Văn mẫu lớp 11 Học kì 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.

   Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trăm hoa. Cuối đời, ông sông ở Nam Định

   Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình… Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.

   Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.

   “Tương tư” có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:

    Thôn Đoài ngôi nhớ thôn Đông

    Một người chín nhớ mười thương một người

   Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:

    Hai thôn chung lại một làng

    Cớ sao bên ấy không sang bên này?

   Đến than thở:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

   Đến hờn trách mát mẻ:

    Bảo rằng cách trở đò ngang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

   Rồi nôn nao mơ tưởng:

    Bao giờ bến mới gặp đò

    Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

    Đến những ước vọng xa xôi

    Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có môt hàng cau liên phòng

   Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.

   Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:

   Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế, Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.

   Người xưa nói:

    “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”

    (Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)

   Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu

   Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

   Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang kên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

   Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngã sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm”. Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhận của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao!. Lối diễn đạt như thế thật tinh tế ý nhị.

   Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.

   Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…

   Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê khiến cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nũa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được.

   Hình ảnh, tâm trạng và cách diễn tả đậm chất dân gian của thơ Nguyễn Bính trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đốỉ tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ…”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

   Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,… cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài… thôn Đông”, “một người… một người”. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.

   Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thông Đông, một người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.

   Các cặp đối trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sâu và hồn thơ Nguyễn Bính.

   So sánh bài “Tương tư” của Nguyễn Bính với những Ca dao yêu thương, tình nghĩa (trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao, tập một).

   Những nét truyền thống về nghệ thuật: Đề tài tương tư, những hình ảnh thơ truyền thống (lá trầu xanh, trầu vàng, cau liên phòng, cách trở đò giang..,) thể thơ lục bát..

   Những cách tàn nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thành ngữ “cách trở đò giang” – Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”, “chín nhớ mười mong” …

Đề bài: Phân tích TƯƠNG TƯ của Nguyễn Bính.

   Nguyễn Bính là gương mặt khá tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Thơ Nguyễn Bính giàu âm điệu trữ tình dân gian yà cách diễn đạt ý nhị, duyên dáng, hình ảnh mộc mạc về con người và quê hương. Bài thơ Tương tư được sáng tác năm 1939, in trong tập Lỡ bước sang ngang (1940). Bài thơ thể hiện tâm trạng của một chàng trai làng quê với mối tình đơn phương nồng cháy mà kín đáo qua thể thơ lục bát quen thuộc.

   Tương tư (nhớ nhau) là quy luật của tình cảm, Chàng trai thổ lộ tâm tình rất tự nhiên:

    Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông

    Một người chín nhớ mười mong một người

   Câu thơ sử dụng hình ảnh Đoài, Đông, biện pháp ẩn dụ và thành ngữ chín nhớ mười mong quen thuộc trong ca dao, đã bộc lộ nỗi nhớ nhung da diết nhưng kín đáo tế nhị mang phong cách thơ ca dân gian. Đó là nỗi lòng thương thầm lặng của chàng trai chân quê. Chẳng cần bóng gió, chàng trai chân thành bộc bạch:

    Gió mưa là bệnh của trời,

    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

   Mượn quy luật tự nhiên để nói đến quy luật của tình yêu: khẳng định tình yêu nàng như lẽ tự nhiên của tạo hóa. Cách bày tỏ tình yêu thẳng thắn đã thể hiện cái tôi thành thật của Thơ mới.

   Nỗi lòng yêu thương nhung nhớ của chàng trai được bày tỏ vừa kín đáo bộc trực nên thơ Nguyễn Bính vừa hiện đại vừa mang phong cách dân ca.

   Tương tư với tất cả nỗi lòng tha thiết của chàng trai. Chàng trai liên tục đặt câu hỏi trong tâm tưởng:

   Trách móc bâng quơ: Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

   Giận hờn: Không sang là chẳng đường sang đã đành

   Trăn trở thao thức, mong mỏi: Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

   Ước mơ gặp gỡ: Bao giờ bến mới gặp đò

   Khát khao hạnh phúc: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?

   Những cung bậc của tình cảm và nỗi tương tư xuất phát từ tình yêu chân thành tha thiết của chàng trai.

