Văn mẫu lớp 11 Học kì 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát

I. Mở bài

– Những nét chính về tác giả Cao Bá Quát: Một tác giả trung đại có cuộc đời bất hạnh nhưng hào hùng. Ông mang đến thơ văn sự độc đáo mới mẻ theo hướng bám sát hiện thực

– Giới thiệu Bài ca ngắn đi trên bãi cát: được sáng tác trên đường tác giả đi thi Hội. Bài thơ thể thiện tâm tư của một sĩ tử trên đường danh lợi

II. Thân bài

1. Bốn câu đầu

– Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể

    + “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận. ⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường đời đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn

    + “Đi một bước lùi một bước”: sự vất vả, khó nhọc của người đi đường, đây vừa là cảnh thực vừa là tượng trưng cho con đường công danh gập ghềnh của tác giả

    + “Mặt trời đã lặn chưa dừng được”: Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ.

    + “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

2. Tám câu tiếp

– “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: sử dụng điển tích, tác giả giận mình vì không có khả năng như Hạ Hầu Ấn có thể nhắm mắt mà vẫn bước đều khi leo suối, lội nước ⇒ oán giận con đường công danh

– “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình

– “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người

– “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính lđang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít

– “Khúc đường cùng”: nghĩa biểu tượng, đây là bài ca về con đường cùng của chính tác giả, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.

3. Ba câu cuối

– “Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

    + Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc

⇒ Thiên nhiên phía Bắc, phía Nam đều đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy khó khăn hiểm trở, đi mà chỉ thấy phía trước là núi là biển mênh mông mịt mờ

    + Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt

⇒ Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

– “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

4. Nghệ thuật

– Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.

– Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

– Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát” của Cao Bá Quát.

   Cao Bá Quát (1808 — 1855) là nhà thơ lỗi lạc của nước ta trong thế kỉ 19. Ông để lại trên một nghìn bài thơ chữ Hán và chữ Nôm; bài phú “Tài tử đa cùng phú” và bài thơ chữ Hán “Sa hành đoản ca” được nhiều người ca ngợi.

   “Sa hành đoản ca” nghĩa là bài ca ngắn đi trên bãi cát nói lên bi kịch của kẻ sĩ trên bước đường công danh.

   Bãi cát dài và con đường cùng trong “Sa hành đoản ca” được miêu tả đầy ám ảnh. Bãi cát dài được nhắc đi nhắc lại năm lần trong bài thơ. Con đường được nói tới là “đường cùng”: “Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều”.

   Hình ảnh bãi cát dài và con đường cùng lại được miêu tả trong khoảnh khắc thời gian ngày tàn khi “mặt trời lặn”. Con đường cùng không chỉ “mờ mịt” và “ghê sợ” mà còn bị chặn lối, bị bủa vây:

    “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

    Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt”.

   Các hình ảnh ấy tượng trưng cho đường đời, con đường danh lợi nhiều gian nan, nguy hiểm.

   Hình ảnh người đi đường trong bài thơ được khắc hoạ qua nhiều chi tiết chọn lọc. Bước đi thất thểu khó nhọc “Đi một bước như lùi một bước”. Nước mắt “lã chã rơi” vì tự thương mình. Khách đi đường vừa khó nhọc đi trên bãi cát mờ mịt vừa suy ngẫm. Lúc thì ước ao được “phép ngủ kĩ” của ông tiên. Lúc thì nghĩ về “hạng người danh lợi” đang tất tả ngược xuôi; và cảm thấy “người tỉnh thường ít mà người say vô số!”. Lúc thì than, hát khúc “đường cùng”; để rồi tự vấn lương tâm, tự trách mình: “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?”.

   Qua hình ảnh người đi đường, nhà thơ giãi bày tâm sự bế tắc và chán ngán trên con đường công danh, con đường danh lợi. Tác giả tự trách, tự thương mình.

   Nhân vật trữ tình trong”Sa hành đoản ca” lúc là “khách” (khách tử), lúc là “anh” (quân), lúc lại xưng là “ta” (ngã). Đó là sự hoá thân giữa khách thể và chủ thể trữ tình, để vừa tạo nên sự phong phú, uyển chuyển về giọng điệu, vừa để bộc lộ tâm sự, nói lên những suy ngẫm về hạng người danh lợi và con đường danh lợi xưa nay. Giọng thơ trở nên tâm tình, thổ lộ rất thấm thìa. Các câu hỏi tu từ trong bài thơ tạo nên bao ám ảnh và suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc:

    Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?

    Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?

   Bài “Sa hành đoản ca” cho ta thấy một phần nào con người và nhân cách của Cao Bá Quát. Là một bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời, không được trọng dụng, đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh.

   Cao Bá Quát muốn nhắn gửi hạng người danh lợi đang tất tả ngược xuôi bài học nhiều nước mắt mà ông đã trải qua và cảm nhận.

Đề bài: Phân tích “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát

    Cao Bá Quát là người học rộng, tài cao, bản lĩnh, ông được người đời mệnh danh là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát). Thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, và mong muốn đổi mới xã hội. Tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong những sáng tác thể hiện tâm trạng của ông trước thực trạng xã hội đương thời.

    Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội, phải đi qua những sa mạc đầy năng gió, bởi vậy ông đã viết bài thơ này. Mượn hình ảnh những người đi trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi.

    Mở đầu bài thơ là hình ảnh những bãi cát dài nối tiếp nhau:

    Bãi cát dài lại bãi cát dài

    Đi một bước như lùi một bước

    Từ “bãi cát” được lặp lại hai lần, kết hợp với từ “lại” gợi ra trước mắt người đọc không gian hoang vu, tít tắp không có điểm dừng. Không gian ấy rộng lớn, như nuốt chửng người bộ hành cô đơn giữa sa mạc. Bãi cát ấy bị bao quanh bởi “Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp/ Nam sơn chi nam ba vạn cấp” con đường đó bị bao quanh bởi núi muôn trùng, sóng muôn đợt, đó là con đường tù túng, không lối thoát. Hành trình càng trở nên khó khăn vất vả hơn khi tiến một bước lại như lùi một bước. “Mặt trời đã lặn chưa dừng được” bởi hành trình đó quá xa xôi, quá nhiều thử thách khiến cho người bộ hành không dám dừng chân lấy một phút dù cả khi mặt trời đã xuống núi, muôn loài đã vào trạng thái nghỉ ngơi.

    Trong hành trình đầy cực khổ, vất vả lại không thể nhìn thấy đích tới, tất yếu tâm trạng của người bộ hành sẽ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, bải hoải:

    Lữ khách trên đường nước mắt

    Hình ảnh người lữ khách trên đường tủi cực, chán nản cũng chính là hình ảnh của tác giả và các trí thức đương thời trước thực tại xã hội đầy nhiễu nhương, rối ren lúc bấy giờ. Bởi vậy mà con đường theo đuổi công danh, hoạn lộ cũng gặp nhiều trắc trở, khó khăn hơn.

    Để từ đó Cao Bá Quát có những nhận thức về việc theo đuổi công danh:

    Xưa nay, phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời.

    Đầu quán hơi men thơm quán rượu,

    Người say vô số, tỉnh bao người?

    Ông đồng nhất công danh với danh lợi, cách đồng nhất như vậy cho thấy thái độ mỉa mai, coi thường theo quan điểm của một nhà nho chân chính. Công danh vốn là cái nợ mà người làm trai phải trả đối với non sông, đất nước: “Đã làm trai ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Nhưng thực trạng xã hội đương thời nhiễu loạn, rối ren thì chí làm trai đó đâu có cơ hội để thực hiện, mộng công danh của những người quân tử bị vùi lấp, phường danh lợi đua chen tất tả, thắng thế. Đây cũng chính là nỗi đau của biết bao thế hệ nho sĩ trong thời buổi đất nước loạn lạc. Nhưng không ít người bị hơi men công danh làm cho chếnh choáng, không tỉnh táo, không ý thức được những việc mình đang làm. Câu hỏi tu từ “tỉnh bao người” vừa bộc lộ thái độ phê phán, vừa thể hiện sự đau xót của người trí thức chân chính trước thực trạng đau lòng của xã hội đương thời. Qua bốn câu thơ Cao Bá Quát bộc lộ thái độ coi thường vơi những người theo đuổi con đường công danh vô nghĩa và bản thân những kẻ mê muội đang miệt mài ngày đêm đi trên con đường đó.

