
tra loi
Trả lời:
Mở bài: Giới thiệu về chương trình Ngữ văn lớp 8 và phần văn học nước ngoài trong chương trình.
Thân bài:
– Giới thiệu cụ thể về tên văn bản và tác giả của những tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm: Cô bé bán diêm (Đan Mạch, An-đéc- xen), Chiếc lá cuối cùng (Mĩ, O Hen- ri), Đánh nhau với cối xay gió (Tây Ban Nha, trích “Đôn ki -hô- tê”, Xéc- van- tét), Hai cây phong (Cư-rơ-gư-xtan thuộc Liên Xô trước đây, trích “Người thầy đầu tiên”, Ai- ma- tốp.)
– Trình bày cụ thể về tác giả, thể loại, hoàn cảnh sáng tác, nội dung, nghệ thuật của từng tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn 8:
+ Cô bé bán diêm:
● Tác giả An- đéc- xen: An-đéc-xen sinh năm 1805 và mất năm 1875 – là một nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với những loại truyện cổ tích viết cho trẻ em.
● Thể loại: Truyện ngắn
● Nội dung: Khơi gợi lòng thương cảm đối với những em bé bất hạnh, thắp lên ngọn lửa của tình yêu thương và lòng nhân hậu.
● Nghệ thuật: Nghệ thuật kể chuyện, cách tổ chức các yếu tố mộng tưởng và hiện thực trong tác phẩm.
+ Chiếc lá cuối cùng:
● Tác giả O-Hen-ri: O Hen-ri (1862 – 1910) là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Nhiều truyện của ông đã để lại trong bạn đọc những ấn tượng sâu sắc như: Căn gác xép, Tên cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ,…
● Thể loaị: Truyện ngắn
● Nội dung: Ca ngợi tình yêu thương cao cả của những con người nghèo khổ với nhau. Sức mạnh của tình yêu cuộc sống đã chiến thắng bệnh tật. Sức mạnh và giá trị của nghệ thuật chân chính.
● Nghệ thuật: Kết cấu truyện đảo ngược tình huống hai lần.
● Xây dựng tình tiết truyện hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và khéo léo, gây hứng thú cho người đọc.
+ Hai cây phong:
● Tác giả Ai – ma – top: Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây.Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan.
● Thể loại: Tiểu thuyết
● Nội dung: Câu chuyện mang đến cho độc giả nhiều cảm xúc với tình yêu quê hương da diết qua hình tượng hai cây phong và người thầy, người đã chắp cánh cho những ước mơ của lũ học trò nhỏ.
● Nghệ thuật: Thứ tự kể đan xen giữa quá khứ và hiện tại, cách kể chuyện khéo léo, tinh tế, kết hợp hài hòa giữa các yếu tố miêu tả và biểu cảm.
+ Đánh nhau với cối xay gió:
● Thể loại: Tiểu thuyết
● Nội dung: Kể câu chuyện về sự thất bại của Đôn- ki –hô-tê đánh nhau với cối xay gió, nhà văn chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, hão huyền, phê phán thói thực dụng thiển cận của con người trong đời sống xã hội
● Nghệ thuật: Nghệ thuật kể chuyện tô đậm sự tương phản giữa hai hình tượng nhân vật
● Có giọng điệu phê phán, hài hước.
Kết bài: Khái quát và đánh giá chung về phần văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ Văn 8.
5. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Lập dàn ý cho một bài văn nghị luận về một tác phẩm/ đoạn trích văn học nước ngoài đã được học trong chương trình.
tra loi
Trả lời:
+ Dàn ý khái quát:
Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Hai cây phong
Thân bài:
– Đoạn trích cảm động về tình cảm thầy trò
– Nghệ thuật miêu tả gây sức hút đặc biệt, tạo nên tính hội họa cho tác phẩm.
– Cách kể chuyện sinh động và giàu xúc cảm.
Kết bài: Khẳng định giá trị của truyện
6. (trang 107, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Từ dàn ý đã lập, chọn một luận điểm để viết thành đoạn văn nghị luận trong đó có sử dụng các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm.
tra loi
Trả lời:
+ Bài làm tham khảo
Ai-ma-tốp là một nhà văn nước cộng hòa vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho thời kì bấy giờ. Ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Những tác phẩm của ông được rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết đến trong đó phải kể đến tác phẩm “hai cây phong”là một trong những tác phẩm rất suất sắc của ông. Tác phẩm được trích trong “người thầy đầu tiên”,trong đoạn trích truyện hai cây phong được miêu tả một cách sinh động với ngòi bút đậm chất hội họa.
Trước tiên tác phẩm đặc biệt ở cách kể và ngôi kể trong chuyện nhân vật chúng tôi song song đồng hiện với nhân vật tôi cùng tâm sự chia sẻ những suy nghĩ cảm xúc với người đọc. Do đó ngôn từ hình ảnh chấp chới lúc ẩn lúc hiện lúc thực lúc mơ rất thú vị. Hình ảnh hai cây phong hiện lên những trò chơi ngày bé được hiện lại những suy nghĩ sây lắng những cảm xúc dạt dào cứ ngân lên theo mỗi câu chữ. Câu chuyện kể về tôi thì lúc ở hiện tại còn lúc chuyện kể với ngôi chúng tôi thì chỉ ở quá khứ. Hai mạch kể ít nhiều phân biệt và trùng vào nhau. Nhân vật xưng tôi đóng vai trò là người kể chuyện được tác giả tạo ra để dẫn dắt câu chuyện. Trong mạch kể chuyện nhân vật xưng tôi tự giới thiệu mình là họa sĩ. Trong mạch kể chuyện nhân vật xưng chúng tôi vẫn là người kể chuyện nhưng lại xưng danh là bọn con trai ngày trước và hồi ấy người kể chuyện cũng là một đứa trẻ trong đó. Căn cứ vào mạch kể chuyện ta thấy ngôi nhân vật xưng tôi quan trọng hơn và được tác giả gửi gắm nhiều những tâm sự hơn.
Hình ảnh so sánh hai cây phong được so sánh với ngọn hải đăng trên núi cho ta thấy được dường như ánh sáng của quê hương và những hồi ức những trải nghiện trên quê hương đã soi sáng bước chân những đứa trẻ nơi đây để chúng tự tin bước đi trên chính bước chân của chúng đến những miền đất xa lạ và trong số đó chắc hẳn có nhân vật chính của tác giả hay chính là tác giả. Hai cây phong lớn lên như những ngọn đèn hải đăng trên núi từng gây ấn tượng đối với bất kì ai. Với họa sĩ tình yêu quê hương đã chan hòa gắn bó tình thương nhớ hai cây phong đầu làng. Mỗi lần về thăm quê nhà thì họa sĩ đã đưa mắt nhìn hai cây phong quen thuộc và coi đó chính là bổn phận đầu tiên của mình. Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nỗi nhớ với một nỗi buồn da diết nên càng về tới gần nhà lại càng nhớ. Đứa con ấy thầm tự hỏi lòng mình “ta sắp được thấy chúng chưa,hai cây phong sinh đôi ấy?Mong sao cho nhanh được về tới làng chóng lên tới đồi để được đến với hai cậy phong. Và niềm hạnh phúc biết bao nhiêu đối với đứa con lâu ngày mới được trở về được đứng mãi ở dưới gốc cây để được nghe thấy tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất. Đúng là một mối quan hệ khăng khít của tác giả đối với quê hương đối với tuổi thơ mình. Dường như đó cũng là điều mà tác giả muốn nhắn nhủ đối với tất cả chúng ta hãy nhớ đến quê hương nhớ đến tuổi thơ mình bởi đó chính là nền tảng để tạo nên chúng ta ngày hôm nay.
Hai cây phong mọc trên đồi với dáng vóc khổng lồ với các mắt mấu các cành cao ngất cao đến ngang tầm cánh chim bay với bóng râm mát rượi với dáng vẻ đung đưa như đang chào mới tất cả mọi người đến với nó. Phải chăng chính dáng vẻ chào mời ấy đã khiến cho tác giả có nhiều kỉ niệm đối với nó như thế. Bức tranh thiên nhiên được tác giả ngắm nhìn từ trên cao tạo ra cho người đọc cảm thấy không gian được mở rộng đến muôn vùng xa thẳm thảo nguyên hoang vu và cả dòng sông lấp lánh như đang hiện lên trước mắt người đọc khiến ta như đang hòa chung cùng một cảm xúc đối với tác giả. Bức tranh mà tác giả gợi cho người đọc thật ấn tượng đầy đặc trưng và quyến rũ đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều những ấn tượng khó quên.
Hai cây phong đã làm cho người kể chuyện say sưa ngây ngất và khơi nguồn cảm hứng cho người kể chuyện. Hai cây phong gắn với tình yêu quê hương da diết của tác giả khiến cho người đọc cảm thấy thật đáng quý và trân trọng những kỉ niệm tuổi thơ mà đôi lần chúng ta đã vội lãng quên. Tác phẩm gợi cho chúng ta những kỉ niệm ấy và từ khi nào nó bỗng hiện lên một cách vô thức khi ta đọc những kỉ niệm đáng nhớ của nhà văn. Hai cây phong đối với tác giả đó chính là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ của tuổi học trò ,tuy đã là quá khứ đã xa thật xa nhưng mỗi khi hồi tưởng lại nó dường như tác giả đang cảm nhận nó một chút một chút một và đưa người đọc cùng cảm nhận cùng hồi tưởng lại với nhà thơ. Hai cây phong chính là nhân chứng câu chuyện hết sức sinh động về thầy Đuy-sen và cô bé An-t –nai. Chính thầy đã đem hai cây phong trồng trên đồi với cô bé đó và thầy đã gửi gắm những hi vọng mơ ước cho những đứa trẻ nghèo khổ thất học như An-tư-nai ngày càng được mở mang kiến thức và trở thành những con người có ích. Hình ảnh nhân hóa hai cây phong có tiếng nói riêng và chan chứa những lời nói êm dịu, hai cây phong chính là những con người có tâm hồn với những tâm trạng những cung bậc cảm xúc khác nhau. Hai cây phong được kể và tả bằng chính trí tưởng tượng và những tâm trạng đan xen của người nghệ sĩ.
Tác phẩm đã mang đến cho người đọc thật nhiều tâm trạng và dạt dào cảm xúc về quê hương. Quê hương chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn lớn lên và đó còn là nền tảng để con người có thể đứng lên trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là cảm xúc lòng biết ơn của người họa sĩ đối với quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tác phẩm như một lời thức tỉnh đối với chúng ta cho chúng ta những cảm nhận thật gần gũi về quê hương.
More