   Điệp ngữ: Ngày qua ngày lại qua ngày diễn tả thời gian trôi đi nhanh chóng và vô nghĩa, cho thấy nỗi lòng trống vắng của tình yêu đơn phương. Tâm trạng mang nỗi nhớ triền miên day dứt, nỗi sầu muộn trong lòng đã dâng lên làm héo úa cảnh vật Lá xanh nhuộm đã thành cây là vàng. Không gian đong đầy thương nhớ đã làm hao mòn thế giới, làm cảnh vật tàn tạ:

    Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

    Đêm đêm vầng sáng hào gầy đêm đêm

            (Ca dao)

   Tình yêu đơn phương mãnh liệt mà lặng lẽ đầy e ngại đã nhân rộng khoảng cách không gian:

    Bảo rằng cách trở đò ngang

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

   Tình càng xa xôi chàng trai càng tha thiết mong được đồng cảm:

    Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

   Nhịp thơ gập ghềnh diễn tả nỗi lòng thổn thức, day dứt. Nỗi nhớ được phong kín không thể giãi bày. Hàng loạt hình ảnh ẩn dụ: bến – đó, hoa – bướm, cau – trầu., đã diễn tả niềm mong ước thầm kín về hạnh phúc lứa đôi của chàng trai.

   Nhờ sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao nên bài thơ mang đậm phong cách dân gian, diễn tả hồn quê, tình quê chân thành kín đáo của chàng trai. Và những hình ảnh đáo lại mở ra một không gian miền quê gần gũi thân thương, quyện chặt với mối tình chân quê của con người.

   Mở đầu là hình ảnh Đoài – Đông, kết thúc cũng là hình ảnh ấy. Cách kết cấu vòng tròn diễn tả tình yêu khép kín trong nỗi tương tư. Đó là tình yêu đơn phương.

   Nỗi nhớ mong, tương tư có nhiều cung bậc, sắc thái và nỗi khát khao hạnh phúc của chàng trai với mối tình đơn phương được diễn đạt khá tự nhiên, nhuần nhị qua hình thức mang âm hưởng ca dao. Bài thơ đã nói khá chân thực và tiêu biểu tình yêu của những trai làng: yêu mà không dám thổ lộ. Đó chính là nét dẹp tâm hồn thuần Việt.

   Bài thơ thể hiện rõ phong cách thơ Nguyễn Bính, trong khi các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây hiện đại thì thơ Nguyễn Bính quay lại tìm về với những hình thức, vần điệu nhuần nhị của ca dao. Do đó thơ Nguyễn Bính thấm được hồn quê đất nước.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính

   Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.

   Tâm trạng của người con trai trong bài thơ

   Bản chất tầm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều.

   Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau:

   Nhớ nhung:

    Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

    Một người chín nhớ mười mong một người

    Gió mưa là bệnh của giời

    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

   Băn khoăn, dỗi hờn:

    Hai thôn chung lại một làng

    Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

   Than thở:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

   Hờn trách:

    Bao rằng cách trở đò ngang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

    Tương tư thức mấy đêm rồi

    Biêt cho ai, hỏi ai người biết cho?

   Nôn nao, mơ tưởng:

    Bao giờ biết mới gặp đò?

    Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

   Ước vọng xa xôi:

    Nhà em có một giàn trầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thông Đông

    Cau thôn Đoài nhở giầu không thôn nào?

   Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu

   Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài.

   Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu.

   Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác.

   Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự quy kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu.

   Cách biểu hiện thời gian của tác giả

   Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn tả thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian.

   Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày

   Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục trong lục bát truyền thống đã được ngắt thành 3/3: Ngày qua ngày/ Lại qua ngày. Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến chữ lại ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới lặp lại ngày cũ một cách chán ngán vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở kể lể ngán ngẫm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

   Câu bát: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

   Câu thơ diễn tả thời gian và tậm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp nhưng mới thể hiện qua lời kể. Đến câu sau, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian thể hiện qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá hãy còn xanh, đến nay lá đã chuyển sang vàng rồi, thế mà vô vọng hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng dường như không tìm một điểm chung với nhau; thời gian càng chậm tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Tinh tế nhất trong cách diễn tả có lẻ là chữ nhuộm. Chữ nhuộm diễn tả thời gian chậm chạp. Có thể so sánh chữ nhuốm trong hai câu thơ sau của Nguyễn Du:

    Người lên ngựa kẻ chia bào

    Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

   Nhuốm nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn nhuộm thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ nhuộm còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính.

