Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Cực Ngắn)
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao
Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bài văn mẫu
Nếu như Nguyễn Du được xem là đại thi hào không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới thì Truyện kiều là kiệt tác làm nên tên tuổi đó của ông. Lật dở từng trang Truyện Kiều, người đọc như có cảm giác đang chứng kiến cuộc đời đầy đau thương, mát mát của thân phận nàng Kiều. Đoạn trích “Nỗi thương mình” như cứa vào long người những vết thương sâu khi Thúy Kiều rơi vào cảnh khốn cùng, bi đát.
“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều mắc lừa Sở Khanh và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Bằng niềm xót thương vô hạn cho nhân vật của mình, Nguyễn Du như nhỏ máu trên từng trang viết khi kể về cuộc đời Thúy Kiều. Những câu thơ mở đầu vén màn cho cuộc sống chốn lầu xanh phong trần, nhiều nhơ nhớp mà Thúy Kiều phải chịu đựng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Những hình ảnh mang tính chất ước lệ “Bướm lả ong lơi” “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm…đã khiến người đọc liên tưởng đến khung cảnh nhộn nhịp, không thiếu vắng tiếng cười đùa, giỡn chơi với nhau. Một nơi “mua người bán người” như bao phủ lấy đoạn thơ, bao phủ lấy thân phận bé nhỏ của người con gái ấy. Đặc biệt hai điển cố Tống Ngọc và Trường Khanh để chỉ những khách làng chơi không bao giờ thiếu thốn ở những nơi như thế này. CUộc sống tưởng chừng như vui vẻ, tràn ngập tiếng cười như vậy nhưng lại là ngục tù đày đọa thân xác của Thúy Kiều.
Thả mình vào không gian như thế này, Thúy Kiều đau đớn và xót xa:
Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Trong không khí như thế này thì “rượu” chính là thứ để Thúy Kiều mượn tạm để giải sầu cho khuây khỏa, cho đỡ buồn chán và tẻ nhạt. Những lúc rượu tỉnh và đêm đã khuya thì nàng mới “giật mình” “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du một lần nữa lại gieo vào long người nỗi xót xa vô hạn. Thương cho phận người con gái long đong, thương cho số phận bạc bẽo nương nhờ chốn phong trần.
Thúy Kiều đã có những tháng năm đày đọa thân xác nơi chốn nhơ nhuốc, dơ bẩn này:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bất thân
Không ai thương cho phận mình nên Thúy Kiều tự ôm lấy mình mà khóc, mà sầu, mà đau. Cuộc vui chóng tàn, người rồi cũng đi, cô đơn bóng lẻ. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh « hoa tàn » để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập không thương xót của người con gái mỏng manh này. Một xã hội nhơ nhớp, chỉ toàn những điều xấu xa, con người yếu đuối thường rất dễ bị vùi dập và chà đạp như vậy.
Khung cảnh lạnh lẽo, cô đơn ấy khiến cho THúy Kiều tưởng chừng như mình đã chết :
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngâm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa
Giữa chốn lầu xanh dơ bẩn như thế này Thúy Kiều chỉ biết làm ạn với thơ, với họa, với đàn. NHưng nó lại khiến cho người con gái mỏng manh ấy cô đơn, xót xa. Nàng không còn cảm thấy đam mê là nguồn sống nữa. Nỗi buồn bao phủ lấy cả cảnh vật nơi đây khiến cho cảnh cũng có tình, cũng biết buồn, biết gieo nỗi sầu như chính con người vậy.
Với biện pháp tả cảnh ngụ tình rất tinh tế và điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa tâm trạng nhân vật Kiều một cách chân thực và rõ nét nhất. Nỗi buồn chồng chất nỗi buồn khiến cho người con gái ấy tưởng chừng như gục ngã.
Sống giữa chốn lầu xanh, Thúy Kiều phải gồng mình để sống, cố gắng để sống mà như đã chết:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Niềm vui với Thúy Kiều không hề trọn vẹn, chỉ là “gượng” để cho người ta thấy, cho người ta biết nhưng thực ra trong lòng lại không “mặn mà với ai”.
Như vậy, chỉ với một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Du đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc khi người con gái tài sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào bế tắc và khốn cùng như vậy.
Thúy Kiều đã lấy đi không ít nước mắt của người đọc và lấy đi không ít tâm huyết và tình yêu thương của Nguyễn Du.
Bài văn mẫu
Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí ý vững bền, tâm hổn mạnh bạo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn Du. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội. Với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là nhân vật Thúy Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. Đoạn trích Thuý Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Thuý Kiều đành nhận lời tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích Nỗi thương mình nằm ở vị trí từ câu 1229 đến 1240. Tái hiện cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thuý Kiều sau khi tỉnh giấc thấy xót thương mình.
Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến vì đông người nên giá mua vui càng cao.
Hai câu tiếp theo của đoạn trích:
Biết bao bướm lả ong lơi
…Dập dìu lá gió cành chim.
Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước… tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng. Đây chính là cách dùng ngôn ngữđộc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi.
Bướm lả – ong lơi
Lá gió – cành chim
Cảnh sinh hoạt ở một ổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng khá đặc biệt, xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ một chủ thể, một vị thể được tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ mà vô cùng trác tán.
Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp mà ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả.
Khi tỉnh rượu cũng là lúc đã tàn canh. Hay đúng hơn cũng là lúc cuộc chơi đã hết. Kiều tỉnh giấc và thương mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Câu thơ này đã đưa nàng Kiều từ phận gái lầu xanh trở về với con người nàng Kiều đích thực.
Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng minh nhất, tự ý thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay về bản thân mình. Và đôi khi đã ý thức được hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, và lúc này đây sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp ở nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi có tới ba chữ mình nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn cảnh của mình, bản thân mình, không ai có thể thấu hiểu bản thân mình bằng mình trong lúc này. Chữ mình thứ hai này nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời Kiều tự nói với mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình và cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa có độ sâu làm lay động lòng người.
Sau khi giật mình và tự thương mình Kiều luôn sống trong tâm trạng buồn thương:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa sở, mây
Tần Những mình nào biết cố xuân là gì?
Tâm trạng của Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đau đớn của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất, tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đấy.
Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực. Trước là cuộc sống êm đềm hạnh phúc, tinh khôi… giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị dùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bi lìa khỏi cội. Cuộc sống thật phũ phàng, cuộc đời thô bỉ, với cảnh tượng dày vò, mua đi bán lại:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Ở câu thơ này không đơn thuần chỉ là sự so sánh hai từ sao đặt liền nhau câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt. Một con người, hai thân phận, cộng lại là nỗi chua xót đắng cay, tủi thân đến vô bờ:
Mặt sao dày gió dạn xương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đày mặt dày gió dạn xương. Nàng nhớ đến những, bướm lả ong lơi mà cay đắng tủi nhục, khôn cùng.
Trong đoạn trích Nỗi thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích là miêu tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp xã hội để giao tiếp với nội tâm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình. Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thìa. Một con người có ý thức sau xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa bỏ được ý thức ấy cho dù ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.