    Trước thực trạng đó, Cao Bá Quát cũng băn khoăn lựa chọn: “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”. Và để sau đó ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát:

    Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,

    Phía bắc núi Bắc muôn trùng,

    Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.

    Anh đứng làm chi lên bãi cát?

    Tác giả một lần nữa nhận định về con đường công danh: con đường đó đầy chông gai, nguy hiểm, đường phẳng thì mờ mịt, không thấy lối, chỉ có bước đường ghê sợ chông gai thì nhiều. Đó còn là con đường bế tắc, không hi vọng “núi muôn trùng” “sóng muôn đợt” bủa vây lấy người nho sĩ. Bởi vậy “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát” là thái độ dứt khoát của tác giả từ bỏ theo đuổi con đường hoạn lộ công danh vô nghĩa.

    Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, bãi cát vừa mang ý nghĩa tả thực vừa biểu tượng cho con đường công danh nhiều gian nan, đua tranh vô nghĩa. Nhịp điệu bài thơ thay đổi linh hoạt diễn tả những trắc trở khi đi trên bãi cát và con đường công danh. Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ thể hiện sự thức tỉnh của người trí sĩ khi nhận ra sự vô nghĩa của con đường công danh đương thời.

    Bằng hình ảnh bãi cát giàu ý nghĩa biểu trưng, tác phẩm đã khắc họa rõ nét hình ảnh người trí thức đương thời vừa cô độc, nhỏ bé, bi phẫn vừa kiên quyết khi từ bỏ con đường công danh. Từ đó bài thơ phản ánh thực trạng xã hội thối nát, đầy nguy hiểm với người trí thức tài hoa .

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát” của Cao Bá Quát

    “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

    Thi Đáo Tùng tuy thất Thịnh Đường”

Câu thơ nhắc đến Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thơ văn của hai ông rất hay nên người đời ca ngợi, tôn sùng là “Thần Siêu thánh Quát”. Thơ văn của thi sĩ họ Cao bộc lộ thái độ phê phán triều đình phong kiến bảo thủ, trì trệ và chứa đựng những tư tưởng khai sáng, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một trong những sáng tác thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả trước thực tế xã hội đó.

Bài thơ “Sa hành đoản ca” được viết theo thể loại thơ cổ thể, thể loại văn học của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Có thể kể đến các tác phẩm nổi tiếng khác cũng được viết theo thể loại cổ này như “Phóng cuồng ca” của Trần Tung, “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi hay “Long thành cầm giả ca” của Nguyễn Du.

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị. Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được sáng tác khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.

Nổi lên trên bài ca ngắn là hình ảnh bãi cát dài tiếp nối tiếp “Bãi cát dài lại bãi cát dài”. Bãi cát là hình ảnh thực là con đường dài rộng mênh mông, không xác định được phương hướng. Nó cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đó là con đường đời, con đường công danh mịt mờ, xa hút. Con đường này bắt buộc những người muốn tìm thấy chân lí đích thực của cuộc đời phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ.

Hình ảnh con người hiện lên với những bước đi thật vất vả, mệt mỏi.

    “Đi một bước như lùi một bước

    Mặt trời đã lặn chưa dừng được

    Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

Con người thật cô đơn, nhỏ bé giữa không gian bao la, rộng lớn như lạc lõng không xác định được hướng đi giữa miền cát sa mạc với những bước trầy bước trật khó khăn, nặng nề đi mà như vẫn giậm chân tại chỗ “Đi một bước như lùi một bước”. Tuy nhiên đôi chân bước đi không ngừng nghỉ, đi trong đau khổ và tủi hờn “nước mắt rơi” nhưng cứ đi mãi mà chẳng biết điểm dừng. Con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Một con người cô đơn, cô độc đi tìm cho mình chân lí, mục đích đích thực giữa cuộc đời mờ mịt, không xác định. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến “những con chim ưng”, “con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki.

Bãi cát dài bất tận và con người cơ cực bước đi trên con đường, đó cũng chính là con đường công danh mà người trí sĩ đương thời dấn thân vào. Con đường hoạn lộ ấy khiến cho nhà thơ lận đận nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ đành chấp nhận mà cất lên ai oán:

    “Không học được ông tiên phép ngủ

    Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

    Xưa nay phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời.

    Đầu hơi men thơm quán rượu

    Người say vô số tỉnh bao người?”

Hai câu đầu tác giả tự oán tự trách mình tại sao lại phải vì danh lợi mà phải để mình “Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Bốn câu sau nói về “phường danh lợi” với những con người “tất tả”, bon chen, tranh giành một bức tranh hiện thực xã hội hiện ra trước mắt. Thật sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong cách phán xét, nhà thơ chua xót nhận ra “người say vô số tỉnh bao người” thì ra danh lợi cũng giống như một thứ rượu ngon khiến cho người ta say ngây ngất, khiến cho bao người theo đuổi. Câu hỏi ẩn dụ như vừa để hỏi cũng vừa để trả lời với sự khẳng định “người say vô số” con người mấy ai có thể thoát ra khỏi vòng danh lợi, những cám dỗ vật chất.

Hình ảnh bãi cát dài một lần nữa được hiện lên qua câu thơ “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!” theo phép “tiền hậu tương ứng” như gợi lện những băn khoăn, trăn trở trong lòng thi sĩ, những câu hỏi liên tiếp được đặt ra:

    “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt

    Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít

    Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”

    Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

    Phía nam núi Nam, sông dào dạt”.

Nhà thơ tự hỏi lòng mình “tính sao đây” nên đi tiếp hay dừng lại. Nếu đi tiếp có thể ông cũng trở một trong những “người say vô số” nhưng đi tiếp cũng chẳng biết nên đi thế nào bởi “đường bằng mờ mịt”, “đường ghê sợ còn nhiều”. Sự bế tắc, nỗi tuyệt vọng đã che khuất cả bóng người đi trên bãi cát dài. Lữ khách lúc này chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” mà quyết định “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Hình ảnh “núi muôn trùng” và “sóng dào dạt” tượng trưng cho những khó khăn, chông gai phía trước. Tư tưởng và nhân cách cao rộng của Cao Bá Quát là ở đây, tác giả hiểu được sự vô nghĩa của con đường công danh. Ông nhận ra những chân lí, lí tưởng mà bấy lâu nay ông dấn thân ông theo đuổi trở nên vô ích. Ông coi thường danh lợi, ông khinh miệt những kẻ say mà không biết tỉnh. Một đời ông muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng ông đã nhận ra rằng con đường làm quan để gúp đời không hề dễ như ông tưởng. GS Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn quân thần; còn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh” chính vì vậy cuối cùng người trí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường quay về, sau này ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức nổi dậy khởi nghĩa tại Mỹ Lương thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh.

“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” với những tâm tư, tình cảm của tác giả được thể hiện một cách đa chiều. Có khi được miêu tả như một khách thể, khi lại là người đối thoại, chủ thể khi ẩn khi hiện để biểu lộ những tâm trạng, trạng thái cảm xúc khác nhau trước những hoàn cảnh khác nhau với những câu thơ dài ngắn linh hoạt. Cách gieo vần có cả vần bằng và vần trắc, giọng điệu và nhịp thơ cũng rất phong phú tạo điều kiện bộc lộ cho những suy tư, trăn trở của tác giả.

Bài thơ đã thể hiện được con người cá nhân của ông Quát trước bối cảnh thời đại. Ông luôn chán ghét tực tại xã hội phong kiến bon chen danh lợi và luôn mang trong mình một niềm khao khát thay đổi cuộc sống. “Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng khinh bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay đổi đời mình”.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát” của Cao Bá Quát.

I. Mở bài

– Những nét chính về tác giả Cao Bá Quát: Một tác giả trung đại có cuộc đời bất hạnh nhưng hào hùng. Ông mang đến thơ văn sự độc đáo mới mẻ theo hướng bám sát hiện thực

– Giới thiệu Bài ca ngắn đi trên bãi cát: được sáng tác trên đường tác giả đi thi Hội. Bài thơ thể thiện tâm tư của một sĩ tử trên đường danh lợi

II. Thân bài

1. Bốn câu đầu

– Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể

    + “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận. ⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường đời đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn

    + “Đi một bước lùi một bước”: sự vất vả, khó nhọc của người đi đường, đây vừa là cảnh thực vừa là tượng trưng cho con đường công danh gập ghềnh của tác giả

    + “Mặt trời đã lặn chưa dừng được”: Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ.