   Khung cảnh chốn quê trong bài thơ

   Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh cây và cỏ chốn quê.

   Những chi tiết trong bài thơ, về địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…

   Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê để nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện, vào nhau đựợc.

   Cách diễn tả tâm trạng của Nguyễn Bính

   Cách tạo hình độc đáo, hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gáí thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát thành thôn Đoài ngồi nhờ thôn thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn vớỉ hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ… Nhưng sâu xa hơn, cách diễn đạt đó còn diễn tả một quy luật tâm lí. Khi tương tư thì cả không gian bao quanh chủ thể cũng như nhuốm nỗi tương tư ấy, vì thế trong bài thơ có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

   Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông; dùng thành ngữ chín nhớ mười mong; dùng số từ một, chín, mười, cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy dối tượng về hai đầu câu thơ, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài… thôn Đông, Một người…. một người). Lối sử dụng ngôn ngữ gợi được không vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể, rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư.

Đề bài: Phân tích TƯƠNG TƯ của Nguyễn Bính.

    Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trăm hoa. Cuối đời, ông sông ở Nam Định

    Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình… Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.

    Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.

    “Tương tư” có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:

    Thôn Đoài ngôi nhớ thôn Đông

    Một người chín nhớ mười thương một người

    Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:

    Hai thôn chung lại một làng

    Cớ sao bên ấy không sang bên này?

    Đến than thở:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

    Đến hờn trách mát mẻ:

    Bảo rằng cách trở đò ngang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

    Rồi nôn nao mơ tưởng:

    Bao giờ bến mới gặp đò

    Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

    Đến những ước vọng xa xôi

    Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có môt hàng cau liên phòng

    Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.

    Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:

    Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế, Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.

    Người xưa nói:

    “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”

    (Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)

    Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu

    Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

    Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang kên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

    Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngã sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm”. Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhận của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao!. Lối diễn đạt như thế thật tinh tế ý nhị.

    Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.

    Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…

    Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê khiến cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nũa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được.

    Hình ảnh, tâm trạng và cách diễn tả đậm chất dân gian của thơ Nguyễn Bính trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đốỉ tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ…”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

    Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,… cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài… thôn Đông”, “một người… một người”. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.

    Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thông Đông, một người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.

    Các cặp đối trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sâu và hồn thơ Nguyễn Bính.

    So sánh bài “Tương tư” của Nguyễn Bính với những Ca dao yêu thương, tình nghĩa (trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao, tập một).

    Những nét truyền thống về nghệ thuật: Đề tài tương tư, những hình ảnh thơ truyền thống (lá trầu xanh, trầu vàng, cau liên phòng, cách trở đò giang..,) thể thơ lục bát..

    Những cách tàn nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thành ngữ “cách trở đò giang” – Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”, “chín nhớ mười mong” …

    Nguyễn Bính là gương mặt khá tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Thơ Nguyễn Bính giàu âm điệu trữ tình dân gian yà cách diễn đạt ý nhị, duyên dáng, hình ảnh mộc mạc về con người và quê hương. Bài thơ Tương tư được sáng tác năm 1939, in trong tập Lỡ bước sang ngang (1940). Bài thơ thể hiện tâm trạng của một chàng trai làng quê với mối tình đơn phương nồng cháy mà kín đáo qua thể thơ lục bát quen thuộc.

    Tương tư (nhớ nhau) là quy luật của tình cảm, Chàng trai thổ lộ tâm tình rất tự nhiên:

    Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông

    Một người chín nhớ mười mong một người

    Câu thơ sử dụng hình ảnh Đoài, Đông, biện pháp ẩn dụ và thành ngữ chín nhớ mười mong quen thuộc trong ca dao, đã bộc lộ nỗi nhớ nhung da diết nhưng kín đáo tế nhị mang phong cách thơ ca dân gian. Đó là nỗi lòng thương thầm lặng của chàng trai chân quê. Chẳng cần bóng gió, chàng trai chân thành bộc bạch:

    Gió mưa là bệnh của trời,

    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

    Mượn quy luật tự nhiên để nói đến quy luật của tình yêu: khẳng định tình yêu nàng như lẽ tự nhiên của tạo hóa. Cách bày tỏ tình yêu thẳng thắn đã thể hiện cái tôi thành thật của Thơ mới.

    Nỗi lòng yêu thương nhung nhớ của chàng trai được bày tỏ vừa kín đáo bộc trực nên thơ Nguyễn Bính vừa hiện đại vừa mang phong cách dân ca.

    Tương tư với tất cả nỗi lòng tha thiết của chàng trai. Chàng trai liên tục đặt câu hỏi trong tâm tưởng:

    Trách móc bâng quơ: Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

    Giận hờn: Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Trăn trở thao thức, mong mỏi: Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

    Ước mơ gặp gỡ: Bao giờ bến mới gặp đò

    Khát khao hạnh phúc: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?

    Những cung bậc của tình cảm và nỗi tương tư xuất phát từ tình yêu chân thành tha thiết của chàng trai.

   Điệp ngữ: Ngày qua ngày lại qua ngày diễn tả thời gian trôi đi nhanh chóng và vô nghĩa, cho thấy nỗi lòng trống vắng của tình yêu đơn phương. Tâm trạng mang nỗi nhớ triền miên day dứt, nỗi sầu muộn trong lòng đã dâng lên làm héo úa cảnh vật Lá xanh nhuộm đã thành cây là vàng. Không gian đong đầy thương nhớ đã làm hao mòn thế giới, làm cảnh vật tàn tạ:

    Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

    Đêm đêm vầng sáng hào gầy đêm đêm

    (Ca dao)

    Tình yêu đơn phương mãnh liệt mà lặng lẽ đầy e ngại đã nhân rộng khoảng cách không gian:

    Bảo rằng cách trở đò ngang

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

    Tình càng xa xôi chàng trai càng tha thiết mong được đồng cảm:

    Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

    Nhịp thơ gập ghềnh diễn tả nỗi lòng thổn thức, day dứt. Nỗi nhớ được phong kín không thể giãi bày. Hàng loạt hình ảnh ẩn dụ: bến – đó, hoa – bướm, cau – trầu., đã diễn tả niềm mong ước thầm kín về hạnh phúc lứa đôi của chàng trai.

    Nhờ sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao nên bài thơ mang đậm phong cách dân gian, diễn tả hồn quê, tình quê chân thành kín đáo của chàng trai. Và những hình ảnh đáo lại mở ra một không gian miền quê gần gũi thân thương, quyện chặt với mối tình chân quê của con người.

    Mở đầu là hình ảnh Đoài – Đông, kết thúc cũng là hình ảnh ấy. Cách kết cấu vòng tròn diễn tả tình yêu khép kín trong nỗi tương tư. Đó là tình yêu đơn phương.

    Nỗi nhớ mong, tương tư có nhiều cung bậc, sắc thái và nỗi khát khao hạnh phúc của chàng trai với mối tình đơn phương được diễn đạt khá tự nhiên, nhuần nhị qua hình thức mang âm hưởng ca dao. Bài thơ đã nói khá chân thực và tiêu biểu tình yêu của những trai làng: yêu mà không dám thổ lộ. Đó chính là nét dẹp tâm hồn thuần Việt.

    Bài thơ thể hiện rõ phong cách thơ Nguyễn Bính, trong khi các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây hiện đại thì thơ Nguyễn Bính quay lại tìm về với những hình thức, vần điệu nhuần nhị của ca dao. Do đó thơ Nguyễn Bính thấm được hồn quê đất nước.

    Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.

    Tâm trạng của người con trai trong bài thơ

   Bản chất tầm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều.

    Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau:

    Nhớ nhung:

    Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

    Một người chín nhớ mười mong một người

    Gió mưa là bệnh của giời

    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

    Băn khoăn, dỗi hờn:

    Hai thôn chung lại một làng

    Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

    Than thở:

    Ngày qua ngày lại qua ngày

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

    Hờn trách:

    Bao rằng cách trở đò ngang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

    Tương tư thức mấy đêm rồi

    Biêt cho ai, hỏi ai người biết cho?

    Nôn nao, mơ tưởng:

    Bao giờ biết mới gặp đò?

    Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

    Ước vọng xa xôi:

    Nhà em có một giàn trầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thông Đông

    Cau thôn Đoài nhở giầu không thôn nào?

    Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu

    Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài.

    Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu.

    Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác.

    Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự quy kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu.

    Cách biểu hiện thời gian của tác giả

    Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn tả thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian.

    Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày

    Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục trong lục bát truyền thống đã được ngắt thành 3/3: Ngày qua ngày/ Lại qua ngày. Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến chữ lại ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới lặp lại ngày cũ một cách chán ngán vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở kể lể ngán ngẫm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

    Câu bát: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

    Câu thơ diễn tả thời gian và tậm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp nhưng mới thể hiện qua lời kể. Đến câu sau, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian thể hiện qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá hãy còn xanh, đến nay lá đã chuyển sang vàng rồi, thế mà vô vọng hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng dường như không tìm một điểm chung với nhau; thời gian càng chậm tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Tinh tế nhất trong cách diễn tả có lẻ là chữ nhuộm. Chữ nhuộm diễn tả thời gian chậm chạp. Có thể so sánh chữ nhuốm trong hai câu thơ sau của Nguyễn Du:

    Người lên ngựa kẻ chia bào

    Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

    Nhuốm nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn nhuộm thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ nhuộm còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính.

    Khung cảnh chốn quê trong bài thơ

    Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh cây và cỏ chốn quê.

    Những chi tiết trong bài thơ, về địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…

    Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê để nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện, vào nhau đựợc.

    Cách diễn tả tâm trạng của Nguyễn Bính

    Cách tạo hình độc đáo, hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gáí thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát thành thôn Đoài ngồi nhờ thôn thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn vớỉ hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ… Nhưng sâu xa hơn, cách diễn đạt đó còn diễn tả một quy luật tâm lí. Khi tương tư thì cả không gian bao quanh chủ thể cũng như nhuốm nỗi tương tư ấy, vì thế trong bài thơ có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

    Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông; dùng thành ngữ chín nhớ mười mong; dùng số từ một, chín, mười, cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy dối tượng về hai đầu câu thơ, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài… thôn Đông, Một người…. một người). Lối sử dụng ngôn ngữ gợi được không vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể, rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính

   Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc — lục bát.

   Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu., Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa, nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:

    Bảo rằng cách trở đò giang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

    Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

   Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng để đâu) mà để thầy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.

   Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:

    Ai bảo em là giai nhân

    Cho đời anh sầu khổ

    Ai bảo em ngồi bên cửa sổ

    Cho vướng víu nợ thi nhân.

            (Lưu Trọng Lư – Một mùa đông

   hoặc:

    Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng

    Mà sầu trong dạ đã mang mang

    Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh

    Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.

            (Lưu Trọng Lư – Một chút tình)

   Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trần..) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gọi đò?/ Nhà em có một giàn giầu…) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.

Đề bài: Bình giảng khổ cuối bài “Tương tư” của Nguyễn Bính

    “Nhà em có một giàn giầu,

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”.

   “Nắng mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”… Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi hai mươi đã làm gần một nghìn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát. Ở những bài thơ ấy, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”.

   Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao… Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:

    “Nhà em có một giàn giầu,

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”.

   Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm có 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.

   Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên,tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà anh, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ước ao khao khát. Từ chỗ gọi “nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành một tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu..”. Cách xưng hô từ “tôi” – “nàng” dẫn đến “em” – “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.

   Giầu với cau đã có kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:

    “Nhà em có một giàn giầu,

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”

   Điệp ngữ “nhà… có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng”, chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ “có một” chứ chưa có đôi. Chữ một trong hai câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong vể hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.

   Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra”:

    – Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

    – Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

    – Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

    – Bao giờ bến mới gặp đò?

   Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:

    “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

   Cả một trời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”. Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cũng là thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một ước mơ hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.

   Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã vận dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài — thôn Đông, câu thơ lục bát giàu ỵần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khát khao tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm một nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân tời hi vọng…

Đề bài: : Bình giảng 4 câu cuối bài thơ “Tương tư” của thi sĩ Nguyễn Bính

    “Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

    Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?”

   Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”.

   Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao… Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:

    “Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

    Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?”

   Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tinh xa xôi?”… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.

   Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi “nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu …” Cách xưng hô từ “tôi” – “nàng” dẫn đến “em” — “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.

   Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mói có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:

    “Nhà em có một giàn cau

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng”

   Điệp ngữ “nhà … có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng” chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ “có một” chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.

   Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra”

    – Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

    – Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

    – Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

    – Bao giờ bến mới gặp đò?

   Và khép lai bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:

    “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

    Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?”

   Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.

   Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.

Đề bài: Giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Bính

   Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.

   Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế, Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.

   Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ — 1958), Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo – 1961), Người lái dò sông Vị (chèo – 1962)…

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính.

   Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ – thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945… cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.

   Chúng ta đề rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển, thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứ đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt… và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tinh yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trong thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa – Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể. Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này – như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu Âu thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm dến dân ca mới thấy được thơ chân chính.

   Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (khôn vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phới nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề ra tró xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muốn cạn tàu ráo máng… Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định… Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy – cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc – đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:

    Chàng ơi buông áo em ra

    Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa

    Chợ trưa rau nó héo đi

    Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.

   Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có lâm tình huống

    Khăn thương nhớ ai

    Khăn rơi xuống đất

    Khăn thương nhớ ai

    Khăn vắt trên vai

    Đèn thương nhớ ai

    Mà đèn không tắt

    Mắt thương nhớ ai

    Mà mắt không khô.

   Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em?

   Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng… trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc: Tiếc công anh đắp đập be bờ. Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm, Đêm qua vật đổi sao dời, Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan…, hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ: Ngày ngày em đứng em trông – Trông non non ngất, trông sông sông dài…, quả nữa là: Nhớ ai em những khóc thầm – Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa…, và trạng thái thông thường của họ là: Đêm qua ra đứng bờ ao – Trồng cá cá lặn, trông sao sao mờ – Buồn trông con nhện chăng tơ… sầu nhớ quá, nhưng… còn nhiều việc phải làm – Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!

   Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò, với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?… và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo – linh hồn anh thất thểu dõi hồn em… như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh – ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị – Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tinh thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng… đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu – tình em lẳng lặng kín như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày – Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền – Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người – Anh còn trồng cải nữa hay thôi? – Đêm qua mơ thấy hai con bướm – Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi – Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng – Hồn trinh còn ở trần gian – Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)… và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:

    Cô hái mơ ơi, cô gái ơi

    Chả trả lời nhau lấy một lời

    Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng

    Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…

   Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn..) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.

   Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho…) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) .Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu… Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn… là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lạu sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía… nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương dồng gió nội và dưới bầu: Giời cao gió cả giăng như ban ngày…

   Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 hăm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chân thành để kế thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với mội tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viển hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.

Đề bài: Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ “Tương tư” của ông để làm sáng tỏ điều đó.

   Trong khi hầu hết các nhà thơ mới theo nhận xét của Hoài Thanh “đều đội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp” thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở vể với văn hoá dân gian, với những câu hát cửa đình, giậu mồng tơi, bến đò, cây đa, giếng nước… Ông đã trở thành “chủ soái” của trường phái “thơ mới dân gian” gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu, song không mãnh liệt, gấp gáp như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, cũng không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tmh yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Điều đó thể hiện rất rõ trong “Tương tứ” – bài thơ nổi tiếng của thi sĩ.

   Tương tư là một trong bốn trạng thái tâm lí của nam nữ yêu nhau, nên bài thơ hiển nhiên nằm trong thi tứ quen thuộc của thơ ca muôn đời. Trong Kinh Thi, người Trung Quốc đã bảo nhau: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”(Một ngày không gặp nhau dài như ba năm). Như thế, cách đây hàng nghìn năm, người ta đã phát hiện triệu chứng nhớ nhau của bệnh tương tư. Trước khi Nguyễn Bính viết”Tương tứ” từ rất lâu ca dao ta đã có rất nhiều bài diễn tả trạng thái này như:

    “Khăn thương nhớ ai,

    Khăn rơi xuống đất.

    Khăn thương nhớ ai,

    Khăn vắt lên vai.

    Khăn thương nhớ ai,

    Khăn chùi nước mắt”.

   Đến Thơ mới khi mà tình cảm riêng tư của con người được giải phóng, mối tương tư cũng thành trăm hình vạn trạng. Nói như Lưu Trọng Lư: “Có cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình trong giây lát…” và chúng đã hoá thành – “Tương tư chiều” của Xuân Diệu, “Hai sắc hoa Tigôn” của TTKH… – những bài thơ nổi tiếng một thời. Như vậy, trước Nguyễn Bính đã có những đỉnh cao, vượt qua không phải là dễ, song “Tương tứ” của ông không những sống mà còn sống mãi. Bài thơ là sự rung động rất tinh tế của thi sĩ; Thơ mới kết hợp nhuần nhuyễn với thơ ca dân tộc; chất dân gian được thể hiện trước hết ở sự lựa chọn nhân vật trữ tình. Đó là một chàng trai chân quê có cảm tình với một cô gái đồng nội. Có lẽ đôi bên mới gặp nhau đâu đó trong một buổi tát nước đêm trăng:

    “Hôm qua trăng sáng mờ mờ,

    Em đi tát nước tình cờ gặp anh”.

   Hay trong một dịp đi hát sân đình:

    “Hỡi cô hát ống tối qua,

    Đêm nay hát nữa cho ta hát cùng”.

   Nếu chàng cũng mạnh dạn “xăm xăm băng lối” thì có lẽ chả có chuyện, nhưng ở đây lại “Một người chín nhớ mười mong một người”. Cái “tôi” trữ tình của chàng trai là cái “tôi” rất đa tình, nhưng không bạo dạn như trong thơ Xuân Diệu “phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần”, mà nhút nhát như cái chất vốn có của những chàng trai quê:

    “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,

    Nhớ người yếm thắm dải điều thắt lưng”.

   Chính cái “tôi” đa tình nhưng nhút nhát ấy đã dẫn đến một nghịch lí. Cái “tôi” được đặt trong tâm cảnh nhớ mong, xa xôi cách trở trong lúc không có một khoảng cách nào. Nguyễn Bính rất giỏi diễn tả sự xa cách nhớ thương, có khi đó chỉ là “một giậu mồng tơi” và lần này là cách một đầu đình:

    “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

    Một người chín nhớ mười mong một người”.

   “Thôn Đoài”, “thôn Đông” là những từ ngữ chỉ địa danh làng xóm quen thuộc trong ca dao, dân ca, khác với những từ bóng bẩy của Thơ mới, nó được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ khiến cho bài thơ có dáng dấp đồng quê mộc mạc. “Một người chín nhớ mười mong một người”, câu thơ chứa đựng một cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. “Một người” đầu câu,”một người” ở cuối câu thơ, còn ở giữa là một thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Cấu trúc ấy khiến ta liên tưởng đến một bài ca:

    “Chàng ở đầu sông Tương,

    Thiếp ở cuối sông Tương.

    Cùng uống nước sông Tương,

    Thế mà cùng chẳng thấy”.

   Câu thơ của Nguyễn Bính gợi lên hình ảnh một người ở đầu này, một người ở đầu kia, song cái ngáng trở chính là sự nhút nhát, rụt rè chân quê. Chàng trai núp vào “thôn Đoài” như các chàng trai trong ca dao núp vào “mận” vào “đào”. “Bây giờ mận mới hỏi đào. Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”. Song với cách nói bóng gió, chàng trai đã ngầm bày tỏ với cô gái nỗi nhớ nhung xa cách đang diễn ra trong lòng chàng và niềm ao ước hạnh phúc được gặp, được gần người mình yêu. “Thôn Đoài”, “thôn Đông” là khoảng cách gần đủ để quen biết mà cũng đủ xa để nhớ thương. Qua đây, chàng trai đã ý nhị giới thiệu cô gái cũng chân quê như chàng, xứng đôi vừa lứa đủ để chàng bắc nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lời nói được hoán cải từ thành ngữ “chín nhớ mười thương” mà chàng trai dùng để bộc lộ nỗi riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp,”tình yêu chưa được đền đáp. Thậm chí người ta còn chưa biết mặt, nên sinh ra bệnh tương tư, bệnh nhớ. Cái nhớ của một người dành cho một người. Phải chăng đó là bi kịch trong tình yêu? Chàng trai đành thổ lộ lòng mình với người trong mộng, với cô gái trong tưởng tượng:

    “Hai thôn chung lại một làng,

    Cớ sao bên ấy, chẳng sang bên này?

    Ngày qua ngày lại qua ngày,

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

    Bảo rằng cách trở đò giang,

    Không sang là chẳng đường sang đã đành.

    Nhưng đây cách một đầu đình,

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

    Tương tư thức mấy đêm rồi,

    Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

    Bao giờ bến mới gặp đò?

    Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau.”

   Cách đây 200 năm, Kim Trọng tương tư Thuý Kiều và bày tỏ tâm trạng nhớ thương “Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn”. Còn lời của chàng trai trong bài thơ không phải là lời thể hiện thế giới nhớ nhung mà là lời than, lời kể lể và lạ lùng nhất là lời trách móc như những câu hỏi xoáy vào lòng người: Cớ sao? có xa xôi mấy? Bao giờ mới gặp? Điều ấy không hề thấy trong ca dao và trong văn chương bác học vì nó trái với quy luật. Từ xưa đến nay, trong chuyện tình cảm, người con trai thường phải đến với người con gái.

   Đằng này cô gái trong bài thơ đâu biết có người yêu mình thế mà chàng lại than lại trách. Nhưng đấy chính là chỗ hay của bài thơ. Lời than của chàng trai bề-ngoài thì vô lí, nhưng đọc lên ai cũng cảm thông vì đó là sự thể hiện cái “tôi” nhút nhát, chân quê và tình cảm sâu đậm của chàng thay đổi qua không gian và thời gian mà rõ nhất là về không gian. Tất cả những gì thuộc về thế giới của người yêu đối với chàng đều rất gần gũi, gần gũi đến mức không còn khoảng cách.

    “Hai thôn chung lại một làng”

   Đúng là khi đang yêu, người ta muốn hoà nhập làm một. Tản Đà đã từng có câu: “Mình với ta tuy hai mà một — Ta với mình tuy một mà hai”. Mong ước hoà nhập nhưng không thể vì vẫn còn “bên ấy”, “bên này”, vẫn còn ngăn cách. Chỉ cách nhau có một đầu đình mà không sang được thì đúng là không gian không xa mà tình ý lại xa. Tình cảm của chàng trai dành cho cô gái sậu đậm, nó còn được thể hiện qua thời gian:

    “Ngày qua ngày lại qua ngày,

    Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”

   Dường như chàng trai đang đếm từng ngày chầm chậm trôi qua; thời gian như kéo dài trong lòng người tương tư. Sự chờ đợi còn làm thay đổi cả hình cây với lá, cũng có nghĩa là sự chờ đợi đến héo hon của chàng trai qua nhiều ngày: “Tương tư thức mấy đêm rồi”. Nhưng với cái lành mạnh, khoẻ khoắn của người Việt Nam, chàng trai hi vọng:

    “Bao giờ bến mới gặp đò?

    Hoa kheê các, bướm giang hồ gặp nhau?”

   “Bến” và “đò” là những ẩn dụ quen thuộc trong ca dao, dân ca. Nguyễn Bính đã sử dụng chất liệu dân gian, tạo cho bài thơ âm hưởng ca dao mộc mạc, nhưng đổng thời mang tinh thần của Thơ mới qua hình ảnh “hoa khuê các”, “bướm giang hồ”. Lại vẫn là câu hỏi: “bao gỉờ?” nhưng nó cũng hàm chứa cả hi vọng, vì con đò có trôi nổi đến đâu, cuối cùng cũng sẽ quay về với bến và bông hoa kia dù có nở trong “khuê các” thì cũng không thể ngăn bướm giang hồ; Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh cô đọng “trầu- cau” và nỗi nhớ thương khôn nguôi:

    “Nhà em có một giàn giầu,

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

   Trong văn chương Việt Nam, trầu cau là biểu tượng cho tình yêu và hôn nhân. Bốn câu thơ là niềm mong ước trong sáng và chân thật của người đang yêu, chân thật như chính tình cảm mà chàng trai đã dành cho cô gái. Song ước mơ ấy cũng chỉ nằm trong mộng tưởng mà thôi. Từ nỗi nhớ của một người dành cho một người ở đầu bài, đến cuối bài đã thành vùng không gian này nhớ vùng không gian kia, mà là nỗi nhớ của trầu và cau – những sản vật không thể thiếu trong lễ cưới hỏi. Trong nỗi nhớ nhung tương tư ấy đã thắp lên ước mơ muôn thuở của tình yêu “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”…

   Không ồn ào mà dịu êm, không dữ dội mà lặng lẽ, không mãnh liệt mà chân thành mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Đó chính là tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, sâu lắng mà không kém phần da diết, đã dệt nên khúc “Tương tứ” cho muôn đời:

    “Tương tư thức mấy đêm rồi

    Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?”

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 934

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống