Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây
I. Đôi nét về tác phẩm Tam đại con gà
1. Xuất xứ
Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán thầy đồ dốt nát.
2. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “mời đón về dạy trẻ”): Giới thiệu mâu thuẫn trái tự nhiên
– Phần 2 (còn lại): Các tình huống mâu thuẫn gây cười
3. Tóm tắt
Xưa có anh học trò học hành dốt nát nhưng lại hay khoe chữ. Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ. Một hôm, dạy đến chữ “kê”, học trò hỏi mà không biết, đánh nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Thầy sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, dặn học trò đọc khẽ và đến bàn thờ thổ công xin ba đài âm dương. Xin ba đài được cả ba, thầy lấy làm đắc chí, hôm sau bảo trẻ đọc to lên. Người bố nghe được, phát hiện ra, thầy liền chống chế bằng cách lí sự cùn: dạy thế là để biết đến tam đại con gà.
4. Giá trị nội dung
– Từ tình huống mẫu thuẫn trái tự nhiên, truyện bật lên tiếng cười phê phán thói dấu dốt – một thói xấu trong nội bộ nhân dân
– Qua đó, khuyên mọi người không nên dấu dốt mà phải không ngừng học hỏi
5. Giá trị nghệ thuật
– Xây dựng các mâu thuẫn và đẩy các mâu thuẫn đó lên đến đỉnh điểm trong những tình huống kịch tính, giải quyết bất ngờ, hợp lí.
– Ngôn ngữ giản dị, có cả vần và nhịp.
– Sử dụng nhiều yếu tố gây cười khác nhau: hành động, cử chỉ, câu nói…có tác dụng gây cười.
II. Dàn ý phân tích Tam đại con gà
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về thể loại truyện cười: Truyện cười là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái với tự nhiên trong cuộc sống nhằm giải trí, phê phán.
– Giới thiệu khái quát về truyện Tam đại con gà: Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán thầy đồ dốt nát.
II. Thân bài:
1. Cách giới thiệu nhân vật và mâu thuẫn trái tự nhiên:
– Giới thiệu nhân vật chính – anh học trò dốt nát nhưng thích khoe chữ, “đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”
– Có người mời anh ta về dạy trẻ
→ Mâu thuẫn trái tự nhiên: dốt nhưng dấu dốt, thích khoe chữ.
2. Tình huống mâu thuẫn gây cười
– Tình huống 1:
+ Gặp chữ “kê”, thấy mặt chữ nhiều, không biết chữ gì, học trò hỏi gấp, thầy nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”
+ Sợ sai, bảo học trò đọc khẽ
+ Thầy khấn thầm xin ba đài âm ở bàn thờ thổ công
+ Thổ công cho ba đài âm, thầy lấy làm đắc chí, hôm sau ngồi bệ vệ trên giường, bảo trẻ đọc cho to.
→ Thầy đồ vừa dốt vừa mê tín, lừa bịp trẻ con. Tiếng cười bật ra từ chính sự ngu dốt, sĩ diện, thích khoe khoang của thầy đồ. Đồng thời, qua đó phên phán sự dốt nát của thầy đồ.
– Tình huống 2:
+ Khi bị bố học trò phát hiện, chất vấn, suy nghĩ của thầy đồ: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”
→ Lời tự nhủ hài hước, biết mình dốt nhưng không chịu thừa nhận.
+ Lời ngụy biện của thầy: Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà, “Dù dì là chị con công, con công là ông con gà” để gỡ bí, lí sự cùn.
→ Tiếng cười bật lên từ sự vô lí, láu cá của thầy đồ.
⇒ Thầy đồ bộc lộ rõ bản chất là một kẻ dốt nát nhưng thích giấu dốt, thích khoe khoang, láu cá, sĩ diện.
3. Ý nghĩa tiếng cười
– Phê phán những kẻ dốt nát nhưng lại dấu dốt, thích khoe khoang
– Phê phán thực trạng xã hội: dốt nát lại làm thầy
– Khuyên nhủ mọi người không nên dấu dốt mà phải không ngừng học hỏi
4. Nghệ thuật
– Xây dựng các mâu thuẫn và đẩy các mâu thuẫn đó lên đến đỉnh điểm trong những tình huống kịch tính, giải quyết bất ngờ, hợp lí.
– Ngôn ngữ giản dị, có cả vần và nhịp.
– Sử dụng nhiều yếu tố gây cười khác nhau: hành động, cử chỉ, câu nói…có tác dụng gây cười.
III. Kết bài
– Khát quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật
– Bài học rút ra cho bản thân: Truyện vừa đem lại tiếng cười giải trí cho con người, đồng thời mang lại bài học sâu sắc, mỗi người phải không ngừng học hỏi để nâng cao hiểu biết của mình, không được dấu dốt, sĩ diện.