    + “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

2. Tám câu tiếp

– “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: sử dụng điển tích, tác giả giận mình vì không có khả năng như Hạ Hầu Ấn có thể nhắm mắt mà vẫn bước đều khi leo suối, lội nước ⇒ oán giận con đường công danh

– “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình

– “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người

– “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính lđang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít

– “Khúc đường cùng”: nghĩa biểu tượng, đây là bài ca về con đường cùng của chính tác giả, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.

3. Ba câu cuối

– “Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

   Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

    + Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc

⇒ Thiên nhiên phía Bắc, phía Nam đều đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy khó khăn hiểm trở, đi mà chỉ thấy phía trước là núi là biển mênh mông mịt mờ

    + Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt

⇒ Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

– “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

4. Nghệ thuật

– Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.

– Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

– Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.

    Cao Bá Quát (1808 — 1855) là nhà thơ lỗi lạc của nước ta trong thế kỉ 19. Ông để lại trên một nghìn bài thơ chữ Hán và chữ Nôm; bài phú “Tài tử đa cùng phú” và bài thơ chữ Hán “Sa hành đoản ca” được nhiều người ca ngợi.

    “Sa hành đoản ca” nghĩa là bài ca ngắn đi trên bãi cát nói lên bi kịch của kẻ sĩ trên bước đường công danh.

    Bãi cát dài và con đường cùng trong “Sa hành đoản ca” được miêu tả đầy ám ảnh. Bãi cát dài được nhắc đi nhắc lại năm lần trong bài thơ. Con đường được nói tới là “đường cùng”: “Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều”.

    Hình ảnh bãi cát dài và con đường cùng lại được miêu tả trong khoảnh khắc thời gian ngày tàn khi “mặt trời lặn”. Con đường cùng không chỉ “mờ mịt” và “ghê sợ” mà còn bị chặn lối, bị bủa vây:

    “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

    Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt”.

    Các hình ảnh ấy tượng trưng cho đường đời, con đường danh lợi nhiều gian nan, nguy hiểm.

    Hình ảnh người đi đường trong bài thơ được khắc hoạ qua nhiều chi tiết chọn lọc. Bước đi thất thểu khó nhọc “Đi một bước như lùi một bước”. Nước mắt “lã chã rơi” vì tự thương mình. Khách đi đường vừa khó nhọc đi trên bãi cát mờ mịt vừa suy ngẫm. Lúc thì ước ao được “phép ngủ kĩ” của ông tiên. Lúc thì nghĩ về “hạng người danh lợi” đang tất tả ngược xuôi; và cảm thấy “người tỉnh thường ít mà người say vô số!”. Lúc thì than, hát khúc “đường cùng”; để rồi tự vấn lương tâm, tự trách mình: “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?”.

    Qua hình ảnh người đi đường, nhà thơ giãi bày tâm sự bế tắc và chán ngán trên con đường công danh, con đường danh lợi. Tác giả tự trách, tự thương mình.

    Nhân vật trữ tình trong”Sa hành đoản ca” lúc là “khách” (khách tử), lúc là “anh” (quân), lúc lại xưng là “ta” (ngã). Đó là sự hoá thân giữa khách thể và chủ thể trữ tình, để vừa tạo nên sự phong phú, uyển chuyển về giọng điệu, vừa để bộc lộ tâm sự, nói lên những suy ngẫm về hạng người danh lợi và con đường danh lợi xưa nay. Giọng thơ trở nên tâm tình, thổ lộ rất thấm thìa. Các câu hỏi tu từ trong bài thơ tạo nên bao ám ảnh và suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc:

    Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?

    Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?

    Bài “Sa hành đoản ca” cho ta thấy một phần nào con người và nhân cách của Cao Bá Quát. Là một bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời, không được trọng dụng, đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh.

    Cao Bá Quát muốn nhắn gửi hạng người danh lợi đang tất tả ngược xuôi bài học nhiều nước mắt mà ông đã trải qua và cảm nhận.

   Cao Bá Quát là người học rộng, tài cao, bản lĩnh, ông được người đời mệnh danh là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát). Thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, và mong muốn đổi mới xã hội. Tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong những sáng tác thể hiện tâm trạng của ông trước thực trạng xã hội đương thời.

    Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội, phải đi qua những sa mạc đầy năng gió, bởi vậy ông đã viết bài thơ này. Mượn hình ảnh những người đi trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi.

    Mở đầu bài thơ là hình ảnh những bãi cát dài nối tiếp nhau:

    Bãi cát dài lại bãi cát dài

    Đi một bước như lùi một bước

    Từ “bãi cát” được lặp lại hai lần, kết hợp với từ “lại” gợi ra trước mắt người đọc không gian hoang vu, tít tắp không có điểm dừng. Không gian ấy rộng lớn, như nuốt chửng người bộ hành cô đơn giữa sa mạc. Bãi cát ấy bị bao quanh bởi “Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp/ Nam sơn chi nam ba vạn cấp” con đường đó bị bao quanh bởi núi muôn trùng, sóng muôn đợt, đó là con đường tù túng, không lối thoát. Hành trình càng trở nên khó khăn vất vả hơn khi tiến một bước lại như lùi một bước. “Mặt trời đã lặn chưa dừng được” bởi hành trình đó quá xa xôi, quá nhiều thử thách khiến cho người bộ hành không dám dừng chân lấy một phút dù cả khi mặt trời đã xuống núi, muôn loài đã vào trạng thái nghỉ ngơi.

    Trong hành trình đầy cực khổ, vất vả lại không thể nhìn thấy đích tới, tất yếu tâm trạng của người bộ hành sẽ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, bải hoải:

    Lữ khách trên đường nước mắt

    Hình ảnh người lữ khách trên đường tủi cực, chán nản cũng chính là hình ảnh của tác giả và các trí thức đương thời trước thực tại xã hội đầy nhiễu nhương, rối ren lúc bấy giờ. Bởi vậy mà con đường theo đuổi công danh, hoạn lộ cũng gặp nhiều trắc trở, khó khăn hơn.

    Để từ đó Cao Bá Quát có những nhận thức về việc theo đuổi công danh:

    Xưa nay, phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời.

    Đầu quán hơi men thơm quán rượu,

    Người say vô số, tỉnh bao người?

    Ông đồng nhất công danh với danh lợi, cách đồng nhất như vậy cho thấy thái độ mỉa mai, coi thường theo quan điểm của một nhà nho chân chính. Công danh vốn là cái nợ mà người làm trai phải trả đối với non sông, đất nước: “Đã làm trai ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Nhưng thực trạng xã hội đương thời nhiễu loạn, rối ren thì chí làm trai đó đâu có cơ hội để thực hiện, mộng công danh của những người quân tử bị vùi lấp, phường danh lợi đua chen tất tả, thắng thế. Đây cũng chính là nỗi đau của biết bao thế hệ nho sĩ trong thời buổi đất nước loạn lạc. Nhưng không ít người bị hơi men công danh làm cho chếnh choáng, không tỉnh táo, không ý thức được những việc mình đang làm. Câu hỏi tu từ “tỉnh bao người” vừa bộc lộ thái độ phê phán, vừa thể hiện sự đau xót của người trí thức chân chính trước thực trạng đau lòng của xã hội đương thời. Qua bốn câu thơ Cao Bá Quát bộc lộ thái độ coi thường vơi những người theo đuổi con đường công danh vô nghĩa và bản thân những kẻ mê muội đang miệt mài ngày đêm đi trên con đường đó.

    Trước thực trạng đó, Cao Bá Quát cũng băn khoăn lựa chọn: “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”. Và để sau đó ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát:

    Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,

    Phía bắc núi Bắc muôn trùng,

    Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.

    Anh đứng làm chi lên bãi cát?

    Tác giả một lần nữa nhận định về con đường công danh: con đường đó đầy chông gai, nguy hiểm, đường phẳng thì mờ mịt, không thấy lối, chỉ có bước đường ghê sợ chông gai thì nhiều. Đó còn là con đường bế tắc, không hi vọng “núi muôn trùng” “sóng muôn đợt” bủa vây lấy người nho sĩ. Bởi vậy “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát” là thái độ dứt khoát của tác giả từ bỏ theo đuổi con đường hoạn lộ công danh vô nghĩa.

    Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, bãi cát vừa mang ý nghĩa tả thực vừa biểu tượng cho con đường công danh nhiều gian nan, đua tranh vô nghĩa. Nhịp điệu bài thơ thay đổi linh hoạt diễn tả những trắc trở khi đi trên bãi cát và con đường công danh. Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ thể hiện sự thức tỉnh của người trí sĩ khi nhận ra sự vô nghĩa của con đường công danh đương thời.

    Bằng hình ảnh bãi cát giàu ý nghĩa biểu trưng, tác phẩm đã khắc họa rõ nét hình ảnh người trí thức đương thời vừa cô độc, nhỏ bé, bi phẫn vừa kiên quyết khi từ bỏ con đường công danh. Từ đó bài thơ phản ánh thực trạng xã hội thối nát, đầy nguy hiểm với người trí thức tài hoa .

    “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

    Thi Đáo Tùng tuy thất Thịnh Đường”

   Câu thơ nhắc đến Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thơ văn của hai ông rất hay nên người đời ca ngợi, tôn sùng là “Thần Siêu thánh Quát”. Thơ văn của thi sĩ họ Cao bộc lộ thái độ phê phán triều đình phong kiến bảo thủ, trì trệ và chứa đựng những tư tưởng khai sáng, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một trong những sáng tác thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả trước thực tế xã hội đó.

   Bài thơ “Sa hành đoản ca” được viết theo thể loại thơ cổ thể, thể loại văn học của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Có thể kể đến các tác phẩm nổi tiếng khác cũng được viết theo thể loại cổ này như “Phóng cuồng ca” của Trần Tung, “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi hay “Long thành cầm giả ca” của Nguyễn Du.

   Hoàn cảnh sáng tác bài thơ khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị. Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được sáng tác khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.

   Nổi lên trên bài ca ngắn là hình ảnh bãi cát dài tiếp nối tiếp “Bãi cát dài lại bãi cát dài”. Bãi cát là hình ảnh thực là con đường dài rộng mênh mông, không xác định được phương hướng. Nó cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đó là con đường đời, con đường công danh mịt mờ, xa hút. Con đường này bắt buộc những người muốn tìm thấy chân lí đích thực của cuộc đời phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ.

   Hình ảnh con người hiện lên với những bước đi thật vất vả, mệt mỏi.

    “Đi một bước như lùi một bước

    Mặt trời đã lặn chưa dừng được

    Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

   Con người thật cô đơn, nhỏ bé giữa không gian bao la, rộng lớn như lạc lõng không xác định được hướng đi giữa miền cát sa mạc với những bước trầy bước trật khó khăn, nặng nề đi mà như vẫn giậm chân tại chỗ “Đi một bước như lùi một bước”. Tuy nhiên đôi chân bước đi không ngừng nghỉ, đi trong đau khổ và tủi hờn “nước mắt rơi” nhưng cứ đi mãi mà chẳng biết điểm dừng. Con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Một con người cô đơn, cô độc đi tìm cho mình chân lí, mục đích đích thực giữa cuộc đời mờ mịt, không xác định. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến “những con chim ưng”, “con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki.

   Bãi cát dài bất tận và con người cơ cực bước đi trên con đường, đó cũng chính là con đường công danh mà người trí sĩ đương thời dấn thân vào. Con đường hoạn lộ ấy khiến cho nhà thơ lận đận nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ đành chấp nhận mà cất lên ai oán:

    “Không học được ông tiên phép ngủ

    Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

    Xưa nay phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời.

    Đầu hơi men thơm quán rượu

    Người say vô số tỉnh bao người?”

   Hai câu đầu tác giả tự oán tự trách mình tại sao lại phải vì danh lợi mà phải để mình “Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Bốn câu sau nói về “phường danh lợi” với những con người “tất tả”, bon chen, tranh giành một bức tranh hiện thực xã hội hiện ra trước mắt. Thật sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong cách phán xét, nhà thơ chua xót nhận ra “người say vô số tỉnh bao người” thì ra danh lợi cũng giống như một thứ rượu ngon khiến cho người ta say ngây ngất, khiến cho bao người theo đuổi. Câu hỏi ẩn dụ như vừa để hỏi cũng vừa để trả lời với sự khẳng định “người say vô số” con người mấy ai có thể thoát ra khỏi vòng danh lợi, những cám dỗ vật chất.

   Hình ảnh bãi cát dài một lần nữa được hiện lên qua câu thơ “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!” theo phép “tiền hậu tương ứng” như gợi lện những băn khoăn, trăn trở trong lòng thi sĩ, những câu hỏi liên tiếp được đặt ra:

    “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt

    Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít

    Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”

    Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

    Phía nam núi Nam, sông dào dạt”.

   Nhà thơ tự hỏi lòng mình “tính sao đây” nên đi tiếp hay dừng lại. Nếu đi tiếp có thể ông cũng trở một trong những “người say vô số” nhưng đi tiếp cũng chẳng biết nên đi thế nào bởi “đường bằng mờ mịt”, “đường ghê sợ còn nhiều”. Sự bế tắc, nỗi tuyệt vọng đã che khuất cả bóng người đi trên bãi cát dài. Lữ khách lúc này chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” mà quyết định “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Hình ảnh “núi muôn trùng” và “sóng dào dạt” tượng trưng cho những khó khăn, chông gai phía trước. Tư tưởng và nhân cách cao rộng của Cao Bá Quát là ở đây, tác giả hiểu được sự vô nghĩa của con đường công danh. Ông nhận ra những chân lí, lí tưởng mà bấy lâu nay ông dấn thân ông theo đuổi trở nên vô ích. Ông coi thường danh lợi, ông khinh miệt những kẻ say mà không biết tỉnh. Một đời ông muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng ông đã nhận ra rằng con đường làm quan để gúp đời không hề dễ như ông tưởng. GS Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn quân thần; còn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh” chính vì vậy cuối cùng người trí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường quay về, sau này ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức nổi dậy khởi nghĩa tại Mỹ Lương thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh.

   “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” với những tâm tư, tình cảm của tác giả được thể hiện một cách đa chiều. Có khi được miêu tả như một khách thể, khi lại là người đối thoại, chủ thể khi ẩn khi hiện để biểu lộ những tâm trạng, trạng thái cảm xúc khác nhau trước những hoàn cảnh khác nhau với những câu thơ dài ngắn linh hoạt. Cách gieo vần có cả vần bằng và vần trắc, giọng điệu và nhịp thơ cũng rất phong phú tạo điều kiện bộc lộ cho những suy tư, trăn trở của tác giả.

   Bài thơ đã thể hiện được con người cá nhân của ông Quát trước bối cảnh thời đại. Ông luôn chán ghét tực tại xã hội phong kiến bon chen danh lợi và luôn mang trong mình một niềm khao khát thay đổi cuộc sống. “Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

I. Mở bài

– Trình bày những nét khái quát về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát

– Trình bày những cảm nhận khái quát nhất của bản thân về bài thơ: Bài thơ cho ta cảm nhận sâu sắc sự chán ghét con đường danh lợi tầm thường và niềm khao khát thay đổi cuộc sống của người sĩ tử

II. Thân bài

(Điểm lưu ý trong bài cảm nhận là cần đưa thêm nhiều những lời bình, những quan điểm của cá nhân về những điều tác giả gửi gắm trong tác phẩm)

1. Cảm nhận về hình tượng bãi cát

– Mang ý nghĩa tả thực:

    + “Bãi cát dài lại bãi cát dài”

⇒ Điệp từ: gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận.

– “Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

    + Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc

    + Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt

– Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường sự nghiệp đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn, mù mịt mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

2. Cảm nhận về hình tượng lữ khách

– Hoàn cảnh của người lữ khách:

    + “Đi một bước như lùi một bước”: cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

    + “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Lúc mặt trời đã lặn, con người đều tìm chốn nghỉ ngơi, người lữ khách vẫn mải miết trên con đường vất vả đến nỗi phải tuôn rơi nuớc mắt.

⇒ Tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

– Người lữ khách ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão của mình với thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái

    + “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, mà phải tự mình hành hạ thân xác mình, chán nản, mệt mỏi vì công danh – danh lợi.

    + “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình

    + “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người

    + “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính lđang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít

    + “Khúc đường cùng”: khúc ca tuyệt vọng đầy bi phẫn của tác giả. Con đường đi với bãi cát mênh mông, mịt mùng, cũng chính là con đường công danh nhọc nhằn, bế tắc ⇒ đây không phải chỉ của tác giả mà còn của biết bao trí thức đương thời.

– Hình tượng người lữ khách với lời than bi phẫn, tuyệt vọng

    + “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: thể hiện khối mâu thuẫn lớn trong lòng nhà thơ, đồng thời là tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

III. Kết bài

– Cảm nhận về những nét đặc sắc nghệ thuật làm neen thành công của tác phẩm: thơ cổ thể, hình ảnh đối lập, điển tích, điển cố…

– Bài thơ là tiêu biểu cho nỗi lòng của Cao Bá Quát trước con đường công danh, đồng thời cũng là tâm tư của bao trí thức đương thời khác nữa.

Đề bài: Cảm nhận của em về “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát.

Cao Bá Quát là một con người có tài năng có bản lĩnh hơn người, được người đời tôn thờ là Thánh Quát. Thơ văn của ông phong phú trong nội dung cảm hứng: “tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, với người thân, sự đồng cảm nhân ái với những con người lao khổ; niềm tự hào với quá khứ lịch sử dân tộc và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều chính đương thời”. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” thể hiện cái nhìn và phản ánh tâm tư, tình cảm của thi nhân trước thời cuộc cho thấy một nhân cách và tâm hồn cao đẹp của ông Quát.

Cao Bá Quát sống ở cuối thế kỉ XIX khi triều đình nhà Nguyễn đang rơi vào sự khủng hoảng trầm trọng. Cũng như bao sĩ tử khác ông chọn con đường học vấn và làm quan để mong mỏi một lòng phụng sự Tổ quốc nhưng trước bối cảnh thời đại bấy giờ điều đó thật gian nan vô cùng. Bài thơ được sáng tác khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng mênh mông mà viết nên những câu thơ tỏ chí. Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được viết khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là ra đời trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.

Con người với những bước đi khó khăn, trầy trật trên sa mạc được tái hiện qua bốn câu thơ đầu:

    “Trường sa phục Trường sa

    Nhất bộ nhất hồi khước

    Nhật nhập hành vị dĩ

    Khách tử lệ giao lạc”

Lữ khách cô đơn, nhỏ bé với những bước đi mệt mỏi như dậm chân tại chỗ “đi một bước như lùi một bước” giữa sa mạc cát bao la rộng lớn, không định hướng được lối ra. Dù cho mặt trời đã lặn nhưng đôi chân ấy vẫn chưa dừng lại, vẫn miệt mài đi trong “nước mắt rơi”. Hai hình ảnh con đường cát và con người ở đây vừa mang tính hiện thực vừa mang tính biểu trưng. Ai đã từng đi trên cát thì cũng hiểu cảm giác đôi chân bị nhấn sâu, bị giữ lại bởi những hạt cát li ti. Con đường ấy cũng mang ý nghĩa cho con đường công danh, hoạn lộ quan trường của tác giả nó khó khăn, thử thách vô cùng. Con người trong cuộc hành trình này là một kẻ cô độc đi tìm cho mình chân lí, mục đích đích thực giữa cuộc đời mờ mịt, không xác định. Câu thơ ngũ ngôn với điệp ngữ và tương phản đã làm nổi bật hình ảnh con người cực nhọc, mệt mỏi, lầm lũi đi trên con đường cát trắng mênh mông ở các tỉnh miền Trung_những nơi tác giả đi qua khi vào Huế dự thi.

Tâm trạng của nhà thơ trước thực tại tự oán, tự giận mình sao phải hành hạ bản thân vì con đường công danh mà dấn thân vào “đăng sơn” (trèo non), “thiệp thủy” (lội suối) để mà phải “oán hà cùng” (giận khôn vơi). Ông tái hiện lại hiện thực xã hội với danh lợi bủa vây những con người bon chen, tranh giành nhau “mĩ tửu” để khiến “tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng”. Thật sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong cách phán xét, nhà thơ chua xót nhận ra “người say vô số tỉnh bao người” thì ra danh lợi cũng giống như một thứ rượu ngon khiến cho người ta say ngây ngất, khiến cho bao người theo đuổi.

Sự chán ghét thời thế để rồi thi sĩ phải băn khoăn, trăn trở về con đường mà mình đang bước đi:

    “Trường sa trường sa nại cừ hà?

    Thản lộ mang mang úy lộ đa”

Trong bản dịch cấu trúc “nại… hà” (làm thế nào) không được dịch sát văn bản nguyên tác chữ Hán. Đây là một câu hỏi “bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?” thể hiện sự bế tắc của một nhà Nho yêu nước muốn cống hiến cho đời nhưng hiện thực xã hội lại không cho phép. Nhà thơ băn khoăn khi đi tìm con đường chân lí không biết nên dừng lại hay đi tiếp vì “đường bằng mờ mịt”, “đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”

Trong xã hội đương thời với sự mục ruỗng của chế độ đâu phải con người ta cứ có tài có chí sẽ làm nên công trạng, sẽ được công thành danh toại. Một con người nổi tiếng học rộng tài cao nhưng lận đận khoa cử, bị đánh trượt bao lần có lúc ông đã từng than “Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì”. Để rồi người trí sĩ ấy sau một hồi suy tư, trăn trở ông quyết chọn cho mình một con đường đúng đắn bỏ lại con đường công danh, đi tìm cho mình giá trị cuộc sống đích thực:

    “Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca

    Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp

    Nam sơn chi nam ba vạn cấp

    Quân hồ vi hồ sa thượng lập?”

Lữ khách lúc này chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” mà quyết định “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”nhà thơ hỏi ai? Ông đang tự hỏi chính mính sao nhận ra sự chán chường khoa cử nhưng vẫn để mình bị cuốn vào vòng xoáy, không thoát khỏi được quy luật của xã hội. Tư tưởng và nhân cách cao rộng của Cao Bá Quát là ở đây, tác giả hiểu được sự vô nghĩa của con đường công danh. Ông nhận ra những chân lí, lí tưởng mà bấy lâu nay ông dấn thân, theo đuổi trở nên vô ích. Ông coi thường danh lợi, ông khinh miệt những kẻ say mà không biết tỉnh. Một đời ông muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng ông đã nhận ra rằng con đường làm quan để gúp đời luôn không được như mong muốn.

Bài thơ được viết theo thể hành ca, một thể thơ cổ của Trung Hoa được du nhập vào Việt Nam. Chúng ta có thể nhắc đến một số bài thơ cùng thể loại như “Phóng cuồng ca”của Trần Tung, “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi hay “Long thành cầm giả ca” của Nguyễn Du. “Sa hành đoản ca” với những câu thơ dài ngắn linh hoạt, vần thơ, nhịp thơ không gò bó mà phóng túng, con người có khi được miêu tả như một khách thể, khi lại là người đối thoại, chủ thể khi ẩn khi hiện thể hiện được những tâm trạng, cảm xúc khác nhau trước những hòan cảnh khác nhau của thi sĩ.

“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” với những nét độc đáo riêng đã bộc lộ sự chán ghét thực tại xã hội phong kiến đương thời của cụ Quát đồng thời cũng cho thấy “tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc mới lạ khác với cái nhìn truyền thống” của thi nhân họ Cao.

Đề bài: Cảm nhận của em về Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

    Cao Bá Quát đã từng viết: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – suốt cả đời ông chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp thanh nhã, cao sang của hoa mai, chứ nhất quyết không cúi đầu trước cường quyền. Sinh thời vào buổi loạn lạc, nhiễu nhương dù mang trong mình cái hùng tâm cống hiến cho đời nhưng ông phải chịu nhiều bất công. Nỗi oán ghét thực tại, phường danh lợi đã được ông thể hiện biết bao xúc động trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”.

    Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải băng qua những bãi cát dài, mênh mông không biết đích đến. Chính trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời sống và phương danh lợi tầm thường.

    Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nuối tiếp nhau đến tận chân trời và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút cố gắng vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt:

    Bãi cát dài lại bãi cát dài,

    Đi một bước như lùi một bước.

    Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực về những bãi cát nối tiếp nhau và những bước chân nặng nề của người lữ khách trên con đường đó. Bãi cát còn chính là hình ảnh biểu tượng về “danh lợi” – nó như một miếng mồi béo bở, níu kéo, hấp dẫn người lữ khách. Nên đi hay nên quay đầu lại? Câu hỏi ấy cứ vang vọng trong tâm tưởng người lữ khách. Trong không gian ấy, người lữ khách không còn làm chủ, mà bị nuốt trọn, lọt thỏm giữa không gian mênh mông, vô tận. Họ bé nhỏ trong cái rộng lớn của vũ trụ, những bước đi ngày một kiệt quệ, mệt mỏi nhưng vẫn phải tiếp tục gắng gượng: “Mặt trời đã lặn, chưa dừng được/ Lữ khách trên đường nước mắt rơi”. Những giọt nước mắt nhọc nhằn, cay đắng, không thể dừng lại, bởi vậy khi mặt trời đã xuống núi kẻ tìm công danh vẫn phải mải miết bước tiếp. Giọt nước mắt ấy còn thể hiện nỗi đau, sự bất lực, chán nản, bế tắc của người lữ khách. Liệu có con đường nào khác cho ông và những chí sĩ như ông không? Rồi chính người lữ khách lại tự trả lời: “Không học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Phường danh lợi vẫn là một lực hút quá lớn với người lữ khách, làm sao đê thoát khỏi chúng, làm sao để có một tâm hồn thư thái, thanh thản như ông tiên để lánh xa danh lợi tầm thương. Vì sao mãi phải nhọc nhằn trèo đèo, lội suối khi biết rõ chúng là tầm thường, giả dối, bởi vậy lữ khách tự giận với chính mình.

    Xưa nay phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời

    Đầu gió men thơm quán rượu,

    Người say vô số tỉnh bao người.

    Danh lợi cũng như một thứ hơi men, tuy nhẹ mà ngấm sâu, khiến người ta khó lòng có thể tỉnh táo để nhận định phải trái, đúng sai. Bởi vậy, ai đã lỡ vướng vào phường danh lợi thường khó có thể dứt ra, người say thì vô số, người tỉnh còn được mấy ai. Không chỉ vậy, gắn với lợi danh con người ta sẽ mất đi sự thanh tĩnh trong tâm hồn, phải đua chen vất vả, phải tranh giành, hãm hại lẫn nhau để đảm bảo lợi ích cho bản thân.

    Bảy dòng thơ cuối cùng là kết tinh tư tưởng, là ý chí quyết tâm từ bỏ lợi danh của tác giả: “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!/ Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít”. Con đường đời lắm ngả, người lữ khách không biết phải chọn hướng nào, không biết phải đi về đâu, giữa bãi cát dài mênh mông người lữ khách mông lung, tự đặt câu hỏi cho chính mình “tính sao đây” khi đường bằng mờ mịt, không lối thoát, đường ghê sợ chập trùng bủa vây trước mắt. Đọc câu thơ của ông ta chợt nhớ về đúc kết của Lí Bạch: “Hành lộ nan, hành lộ nan/ Đa kì lộ, ki, an tại?”. Đây đều là những băn khoăn của bậc đại trí thức về con đường công danh mờ mịt, nhiều gian truân trong xã hối rối ren, bất ổn.

    Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

    Phía nam núi Nam, sóng dào dạt

    Bốn phía đều là hiểm nguy bủa vây, đó là một không gian tù hãm, không lối thoát. Đó cũng chính là số phận của biết bao tri thức Nho học cuối mùa khi họ không tìm thấy đường đi cho mình, rẽ lối nào cũng là tăm tối, đường cùng. Còn với Cao Bá Quát ông dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn, thoát ra khỏi con đường tăm tối, tìm cho mình lối đi riêng: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Câu hỏi tu từ cuối bài vừa là lời khẳng định của tác giả về việc từ bỏ con đường danh lợi tầm thường, vừa như một lời cổ vũ, thúc giục với những người khác hãy vững tâm, tự tin bước ra khỏi con đường đấy, tìm cho bản thân một con đường khác. Cũng chính bởi tư tưởng đó đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát vào năm 1854, mặc dù thất bại, mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể hiện được tầm vóc tư tưởng lớn lao của một con người vĩ đại.

    Với hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, tác phẩm đã để lại cho mỗi người đọc những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Không chỉ vậy, với tác phẩm này Cao Bá Quát đã thể hiện nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng, nhân cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.

Đề bài: Cảm nhận “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca – Cao Bá Quát).

DÀN Ý

CUỘC ĐỜI – SỰ NGHIỆP CAO BÁ QUÁT

   Cao Bá Quát là nhà thơ vừa là một nhân vật lịch sử thế kỉ XIX. Tuy ông cũng đi thi và đỗ đến cử nhân nhưng ông rất ghét lối học khoa cử.

   Sinh thời, Cao Bá Quát có hai câu thơ tỏ chí của mình, được xem là đầy khí phách, biểu hiện sự chán ghét xã hội đương thời:

    “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

    Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

   Vâng, suốt đời chỉ cúi đầu trước hoa mai, trước cái đẹp, không cúi trước cường quyền. Đó là tất yếu để dẫn đến cuộc khởi nghĩa của ông vào năm 1854.

   Bài thơ “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) bộc lộ tinh thần phê phán của ông đối với triều đình nhà Nguyễn và chán ghét “bả danh lợi”.

   Bài thơ viết theo lối cổ thể bằng chữ Hán (còn gọi là “ca”,”hành”,”từ”).(Học sinh xem thêm phần TRI THỨC ĐỌC — HIỂU trong SGK)

GỢI Ý TIẾP CẬN

Hoàn cảnh ra đời bài thơ

   Cao Bá Quát đã từng vào kinh đô Huế để thi Hội nhiều lần nhưng không đỗ tiến sĩ. Hành trình từ Hà Nội vào Huế, ông trải qua nhiều tỉnh miền Trung có những bãi cát trắng mênh mông. Từ hình ảnh thực của những bãi cát trắng ấy, trở thành cảm hứng cho Cao Bá Quát viết bài thơ này. Đây là bài thơ viết bằng chữ Hán và xếp vào loại bài “làm trong khi thi Hội” (Nam hành tập).

Hình tượng Nghệ thuật:

   “bãi cát” có ý nghĩa tượng trưng cho “bã danh lợi » I nóng bỏng như bãi cát thiêu đốt con người. Cao Bá Quát tỏ ý chán ghét danh lợi và mượn hình tượng này để bộc lộ tâm tình.

PHÂN TÍCH

Sáu dòng thơ đầu: Bãi cát và lữ khách

   Hai hình tượng nổi bật trong sáu dòng thơ này là “bãi cát” và “lữ khách”.

   Bãi cát có ý nghĩa tả thực: đi trên cát rất khó “Đi một bước lùi một bước”.

   Bãi cát có ý nghĩa tượng trưng: con đường “danh lợi” như miếng mồi níu kéo bước chân con người, muốn đi tiếp cũng khó, muốn quay về không đành.

   Hình tượng lữ khách:

    Không gian mênh mông (đường xa), thời gian thì “mặt trời đã lặn” nhưng lữ khách (kẻ đi tìm công danh) vẫn mải miết trên đường.

   Cao Bá Quát nhìn thấy con đường ấy là một “bả danh lợi” đáng chán đáng buồn, đầy chông gai. Tuy bản thân ông chưa tìm ra cho mình một con đường tươi sáng hơn, nhưng ông không thể cứ tiếp tục trên “bãi cát” danh lợi ấy. Vì vậy mới có cảnh “nước mắt rơi”, bộc lộ sự bế tắc của đường đời và lòng đầy chán nản, không học được sự thảnh thơi của tiên ông “phép ngủ” để xa lánh bụi trần ai. Tại sao phải “trèo non, lội suối” thế này phỏng có ích gì, nên tự giận mình, giận đầy cả tâm tư “giận khôn vơi”.

Bốn dòng thơ tiếp theo: Nhận định của tác giả

   Nói về sự cám dỗ của cái “bả công danh” đối với người đời. Đây là nhận định mang tính khái quát về những kẻ hám danh, hám lợi phải “bôn tẩu” tất tả ngược xuôi, nhọc nhằn trên đường đời. Tác giả ví người tìm công danh như một “con nghiện” thấy quán rượu ngon thì đổ xô đến và có mấy ai còn tỉnh táo thoát khỏi sự cám dỗ để quay về?

Bảy dòng thơ cuối

   Bảy dòng thơ cuối là đỉnh cao tư tưởng của bài thơ: tác giả nhìn ra cái vô nghĩa trong lối học khoa cử lạc hậu. Đồng thời liên hệ danh lợi với việc làm quan.

   Câu thơ linh hồn bộc lộ tư tưởng, đó là: Hãy nghe ta hái khúc đường cùng” như là một lời cảnh tỉnh đầy xót xa cho hiện thực xã hội thời Nguyễn và thân phận của lớp Nho sĩ cuối mùa, không tìm thấy cho mình và đất nước một con đường tươi sáng. Có lẽ từ đó trở thành nguyên nhân đưa đến cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát vào năm 1854.

TỔNG KẾT

   Hình tượng bãi cát có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo và mang tính sáng tạo (không vay mượn thi liệu Trung Hoa), nó bắt nguồn từ chính hiện thực. Ai đã từng đi trên bãi cát ắt sẽ hiểu phần nào giá trị tư tưởng của bài thơ.

   Hình tượng lữ khách cũng chính là những lớp Nho sĩ cuối mùa còn bị cám lỗ trong “bả danh lợi” — con đường khoa cử lạc hậu của triều Nguyễn.

   Qua hai hình tượng ấy, nhà thơ đã bộc lộ sự chán ghét sâu sắc chế độ phong kiến nhà Nguyễn suy tàn.

   Tác giả sử dụng nhiều câu cảm thán, bộc lộ tâm sự đau buồn của mình. Hình tượng “bãi cát” được lặp lại theo phép “tiền hậu tương ứng” nhằm làm điểm nhấn để bộc lộ sự nhất quán trong tư tưởng, tình cảm của nhà thơ trước một hiện tượng mang tính xã hội.

Đề bài: Cảm nhận của em về “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát.

I. Mở bài

– Trình bày những nét khái quát về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát

– Trình bày những cảm nhận khái quát nhất của bản thân về bài thơ: Bài thơ cho ta cảm nhận sâu sắc sự chán ghét con đường danh lợi tầm thường và niềm khao khát thay đổi cuộc sống của người sĩ tử

II. Thân bài

   (Điểm lưu ý trong bài cảm nhận là cần đưa thêm nhiều những lời bình, những quan điểm của cá nhân về những điều tác giả gửi gắm trong tác phẩm)

1. Cảm nhận về hình tượng bãi cát

– Mang ý nghĩa tả thực:

    + “Bãi cát dài lại bãi cát dài”

⇒ Điệp từ: gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận.

– “Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

   Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

    + Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc

    + Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt

– Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường sự nghiệp đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn, mù mịt mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

2. Cảm nhận về hình tượng lữ khách

– Hoàn cảnh của người lữ khách:

    + “Đi một bước như lùi một bước”: cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

    + “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Lúc mặt trời đã lặn, con người đều tìm chốn nghỉ ngơi, người lữ khách vẫn mải miết trên con đường vất vả đến nỗi phải tuôn rơi nuớc mắt.

⇒ Tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

– Người lữ khách ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão của mình với thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái

    + “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, mà phải tự mình hành hạ thân xác mình, chán nản, mệt mỏi vì công danh – danh lợi.

    + “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình

    + “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người

    + “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính lđang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít

    + “Khúc đường cùng”: khúc ca tuyệt vọng đầy bi phẫn của tác giả. Con đường đi với bãi cát mênh mông, mịt mùng, cũng chính là con đường công danh nhọc nhằn, bế tắc ⇒ đây không phải chỉ của tác giả mà còn của biết bao trí thức đương thời.

– Hình tượng người lữ khách với lời than bi phẫn, tuyệt vọng

    + “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: thể hiện khối mâu thuẫn lớn trong lòng nhà thơ, đồng thời là tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

III. Kết bài

– Cảm nhận về những nét đặc sắc nghệ thuật làm neen thành công của tác phẩm: thơ cổ thể, hình ảnh đối lập, điển tích, điển cố…

– Bài thơ là tiêu biểu cho nỗi lòng của Cao Bá Quát trước con đường công danh, đồng thời cũng là tâm tư của bao trí thức đương thời khác nữa.

   Cao Bá Quát là một con người có tài năng có bản lĩnh hơn người, được người đời tôn thờ là Thánh Quát. Thơ văn của ông phong phú trong nội dung cảm hứng: “tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, với người thân, sự đồng cảm nhân ái với những con người lao khổ; niềm tự hào với quá khứ lịch sử dân tộc và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều chính đương thời”. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” thể hiện cái nhìn và phản ánh tâm tư, tình cảm của thi nhân trước thời cuộc cho thấy một nhân cách và tâm hồn cao đẹp của ông Quát.

   Cao Bá Quát sống ở cuối thế kỉ XIX khi triều đình nhà Nguyễn đang rơi vào sự khủng hoảng trầm trọng. Cũng như bao sĩ tử khác ông chọn con đường học vấn và làm quan để mong mỏi một lòng phụng sự Tổ quốc nhưng trước bối cảnh thời đại bấy giờ điều đó thật gian nan vô cùng. Bài thơ được sáng tác khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng mênh mông mà viết nên những câu thơ tỏ chí. Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được viết khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là ra đời trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.

   Con người với những bước đi khó khăn, trầy trật trên sa mạc được tái hiện qua bốn câu thơ đầu:

    “Trường sa phục Trường sa

    Nhất bộ nhất hồi khước

    Nhật nhập hành vị dĩ

    Khách tử lệ giao lạc”

   Lữ khách cô đơn, nhỏ bé với những bước đi mệt mỏi như dậm chân tại chỗ “đi một bước như lùi một bước” giữa sa mạc cát bao la rộng lớn, không định hướng được lối ra. Dù cho mặt trời đã lặn nhưng đôi chân ấy vẫn chưa dừng lại, vẫn miệt mài đi trong “nước mắt rơi”. Hai hình ảnh con đường cát và con người ở đây vừa mang tính hiện thực vừa mang tính biểu trưng. Ai đã từng đi trên cát thì cũng hiểu cảm giác đôi chân bị nhấn sâu, bị giữ lại bởi những hạt cát li ti. Con đường ấy cũng mang ý nghĩa cho con đường công danh, hoạn lộ quan trường của tác giả nó khó khăn, thử thách vô cùng. Con người trong cuộc hành trình này là một kẻ cô độc đi tìm cho mình chân lí, mục đích đích thực giữa cuộc đời mờ mịt, không xác định. Câu thơ ngũ ngôn với điệp ngữ và tương phản đã làm nổi bật hình ảnh con người cực nhọc, mệt mỏi, lầm lũi đi trên con đường cát trắng mênh mông ở các tỉnh miền Trung_những nơi tác giả đi qua khi vào Huế dự thi.

   Tâm trạng của nhà thơ trước thực tại tự oán, tự giận mình sao phải hành hạ bản thân vì con đường công danh mà dấn thân vào “đăng sơn” (trèo non), “thiệp thủy” (lội suối) để mà phải “oán hà cùng” (giận khôn vơi). Ông tái hiện lại hiện thực xã hội với danh lợi bủa vây những con người bon chen, tranh giành nhau “mĩ tửu” để khiến “tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng”. Thật sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong cách phán xét, nhà thơ chua xót nhận ra “người say vô số tỉnh bao người” thì ra danh lợi cũng giống như một thứ rượu ngon khiến cho người ta say ngây ngất, khiến cho bao người theo đuổi.

   Sự chán ghét thời thế để rồi thi sĩ phải băn khoăn, trăn trở về con đường mà mình đang bước đi:

    “Trường sa trường sa nại cừ hà?

    Thản lộ mang mang úy lộ đa”

   Trong bản dịch cấu trúc “nại… hà” (làm thế nào) không được dịch sát văn bản nguyên tác chữ Hán. Đây là một câu hỏi “bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?” thể hiện sự bế tắc của một nhà Nho yêu nước muốn cống hiến cho đời nhưng hiện thực xã hội lại không cho phép. Nhà thơ băn khoăn khi đi tìm con đường chân lí không biết nên dừng lại hay đi tiếp vì “đường bằng mờ mịt”, “đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”

   Trong xã hội đương thời với sự mục ruỗng của chế độ đâu phải con người ta cứ có tài có chí sẽ làm nên công trạng, sẽ được công thành danh toại. Một con người nổi tiếng học rộng tài cao nhưng lận đận khoa cử, bị đánh trượt bao lần có lúc ông đã từng than “Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì”. Để rồi người trí sĩ ấy sau một hồi suy tư, trăn trở ông quyết chọn cho mình một con đường đúng đắn bỏ lại con đường công danh, đi tìm cho mình giá trị cuộc sống đích thực:

    “Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca

    Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp

    Nam sơn chi nam ba vạn cấp

    Quân hồ vi hồ sa thượng lập?”

   Lữ khách lúc này chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” mà quyết định “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”nhà thơ hỏi ai? Ông đang tự hỏi chính mính sao nhận ra sự chán chường khoa cử nhưng vẫn để mình bị cuốn vào vòng xoáy, không thoát khỏi được quy luật của xã hội. Tư tưởng và nhân cách cao rộng của Cao Bá Quát là ở đây, tác giả hiểu được sự vô nghĩa của con đường công danh. Ông nhận ra những chân lí, lí tưởng mà bấy lâu nay ông dấn thân, theo đuổi trở nên vô ích. Ông coi thường danh lợi, ông khinh miệt những kẻ say mà không biết tỉnh. Một đời ông muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng ông đã nhận ra rằng con đường làm quan để gúp đời luôn không được như mong muốn.

   Bài thơ được viết theo thể hành ca, một thể thơ cổ của Trung Hoa được du nhập vào Việt Nam. Chúng ta có thể nhắc đến một số bài thơ cùng thể loại như “Phóng cuồng ca”của Trần Tung, “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi hay “Long thành cầm giả ca” của Nguyễn Du. “Sa hành đoản ca” với những câu thơ dài ngắn linh hoạt, vần thơ, nhịp thơ không gò bó mà phóng túng, con người có khi được miêu tả như một khách thể, khi lại là người đối thoại, chủ thể khi ẩn khi hiện thể hiện được những tâm trạng, cảm xúc khác nhau trước những hòan cảnh khác nhau của thi sĩ.

   “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” với những nét độc đáo riêng đã bộc lộ sự chán ghét thực tại xã hội phong kiến đương thời của cụ Quát đồng thời cũng cho thấy “tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc mới lạ khác với cái nhìn truyền thống” của thi nhân họ Cao.

   

    Cao Bá Quát đã từng viết: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – suốt cả đời ông chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp thanh nhã, cao sang của hoa mai, chứ nhất quyết không cúi đầu trước cường quyền. Sinh thời vào buổi loạn lạc, nhiễu nhương dù mang trong mình cái hùng tâm cống hiến cho đời nhưng ông phải chịu nhiều bất công. Nỗi oán ghét thực tại, phường danh lợi đã được ông thể hiện biết bao xúc động trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”.

    Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải băng qua những bãi cát dài, mênh mông không biết đích đến. Chính trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời sống và phương danh lợi tầm thường.

    Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nuối tiếp nhau đến tận chân trời và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút cố gắng vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt:

    Bãi cát dài lại bãi cát dài,

    Đi một bước như lùi một bước.

    Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực về những bãi cát nối tiếp nhau và những bước chân nặng nề của người lữ khách trên con đường đó. Bãi cát còn chính là hình ảnh biểu tượng về “danh lợi” – nó như một miếng mồi béo bở, níu kéo, hấp dẫn người lữ khách. Nên đi hay nên quay đầu lại? Câu hỏi ấy cứ vang vọng trong tâm tưởng người lữ khách. Trong không gian ấy, người lữ khách không còn làm chủ, mà bị nuốt trọn, lọt thỏm giữa không gian mênh mông, vô tận. Họ bé nhỏ trong cái rộng lớn của vũ trụ, những bước đi ngày một kiệt quệ, mệt mỏi nhưng vẫn phải tiếp tục gắng gượng: “Mặt trời đã lặn, chưa dừng được/ Lữ khách trên đường nước mắt rơi”. Những giọt nước mắt nhọc nhằn, cay đắng, không thể dừng lại, bởi vậy khi mặt trời đã xuống núi kẻ tìm công danh vẫn phải mải miết bước tiếp. Giọt nước mắt ấy còn thể hiện nỗi đau, sự bất lực, chán nản, bế tắc của người lữ khách. Liệu có con đường nào khác cho ông và những chí sĩ như ông không? Rồi chính người lữ khách lại tự trả lời: “Không học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Phường danh lợi vẫn là một lực hút quá lớn với người lữ khách, làm sao đê thoát khỏi chúng, làm sao để có một tâm hồn thư thái, thanh thản như ông tiên để lánh xa danh lợi tầm thương. Vì sao mãi phải nhọc nhằn trèo đèo, lội suối khi biết rõ chúng là tầm thường, giả dối, bởi vậy lữ khách tự giận với chính mình.

    Xưa nay phường danh lợi

    Tất tả trên đường đời

    Đầu gió men thơm quán rượu,

    Người say vô số tỉnh bao người.

    Danh lợi cũng như một thứ hơi men, tuy nhẹ mà ngấm sâu, khiến người ta khó lòng có thể tỉnh táo để nhận định phải trái, đúng sai. Bởi vậy, ai đã lỡ vướng vào phường danh lợi thường khó có thể dứt ra, người say thì vô số, người tỉnh còn được mấy ai. Không chỉ vậy, gắn với lợi danh con người ta sẽ mất đi sự thanh tĩnh trong tâm hồn, phải đua chen vất vả, phải tranh giành, hãm hại lẫn nhau để đảm bảo lợi ích cho bản thân.

    Bảy dòng thơ cuối cùng là kết tinh tư tưởng, là ý chí quyết tâm từ bỏ lợi danh của tác giả: “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!/ Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít”. Con đường đời lắm ngả, người lữ khách không biết phải chọn hướng nào, không biết phải đi về đâu, giữa bãi cát dài mênh mông người lữ khách mông lung, tự đặt câu hỏi cho chính mình “tính sao đây” khi đường bằng mờ mịt, không lối thoát, đường ghê sợ chập trùng bủa vây trước mắt. Đọc câu thơ của ông ta chợt nhớ về đúc kết của Lí Bạch: “Hành lộ nan, hành lộ nan/ Đa kì lộ, ki, an tại?”. Đây đều là những băn khoăn của bậc đại trí thức về con đường công danh mờ mịt, nhiều gian truân trong xã hối rối ren, bất ổn.

    Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

    Phía nam núi Nam, sóng dào dạt

    Bốn phía đều là hiểm nguy bủa vây, đó là một không gian tù hãm, không lối thoát. Đó cũng chính là số phận của biết bao tri thức Nho học cuối mùa khi họ không tìm thấy đường đi cho mình, rẽ lối nào cũng là tăm tối, đường cùng. Còn với Cao Bá Quát ông dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn, thoát ra khỏi con đường tăm tối, tìm cho mình lối đi riêng: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Câu hỏi tu từ cuối bài vừa là lời khẳng định của tác giả về việc từ bỏ con đường danh lợi tầm thường, vừa như một lời cổ vũ, thúc giục với những người khác hãy vững tâm, tự tin bước ra khỏi con đường đấy, tìm cho bản thân một con đường khác. Cũng chính bởi tư tưởng đó đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát vào năm 1854, mặc dù thất bại, mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể hiện được tầm vóc tư tưởng lớn lao của một con người vĩ đại.

    Với hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, tác phẩm đã để lại cho mỗi người đọc những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Không chỉ vậy, với tác phẩm này Cao Bá Quát đã thể hiện nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng, nhân cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 984

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống