Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Cực Ngắn)
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao
Đề bài: Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bài văn mẫu
Nhân lần du xuân dự lễ tảo mộ, vui hội đạp thanh cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan, Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên. Dù mới gặp nhau lần đầu nhưng cả hai đều cảm nhận về nhau:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
Về nhà, Thúy Kiều cứ suy nghĩ vẩn vơ, nằm mộng thấy họa thơ cùng Đạm Tiên và được nàng báo tin chẳng lành. Còn Kim Trọng thì cứ ra ngẩn vào ngơ. Chàng tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Thúy Kiều, và ngày đêm mong được nhìn thấy nàng. Một ngày đẹp trời, Kim Trọng nhặt được cành hoa của Kiều vô ý đánh rơi. Hai người gặp gỡ và hứa hẹn.
Một hôm, khi cả gia đình sang chơi bên ngoài, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc. Đoạn trích sau đây (từ câu 431 đến câu 452) miêu tả về cảnh ấy, một cảnh tình yêu lãng mạn, đẹp nhất mà nhà thơ đã dụng tài để giới thiệu tính cách của nhân vật Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu nhà thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều qua nhà Kim Trọng lần thứ hai. Chỉ mới đây thôi, nhân
Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Hai người đã cùng xướng họa thơ văn, cùng đối đáp, tâm sự. Kiều thì lo phận minh “bạc mệnh”. Kim Trọng thì lạc quan, tin vào lẽ “nhân định thắng thiên”, và hứa “thì đem vàng đá mà liều với thân”. Được nghe những lời ấy từ Kim Trọng, Kiều cảm thấy “lòng xuân phơi phới”. Có lẽ đang trong tâm trạng ấy, khi về nhà và không thấy ai thì Kiều đã vội vàng.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Tất nhiên cảnh đêm trăng ắt hẳn là đẹp, nhưng chủ ý của Kiều đâu phải là ngắm trăng. Cứ tưởng tượng hình ảnh “xăm xăm băng lối” là có thể cảm nhận tâm trạng náo nức, không muốn bỏ phí thời gian thực hiện mong muốn của mình.
Trong lúc đó thì:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Mỏi mệt vì bao ngày mong mỏi, đợi chờ hay lâng lâng sung sướng vì không hẹn mà gặp? Được nhìn tận mắt, nghe tận tai con người và giọng nói của Kiều khiến tâm hồn Kim Trọng như lên chín tầng mây? Có lẽ có cả hai tâm trạng ấy trong hai câu thơ trên. Hình ảnh một Nho sinh vừa tiễn người mà chàng thầm yêu trộm nhớ ẩn trong cụm từ “tựa án thiu thiu” có vẻ mặt vừa “như tỉnh” vừa “như mê” quả thật khó có họa sĩ nào vẽ được. Đang trong tâm trạng đó thì Kim Trọng lại nghe “tiếng sen”, rồi lại thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ thì là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang bước tới. Lúc ấy, nhà thơ miêu tả Kim Trọng mang tâm trạng như vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc.
Từ những câu thơ miêu tả như đã phân tích, nhà thơ chuyển qua hình thức đối thoại khi Kiều và Kim đối diện nhau. Kiều mở lời:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Một lời trần tình về quan niệm sống của Kiều: Chủ động trong tình yêu và trân trọng nó trong hiện thực. Quan niệm của Kiều về tình yêu khác hẳn quan niệm truyền thống đối với phụ nữ thời xưa: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Đạo lí Nho gia đã dạy họ, trong đó có Kiều là tại gia tòng phụ cơ mà! Sở dĩ Kiều phá vỡ sự áp đặt của luân lí Nho giáo dành cho nữ giới có lẽ do Kiều đã cảm nhận được tình yêu chân thực của Kim Trọng, và đặt niềm tin vào con người hào hoa phong nhã này mới chủ động để “rõ mặt đôi ta”.
Được lời như cởi tấm lòng, Kim Trọng rước Kiều vào thư phòng, nhanh chóng thêm đèn cho sáng, đốt thêm trầm để tăng hương thơm. Bấy giờ mới lấy tờ giấy hoa viết lời thề, lấy dao quý cắt tóc chia làm hai phần đặt lên án thư. Tưởng tượng ra hình ảnh ấy từ mấy câu thơ, người đọc đã thấy khung cảnh trang nghiêm mà ấm cúng. Cả hai cùng quỳ xuống, cùng hướng nhìn trời cao…
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Cách tạo niềm tin về tình yêu của đôi trai tài gái sắc đã tạo nên cảnh thật nên thơ và lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Cả hai đều để tâm trí cùa minh (đinh ninh) vào lời thề. Họ như đôi song ca mà bài hát là lời thề chung thủy và người chứng giám là trời đất, “Vừng trăng”. Bốn câu thơ với những từ láy vằng vặc, đinh ninh, từ lặp song song tạo thành đôi như đôi trai tài gái sắc Kiều – Kim đang nguyện thề “tạc một chữ đồng đến xương”.
Có lẽ vì nặng với lời thề ấy mà sau này, khi quyết định bán mình để chuộc cha và em trai, nhất là trong đêm nhờ cậy Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà gắn bó với Kim Trọng thì Kiều luôn nghĩ đến cái chết nghĩ đến “thịt nát xương mòn…, người thác oan, rồi chết ngất sau khi thốt lên lời đau thương tạ lỗi cùng Kim Trọng. Sự nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều là như thế, là không quên lời thề, nhận phần lỗi về mình và tạo hạnh phúc cho người còn sống.
Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tính cách của Kiều, nhân vật chính thì chủ động dứt khoát và chân thật đã phá vỡ tính thụ động của thanh nữ thời xưa về tình yêu đôi lứa do lể giáo Nho gia áp đặt. Dù vậy, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn trong sáng, đậm đà. Điều ấy đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn của Truyện Kiều.
Đề bài: Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du để làm sáng tỏ quan điểm: Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Bài văn mẫu
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thúy Kiều: “Khi lại lắng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi…” Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ của người phu nữ dưới chế độ phong kiến; gia đình li tán, tình yêu tan vỡ, làm gái thanh lâu, làm nô tì, làm vợ lẽ, tu hành bất đắc chí, và rồi cuộc đời hầu hết không chồng, không con giữa 30 tuổi xuân.
Nhân vật Nguyễn Du là một con người luôn luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, nhưng đồng thời, luôn luôn hướng tới ánh sáng của hạnh phúc, Thúy Kiều chỉ từ bỏ thiên hướng này khi cuộc sống phủ định nguyện vọng của nàng.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch này quán xuyến nội dung tác phẩm: khắp Truyện Kiều phảng phất không khí buồn; quán xuyết kết cấu tác phẩm: trong hệ thống “Hội ngộ – Tai biến – Đoàn tụ” Nguyễn Du dành phần lớn tác phẩm để viết về quãng đời “Tai biến” của Kiều và trong toàn bộ tác phẩm, kể cả những giây phút đính ước, tình tự của phần “Hội ngộ”, hay trở về với người yêu trong phần “Đoàn tụ”, hạnh phúc của nàng không bao giờ trọn vẹn; quán xuyến hình tượng nhân vật: Thúy Kiều luôn luôn sống trong tâm trạng bi kịch.
Nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng chỉ để “đem bán vào thuyền lái buôn”. Sự chà đạp lên tài hoa, nhan sắc con người là một tội ác của chế độ phong kiến, nhưng nếu quan niệm mâu thuẫn chủ yếu trong Truyện Kiều là mâu thuẫn giữa trí đức và tài năng với chế độ như ý kiến sau đây: “Mâu thuẫn giữa chế độ xã hội bất công với tài năng của con người là một mâu thuẫn tuyệt đối… Nguyễn Du đã diễn tả mâu thuẫn đó một cách hệ thống từ mở đầu Truyện Kiều cho đến cuối”…. “bao giờ còn chế độ xã hội bất công, nhất là ở giai đoạn suy vong của chế độ này, tài hoa chỉ là một mối hận hết sức thê thảm. Đó là cảm hứng chủ đạo nhất, sâu sắc nhất, bi thiết nhất của Nguyễn Du”… có lẽ cũng có phần cần bàn bạc.
Bởi vì nổi bật trên tất cả kiến đoạn trường và nỗi đoạn trường là sự chà đạp lên hạnh phúc tình yêu và ước mơ công lí của người phụ nữ nhan sắc, tài hoa, đa sầu, đa cảm và hết sức vị tha này. Nói một cách khác, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng trình bày, miêu tả mâu thuẫn sâu sắc giữa khát vọng hạnh phúc của con người bị áp bức với những thế lực xấu xa, tàn bạo của chế độ phong kiến.
“Giữa đường đứt gánh tương tư” – vì hạnh phúc gia đình, vì vận mệnh cha và em, Kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân. Đó là lí tưởng đạo đức và cũng là một phương diện hạnh phúc của đời nàng (Cõi xuân tuổi hạc càng cao – Một vai gánh vác biết bao nhiêu cành… Thà ràng liều một thân con – Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây) nhưng vì đây chỉ là một phương diện của hạnh phúc iẻn Kiều tiếp tục đi vào một bi kịch khác. Thúy Kiều, con người của một thời lại đã có ý thức sâu sắc hơn, phong phú hơn về đau khổ cũng như về khát vọng của mình, không thể đơn giản chấp nhận chỉ một phương diện nào của hạnh phúc. Ngoài hạnh phúc gia đình, nàng còn sống với khát khao tình yêu tuổi trẻ. Ngoài tình thương cha mẹ, hai em, còn tình yêu với chàng Kim. Vì giữa cái tuổi mười sáu, với một nhan sắc khuynh thành, một tài hoa rực rỡ, một trái tim nồng nàn, nàng đã gặp Kim Trọng – chàng trai “phong tư tài mạo tuyệt vời”… Nói một cách khác, Thúy Kiều đã đối diện hạnh phúc. “Kể từ khi gặp chàng Kim” nàng đã sống trong hương vị ngây ngất ngọt ngào của giờ phút “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê” ban đầu, của những sớm chiều tình tự “Đủ điều trung khúc ân cần – Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”, và nhất là buổi hôm kì diệu:
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê…
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng…
Buổi hôm kì diệu với tình yêu đắm đuối nồng nàn:
… Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu…
Làm sao có thể chôn vùi trong tim đang độ sôi nổi mối tình đầu nên thơ sâu sắc ấy! Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc cửa những thiếu nữ gặp ngang trái trong tình duyên xưa kia:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Giống như Nhụy Châu đã nhờ cô thị nữ tin yêu thay mình trả nghĩa Song Tinh khi nàng bị gian thần hãm hại đem đi cống Phiên:
Mai sau chàng có về đây,
Duyên xưa tác hợp cậy mày thể tao.
(Truyện Song Tinh)
Và chữ “nghĩa” theo quan niệm phong kiến kia tưởng đâu sẽ là một bài thuốc hiệu nghiệm:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Nàng vẫn là con người của bi kịch. Là bởi vì như nhiều người bình luận Truyện Kiều đã viết, trong mối quan hệ với chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng đành cho chị chữ “Tình” và cô em chữ “Duyên”:
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Tình duyên ấy, hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chảy trăng cao.
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.
Cũng như các bè bạn cùng thế hệ, Thúy Kiều những mong đem chữ ‘‘Nghĩa” đền đáp người yêu, nhưng tự chiều sâu của đáy lòng, nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy có thể là hạnh phúc trọn vẹn của chàng Kim (Nỗi nàng nhớ đến bao giờ – Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng; nghe tường ngành ngọn tiêu hao – Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ…). Và Kiều nữa, cho dù “Chân trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai’’, chữ “Nghĩa” không hồn không thể giúp nàng “ngậm cười chín suối” như Kiều đã nói với Vân.
Tình gia dinh, nghĩa nàng Vân không thể tiêu diệt hoàn toàn đau khổ. Tan vỡ đột ngột, tàn khốc đối lập với tình yêu sâu xa, mãnh liệt, và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, là cái nền mâu thuẫn chủ yếu của nội tâm nhân vật trong phần mở đầu “Tai biến”. Một cô Kiều, vì hoàn cảnh phải vĩnh viễn chia lìa với người yêu nhưng không từ bỏ, không phủ định khát khao hạnh phúc yêu đương. Và Kiều gắng gượng giải quyết bi kịch trong tâm hồn để rồi rút cục, bất lực không giải quyết nổi.
Mai sau, trong hạnh phúc Kim Trọng, nàng không hiện diện. Nàng ước nguyện.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Nàng sẽ để lại những kỉ vật thân thiết của một quá vãng tươi đẹp. “Ngày xưa” đối với Kim Trọng mai sau mà cũng là “ngày xưa” đối với Kiều hiện tại: hạnh phúc rực rỡ đột ngột tan tành thảm khốc, những giây phút tươi đẹp mới mẻ đã trở thành một ảo ảnh vô cùng xa xôi. Thời gian siêu hiện thực biểu hiện tâm trạng tiếc hận đớn đau ghê gớm trong lòng Thúy Kiều. Trong Truyện Kiều cho dù đó là mấy ngày, hay mười lăm năm trường trôi qua, tất cả đều chỉ là quá vãng xa xăm:
… Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
… Nợ chàng Kim đó là người ngày xưa.
… Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ.
Nhưng kỉ vật đâu phải là con người. Kỉ vật không thể giải quyết niềm thương nỗi nhớ. Và Kiều khao khát trở về gặp mặt người yêu, cho dù ước vọng ây cũng hết sức mong manh:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Trong toàn bộ Truyện Kiều, ngày trở về của người yêu, ngày tái hợp của đôi lứa thanh niên bao giờ cũng chĩ là những tháng năm mong manh vô định biểu hiện dưới dạng thái những từ ngữ phiếm chỉ:
… Trùng phùng dẫu họa có khi,
… Mai sau dù có bao giờ,
… Biết bao giờ lại nối lời nước non.
Ước mơ bao hàm tuyệt vọng. Và sự hiển hiện ấy, nếu có, cũng chỉ là một ảo ảnh, một hạnh phúc siêu hình. Một cuộc trở về mà không có gặp gỡ. Thêm vào dó, một ràng buộc não nùng day dứt:
… Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Một lời thề chưa được giải đáp! Cái hạnh phúc “nguyện ước ba sinh” nhà Phật đưa ra để an ủi xoa dịu con người chính cũng vò xé lòng người trong bi kịch nặng nề, vì đằng sau lời thề của Kim Trọng – Thúy Kiều, thực chất là tình yêu sâu nặng, là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Con đường Thúy Kiều đi không hoàn toàn là con đường của chàng trai trong bài vè cổ về câu chuyện Trương Chi:
Anh Trương Chi khi trờ ra về,
Cắm sào cho chặt hát thề một câu:
“Kiếp này đã dở dang nhau,
Thì xin kiếp khác duyên sau lai thành”.
Kiều chờ đợi một kiếp sau sum họp nhưng làm sao nàng có thế hình dung, có thể khẳng định hạnh phúc kiểu siêu hình ấy một khi nàng đã là người của cõi chết, cách biệt tuyệt đối với người yêu thuở trước:
… Dạ đài cách mặt khuất lời…
Đến đây, Kim Trọng sẽ phải làm như MỊ Nương, rõ một giọt lệ cảm thông trên bóng hình đau khổ của Trương Chi, hay như chàng trai trong Tình sử tuôn châu xuống trái tim uất kết của người yêu đã khuất.
… Rảy xin giọt nước cho người thác oan.
Tình sử và câu chuyện Trương Chi chấm dứt ở đây. Oan hồn Trương Chi hiển hiện trên chén ngọc hay trái tim không tan của người vợ trong Tình dù đã do đồng cảm của người tình mà tiêu tan. Nhưng với Nguyễn Du, với Thúy Kiều, mâu thuẫn không hề được giải quyết. Nàng làm sao thể nghiệm được sự đồng cảm ấy, khi nó chỉ là ảo giác của mai sau… Làm sao Kiều có thể tự ru ngủ trong một giấc mộng mơ hồ, ảo giác như vậy! Và “sức cảm thông lạ lùng của nhà đại thi hào dân tộc” (Hoài Thanh) đối với con người thời đại đã đưa Thúy Kiều quay trở về với hiện tại phũ phàng:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Ở đây là mâu thuẫn giữa mối tình vô hạn sâu sắc và khát vọng hạnh phúc vô hạn mãnh liệt “muôn vàn ái ân”, với một sự đổ vỡ không gì có thể cứu vãn nổi (trâm gãy gương tan, tơ duyên ngắn ngủi, phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi thiếp đã phụ chàng).
Mâu thuẫn không được giải quyết. Bản chất hạnh phúc không tồn tại nơi chữ “Hiếu”, chữ “Nghĩa” theo quan niệm phong kiến! Và những quan niệm hạnh phúc siêu hình (kỉ vật, kiếp sau sum họp, giọt lệ cảm thông) hoàn toàn không thể xoa dịu khổ đau của người thiếu nữ có trái tim nồng nàn sôi nổi như Thúy Kiều.
Có thể nói, tâm trạng Kiều đứng trước mọi đổ vỡ của hạnh phúc, thể hiện sự đấu tranh giữa những quan niệm về hạnh phúc – những quan niệm hạnh phúc của Nho gia. Của Phật giáo và những quan niệm hạnh phúc có màu sắc nhân đạo chủ nghĩa. Thúy Kiều chỉ tìm đến những quan niệm hạnh phúc siêu hình khi hoàn cảnh ràng buộc:
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Và tìm đến nhưng để rồi phủ định, từ bỏ như ở đoạn “Trao duyên”. Cũng như sau này, tâm trạng “sự đời đã tắt lửa lòng”, cách xử lí “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” chẳng qua cũng đều do biến động của hoàn cảnh. Nàng không thể là một sư nữ “chân tu”. Sẽ không bao giờ Thúy Kiều “đắc đạo”.
Nói một cách khác, Thúy Kiều đã được giải phóng khỏi những quan niệm siêu hình, tôn giáo về hạnh phúc. Nhân vật của Nguyễn Du là con người được thức tỉnh, dù chỉ để khổ đau. Thúy Kiều là con người của bi kịch. Hạn chế và giá trị của tính cách nhân vật cũng đều bao hàm trong yếu tố đó.
Bài văn mẫu
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một “đại kiệt tác” của nền văn học trung đại Việt Nam, Truyện Kiều xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn “sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Tuy nhiên, cuộc đời của người con gái tài hoa ấy lại phải trải qua muôn vàn khó khăn, bất hạnh, sóng gió của cuộc đời. Cuộc đời Thúy Kiều toàn những khổ đau, bất trắc. Nhưng, nếu ta theo dõi từ đầu cuộc đời của Kiều, ta có thể thấy Kiều đã từng được hạnh phúc. Đó là khi gặp gỡ Kim Trọng, yêu và được yêu, tình yêu đầu đời của nàng Kiều với chàng Kim cũng đẹp như bao chuyện tình khác. Trong trích đoạn “Thề nguyền”, nhà thơ Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét tình yêu trong sáng mà da diết ấy của hai người.
Sau khi có duyên gặp mặt tại lễ tảo mộ, Kim Trọng đã khắc sâu hình bóng của nàng Kiều trong tim của mình. Vì vậy, Kim Trọng đã thuê một nhà trọ gần nhà của Vương ông, mục đích là có thể tiếp tục gặp gỡ Thúy Kiều. Cuộc gặp mặt vô tình tại lễ tảo mộ không chỉ có Kim Trọng mà Thúy Kiều cũng có sự rung động với chàng Kim thư sinh, anh tuấn. Nhân khi cả nhà về ngoại, Thúy Kiều và Kim Trọng đã lén lút gặp nhau. Khi trở về, biết bố mẹ vẫn chưa trở về, nàng Kiều đã có một quyết định rất táo bạo, đó là vượt tường để sang gặp Kim Trọng lần nữa:
“Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Khi biết bố mẹ và hai em chưa có ai về nhà, Thúy Kiều đã “tranh thủ” quãng thời gian quý giá ấy để đi gặp tình lang. Hành động của nàng Kiều khá chu đáo, nàng buông rèm che để không ai phát hiện ra hành động của mình “vội rủ rèm che”. Hành động sau càng táo bạo hơn nữa, nàng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Ta có thể thấy, trong quan niệm phong kiến xưa, người con gái không được phép tự do yêu đương mà phải theo quy định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Ở đây Thúy Kiều không những phá vỡ quy định ấy mà còn rất chủ động đến với tình yêu một mình. Hành động “xăm xăm” thể hiện những bước chân rất dứt khoát, nhanh nhẹn. Như vậy, Thúy Kiều đã phá vỡ mọi rào cản phong kiến đối với tình yêu nam nữ, thể hiện được khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc chính đáng của mình.
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
Trong đêm tối, nàng Kiều một mình vượt quãng đường ngăn cách để đến với chàng Kim. Có thể thấy “khoảng vắng đêm trường”,thời khắc đêm khuya là giây phút những đôi lứa nhớ nhung về nhau nhất. Với Thúy Kiều cũng vậy, nỗi nhớ chàng Kim đã thôi thúc nàng hành động. “Vì hoa” ở đây ta có thể hiểu là Thúy Kiều đang ám chỉ chàng Kim, một con người tài hoa, nho nhã. “Trổ đường tìm hoa” là hành trình Thúy Kiều “băng lối vườn khuya” để đến gặp tình lang của mình, nàng tranh thủ từng phút giây có thể để ở bên nhau,vì “biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Có lẽ, cuộc gặp gỡ mộ Đạm Tiên đã luôn ám ảnh Thúy Kiều, nàng luôn mơ hồ dự cảm về một tương lai đầy biến cố sẽ đến với con người đầy tài hoa như nàng. Vì vậy, nàng không muốn lãng phí một phút giây nào để sống với cảm xúc, với tình yêu của mình.
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng xế đã hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”
Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động “tiếng sen khẽ động giấc hòe”. Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh “tiếng sen” để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ “khẽ động giấc hòe”. Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh “trăng xế”, “hoa lê”. Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng đầy bâng khuâng. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích “đỉnh giáp non thần”, kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng “giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
“Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen sáp song đào thêm hương”
Trước sự xuất hiện đầy bất ngờ của Thúy Kiều, chàng Kim “vội mừng làm lễ rước vào. Niềm hân hoan, vui mừng không giấu mà thể hiện ra ngay trong nét mặt, hành động đầy trân trọng, chàng Kim cho thêm sáp vào đèn để thắp sáng, làm cho cuộc gặp mặt thêm ý nghĩa, thiêng liêng hơn.
“Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi”
Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đều nghi thức thề nguyền “Tiên thề, cùng thảo một chương”. “Tóc mây” và “dao vàng” là những vật đính ước cho buổi thề nguyền. Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng.
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Trong buổi thề nguyền, “vầng trăng” chính là nhân chứng cho cuộc tình hai người. “Vằng vặc giữa trời” như soi tỏ tấm lòng chân thành, trong sáng mà Thúy Kiều và Kim Trọng giành cho nhau. Không khí lúc thề nguyền cũng hết sức nghiêm túc, chân tình “đinh ninh hai mặt một lời song song” thể hiện sự đồng lòng của cả hai bên, vật đính ước như vật trói buộc tấm chân tình, tình cảm “trăm năm” mãi không đổi thay. “Chữ đồng” ở đây có thể hiểu là sự đồng lòng, đồng tâm mãi không phai nhạt của đôi lứa.
Như vậy, trích đoạn “Thề nguyền” đã vẽ ra một khung cảnh đầy thi vị, mơ mộng. Trong không gian tuyệt mĩ ấy của thiên nhiên, nàng Kiều và chàng Kim đã thể khẳng định tình cảm giành cho đối phương bằng cách thổ lộ, thiêng liêng, chân thành hơn nữa hai người đã thề nguyền hẹn ước, khẳng định tình yêu mãi dành cho nhau. Có thể thấy,cảnh thề nguyền đêm trăng là khoảnh khắc hạnh phúc nhất cuộc đời của Thúy Kiểu, bởi lúc ấy nàng yêu và được yêu, sống trong tình yêu cháy bỏng của cuộc đời mình.