Văn mẫu lớp 11 Học kì 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ thời xưa qua các bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ và Trần Tế Xương

I. Mở bài

– Giới thiệu hình tượng người phụ nữ xưa đã đi vào thơ văn của rất nhiều tác giả trung đại …Trong đó nổi bật là hình tượng người phụ nữ trong thơ của hai tác giả: Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương

– Hai bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp và số phận của hình tượng người phụ nữ trong xã hội xưa

II. Thân bài

1. Nhưng người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu số phận vất vả, lênh đênh lận đận

a. Số phận của một người vợ vất vả lam lũ nuôi chồng nuôi con (Thương vợ)

– Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phỉ nuôi còn mà phải nuôi chồng

– Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:

    +”Lặn lội thân cò”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

    + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

– Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều

⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú

b. Số phận của người phụ nữ với số phận lênh đênh không tự quyết định số phận mình( Bánh trôi nước)

– “Bảy nổi ba chìm” : Thành ngữ phản ánh cuộc đời lênh đênh, sóng gió của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

– Số phận phải chịu một lần chìm nổi đã đủ lận đận, ở đây sử dụng “bảy”, “ba” càng làm tăng sự éo le trong số phận của những người phụ nữ

– “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”: Thể hiện rõ nét nhất việc không thể tự quyết định số phận mình của những người phụ nữ, số phận họ phải phụ thuộc vào những người đàn ông, vào lễ giáo phong kiến

⇒ Thân phận bị phụ thuộc, không có quyền tự quyết định số phận của mình

2. Tuy phải chịu số phận éo le nhưng ở họ toát lên những vẻ đẹp đáng quý, đáng trọng

a. Vẻ đẹp về hình thức

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”: Vẻ đẹp hình thức đáng trân trọng

    + Hai vế tiểu đối (trắng-tròn) vẻ đẹp tạo hóa đáng trân trọng, vẻ đẹp duyên dáng

⇒ Làm nên cái nữ tính đáng yêu của người phụ nữ: vẻ đẹp đáng được nâng niu.

– Câu thơ ánh lên niềm tự hào muôn thửa của phái đẹp qua cách sử dụng cặp quan hệ từ: Vừa- vừa.

– Thân em: cách nói quen thuộc trong ca dao, đậm đà màu sắc dân gian.

b. Vẻ đẹp về phẩm chất

• Phẩm chất của một người vợ, người mẹ trong Thương vợ

– Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :

    + “nuôi đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

    + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn

    + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến

• Phẩm chất thủy chung của người phụ nữ trong Bánh trôi nước

– “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”: Phẩm chất thủy chung son sắt

    + “Tấm lòng son”: Tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau như một của người phụ nữ

    + “vẫn”: dù số phận ra sao vẫn luôn giữ tấm lòng trinh tiết

3. Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm

– Ngôn ngữ thơ bình dị

– Lấy ý tứ từ ca dao tục ngữ, vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.

– Hình tượng nghệ thuật độc đáo.

– Việt hóa thơ Đường

III. Kết bài

– Khẳng định lại: Thông qua hai tác phẩm, những người phụ nữ trong xã hội xưa hiện với số phận dù lận đận những vẫn mang trong mình vẻ đẹp đáng quý

– Trình bày cảm nghĩ bản thân và liên hệ tới hình tượng người phụ nữ trong xã hội ngày nay

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ thời xưa qua các bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ và Trần Tế Xương

    Viết về người phụ nữ trong kho tàng văn học Việt Nam đặc biệt xuất hiện nhiều vào khoảng thế kỉ XVIII. Những tác phẩm là tiếng nói để khẳng định vẻ đẹp phẩm chất cũng như những nỗi truân chuyên bất hạnh trong cuộc đời họ. Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, hơn ai hết là người thấu hiểu những nỗi cơ cực mà người phụ nữ phải gánh chịu, những điều đó đã được hai tác giả thể hiện xuất sắc qua hai tác phẩm Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương), Thương vợ (Trần Tế Xương).

    Dưới chế độ phong kiến phụ nữ luôn là đối tượng bị áp bức, đè nén, họ phải chịu cảnh Tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cả cuộc đời người phụ nữ phải lệ thuộc vào người khác, họ không được quyết định số phận, hạnh phúc của đời mình. Mặc dùng phải chịu nhiều uất ức, bất công nhưng ở họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, của sự tảo tần chịu thương chịu khó.

    Hồ xuân Hương là một người phụ nữ gặp nhiều trắc trở trong chuyện tình duyên. Lấy chồng bà chỉ được làm lẽ, cô đơn, chăn đơn gối chiếc. Nhưng đồng thời bà cũng là một phụ nữ hết sức mạnh mẽ, dám lên tiếng khẳng định vẻ đẹp, giá trị của bản thân:

    Thân em vừa trắng lại vừa tròn;

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son

    Người phụ nữ tự khẳng định vẻ đẹp của chính mình. Đó là vẻ đẹp ở hình thức bề ngoài: trắng, tròn. Hình ảnh một người con gái tràn đầy sức sống và hết sức phúc hậu. Đồng thời họ còn mang trong mình tấm lòng thủy chung, son sắt dù cuộc đời kia đối với họ có nhiều bất công, ngang trái.

    Trong tác phẩm Thương vợ, vẻ đẹp của người phụ nữ lại hiện lên ở sự tảo tần, chịu thương, chịu khó:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng”.

    Câu thơ đã cho thấy khung cảnh buôn bán, làm ăn tần tảo của bà Tú để trang trải cho gia đình. Bà gánh vác không chỉ là con cái mà con là cả chồng. Tú Xương đã tự tách mình riêng ra một vế, cho thấy rõ sự tự ý thức về cái bất tài của bản thân, đồng thời ngợi ca, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của bà Tú. Dù phải gánh vác cả gia đình nhưng bà Tú không có một lời oán trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công”. Lấy ông duyên thì ít mà nợ thì nhiều, ấy vậy mà bà chẳng hề kêu ca, oán thán, bà chấp nhận số phận của mình. Qua đó cho thấy đức hi sinh thầm lặng và cao cả của bà Tú đối với gia đình.

    Mặc dù mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ, xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc, nhưng cuộc đời người phụ nữ lại gặp phải rất nhiều bất hạnh, ngang trái. Đó là người phụ nữ không thể tự quyết định số phận của mình:

    “Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”

    Cuộc đời họ, nổi nênh, vô định, họ đi đâu về đâu họ không thể biết, chữ “mặc dầu” thể hiện thái độ buông xuôi, đó cũng là lời than não nùng cho số phận nổi trôi. Không chỉ vậy, họ còn đau khổ trong cô đơn lạnh lẽo trong cảnh “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” của kiếp lấy chồng chung. Có lẽ hơn ai hết, Hồ Xuân Hương là người thấu hiểu nhất của cảnh lấy chồng chồng, bởi vậy mà đã từng có lần mà cất tiếng chửi thật đanh thép mà cũng đầy đau đớn: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”.

    Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương lại đậm tô vào sự vất vả, cực nhọc của người phụ nữ khi phải gánh vác công việc gia đình, khi phải làm trụ cột trong nhà:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng

    Lặn lội thân cò khi quãng vắng

    Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

    Không gian buôn bán của bà Tú thật chật trội và nguy hiểm đó “mom sông” phần đất nhô ra ở bờ sông, gợi lên tư thế chênh vênh, có thể ngã nhào bất cứ lúc nào. Đêm hôm phải lặn lội nơi “quãng vắng”, hoặc phải chen chúc trong những “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm, đó là nơi người ta chen nhau, tranh cướp, giành giật nhau. Câu thơ đã tái hiện cuộc sống đầy gian truân, vất vả của bà Tú, đồng thời cũng khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của bà: tảo tần, tháo vát để trang trải cuộc sống gia đình.

    Qua những bài thơ trên, người đọc cảm thể cảm nhận đầy đủ, sâu sắc nhất những vẻ đẹp phẩm chất, cũng như nỗi bất hạnh trong cuộc đời họ. Từ đó càng trân trọng, cảm thông sâu sắc cho thân phận người phụ nữ xưa. Ngày nay, người phụ nữ đã được sống trong một xã hội bình đẳng, được tôn trọng, nhưng những vẻ đẹp phẩm chất của họ thì còn trường tồn mãi cùng thời gian.

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ thời xưa qua các bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ và Trần Tế Xương

Đề tài viết về người phụ nữ luôn là mảnh đất màu mỡ cho cho chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca trung đại phát triển. Nếu thơ Hồ Xuân Hương là “Tiếng nói tâm tình của người phụ nữ” thì sau bà có Tú Xương_nhà thơ trào phúng luôn dành tình cảm sâu đậm cho người vợ của mình. Tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong thơ của hai thi sĩ là bài “Bánh trôi nước” và “Thương vợ”, qua đó người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người mang trong mình vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, đáng thương.

Mỗi một nhà thơ có một cách thể hiện tình cảm của mình đối với người phụ nữ nhưng nhìn chung trong hai bài thơ “Bánh trôi nước” và “Thương vợ” hình ảnh người họ hiện lên có những nét tương đồng là thân phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trước tiên họ là những con người có nhan sắc-vẻ đẹp bên ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét trong bài “Bánh trôi nước”. Chiếc bánh trôi nước được làm từ bột gạo nếp tinh khiết, trắng trẻo, mịn màng và tròn trịa rất dễ dàng cho người ta liên tưởng đến dung nhan xinh đẹp, hồn nhiên, đầy đặn của người con gái đang độ xuân thì. Vẻ đẹp ấy được bà so sánh trong câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Điều đó khiến cho ta nhớ tới vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao dân gian. Họ mang nét đẹp của “Tấm lụa đào”, “Cây quế giữa rừng”… tỏa hương thơm ngát với đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương bà miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ rất tài tình tiêu biểu là bài “Thiếu nữ ngủ ngày” ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của cô gái trẻ tuổi với các chi tiết gợi hình gợi cảm:

    “Lược trúc chải dài trên mái tóc,

    Yếm đào trễ xuống dưới nương long

    Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

    Một lạch đào nguyên suối chửa thông”

Cách miêu tả chân thực không một chút bỡn cợt trái lại còn rất nâng niu, trân trọng khác xa với lối viết ước lệ tượng trưng mà không chú ý đến nhan sắc người phụ nữ của các tác gia trước bà. Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ Việt.

Trong bài “Thương vợ” nhan sắc của bà Tú tuy không được Tú Xương nhắc đến nhưng mở rộng vốn văn học ta cũng phải ngẫm bà Tú ngoài phẩm hạnh tốt đẹp bên trong thì vẻ đẹp nhan sắc của bà cũng không kém ai nên mới có thể lấy được ông Tú-người học rộng và am hiểu bởi tiêu chuẩn chọn vợ trong xã hội thời xưa là con người hội tụ vẻ đẹp của “Công dung ngôn hạnh”.

Không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc qua hai bài thơ người phụ nữ còn có mang trong mình nét đẹp về phẩm hạnh đáng quý luôn son sắt, chung thủy và chịu thương chịu khó, biết hi sinh vì chồng con. Trong bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương ngợi ca “tấm lòng son”-giá trị nhân phẩm của người phụ nữ luôn vẹn nguyên trước mọi hoàn cảnh. Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói táo bạo dám tự tin khẳng định giá trị của bản thân nói riêng và nhân phẩm người phụ nữ nói chung. Còn bà Tú được Tú Xương ca ngợi bởi tấm lòng nhân hậu của bà luôn cố gắng và hết lòng hi sinh cho gia đình. Bà Tú phải vất vả ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng cơm áo gạo tiền đổ lên đôi vai người phụ nữ, “một chồng” được đặt ngang hàng với “năm con” để cho thấy số tiền phải chi tiêu cho ông Tú bằng miệng ăn, áo mặc của năm đứa con cộng lại. Nuôi một ông chồng tài hoa như ông Tú không chỉ là lo miếng cơm manh áo mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi khi đi thi… Vậy mà bà Tú đã toan lo tất cả nhưng nào dám quản công, kể lể bà cho đó là duyên nợ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” là vậy. Bà sẵn sàng chấp nhận điều đó. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là tâm trạng chung, suy nghĩ chung của người phụ nữ xưa. Trong xã hội hiện đại ngày nay với cuộc sống văn minh, phát triển nhưng liệu còn có bao nhiêu người phụ nữ có thể làm được điều đó cho gia đình?

Tuy hội tụ cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong nhưng hình ảnh người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người với số phận bé nhỏ, bất hạnh. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng cất lên tiếng khóc thương cảm, xót xa cho thân phận của họ. Không phải vô duyên vô cớ mà ông cất lên tiếng nấc thay lòng cho người phụ nữ trong “Văn chiêu hồn” với câu thơ:

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

Hay trong kiệt tác “Truyện Kiều” là lời than vãn:

    Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Trong xã hội phong kiến với những quan niệm, tư tưởng khắt khe về người phụ nữ như “Tam tòng tứ đức”, “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” rồi “Nữ nhân ngoại tộc” vô tình đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc con người vào lề thói cổ hủ lạc hậu khiến cho họ không có tiếng nói, không có quyền quyết định cho số phận cuộc đời mình. Trong bài “Bánh trôi nước” người phụ nữ là những chiếc bánh trôi để “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để cho số phận long đong lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Chi tiết ấy khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách nổi lênh đênh tượng trưng cho số kiếp nổi nênh của người phụ nữ:

    “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

Quan niệm phong kiến đã tước đoạt đi quyền làm người và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong cuộc đời, sự sống là sự tồn tại vô nghĩa chứ không được trọn vẹn đúng nghĩa với từ “Sống”.

Trong bài “Thương vợ” đó là hình ảnh người phụ nữ của gia đình-bà Tú người đã khổ về gánh nặng vật chất miếng cơm manh áo cho bảy miệng ăn lại còn khổ về mặt tinh thần. Bà hết lòng vì chồng vì con nhưng chồng nào có thấu hiểu hay không? Ông Tú tự nhận mình là một người chồng vừa bất tài vô dụng không giúp được gì lại còn “hờ hững” thờ ơ trước nỗi khổ của vợ. Nỗi khổ ấy là “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, là “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông Tú đã nhập vai, hóa thân vào bà Tú để cảm thông, thấu hiểu và cất lên lời than vãn, tiếng chửi của bà một mặt thể hiện tình cảm của ông dành cho vợ, một mặt tự trào phúng bản thân mình.

Hai bài thơ cùng một đề tài cùng làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa với vẻ đẹp dung nhan bên ngoài và tâm hồn nhân cách bên trong nhưng toát lên là thân phận bé nhỏ, phụ thuộc rất đáng thương. Họ cũng là tấm gương tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất người phụ nữ Việt. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã góp vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ-những con người gánh vác trọng trách duy trì sự sống, sự sinh tồn trên trái đất.

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ Việt nam thời xưa qua các bài “Bánh trôi nước”, “Tự tình” (bài II) của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Trần Tế Xương.

   Văn thơ trung đại Việt Nam, nhất là các tác phẩm viết bằng chữ Nôm nói nhiều đến tình yêu và số phận người phụ nữ trong cuộc đời. Hồ Xuân Hương và Tú Xương, qua “Bánh trôi nước”, “Tự tình” – Bài II, “Thương vợ” đã làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa với bao ấn tượng sâu xa, với bao cảm thương man mác.

   Bài thơ “Bánh trôi nước” có hai lớp nghĩa: tả thực chiếc bánh trôi, một món ăn dân tộc và tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. Chữ “trắng” và chữ “tròn”, hình ảnh nhân hoá “thân em” đã thể hiện vẻ đẹp khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng của “em”. Tuy tình yêu và số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến, và đạo tam tòng, vào “tay kẻ nặn”, dù “rắn nát”, dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua “bảy nổi ba chìm”, nhưng em vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ “tấm lòng son” và hai tiếng “vẫn giữ” đã ngợi ca đức hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt Nam. “Bánh trôi nước” là bức chân dung nghệ thuật với hai gam màu “trắng” và “son” tuyệt đẹp:

    “Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

    Bảy nổi ba chìm với nước non.

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

   Chùm thơ “Tự tình” ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi!

   Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống dồn “văng vẳng” từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cô đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. “Chén rượu hương đưa” cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng “say lại tỉnh” để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm “vầng trăng bóng xế”, ngắm mãi ngắm hoài mà trăng kia vẫn “khuyết chưa tròn”, Hạnh phúc mà nàng mong đợi chỉ là “Một tháng đôi lần có cũng không!”. Số phận và bi kịch ấy thật đáng thương!

   Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thoát sao được. Dù có “xiên ngang mặt đất”, dù có “đâm toạc chân mây”, nhưng đám rêu kia, mấy hòn đá nọ cũng không thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:

    “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

    Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.

   Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà còn tô đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà “lấy chồng chung”.

   Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ được “san sẻ tí con con” mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:

    “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

    Mảnh tình san sẻ tí con con!”

   “Tự tình” — Bài II không chỉ nói lên nỗi đau khổ cô đơn mà còn thể hiện niềm khao khát tình yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ “lấy chồng chung”, Giá trị nhân bản của bài thơ thật sâu sắc.

   Tú Xương có bài “Văn tế sống vợ”; ông còn có bài “Thương vợ” Cảm hứng chủ đạo là tình thương, lòng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình.

   Bà Tú là hiện thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà buôn bán tần tảo ở mom sông suốt quanh năm, không có một ngày ngơi nghỉ. Một gánh nặng gia đình được bà “nuôi đủ”:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông,

    Nuôi đủ năm con với một chồng”.

   Nhờ sự đảm đang, tháo vát của vợ mà ông Tú tuy “ăn lương vợ” nhưng khá phong lưu:

    “Cho hay công nợ âu là thế,

    Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

    Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,

    Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”

            (Tự cười mình)

   Hình ảnh “thân cò” là một sáng tạo của Tú Xương để nói vể sự làm ăn vất vả, khó nhọc của bà Tú. Cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” đã cực tả nỗi gieo neo, đức tính chịu thương chịu khó của người vợ, người mẹ trong gia đình đông con:

    “Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

    Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

   Bà Tú còn là hiện thân của đức hi sinh thầm lặng. Bà cam chịu, kiên nhẫn về duyên phận. Các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “\”năm nắng mười mưa” kết hợp với các từ ngữ “âu đành phận”, “dám quản công” cho thấy đức hạnh, tâm hồn của bà Tú thật cao quý. Bà đã sống hết mình vì cuộc sống và hạnh phúc của chồng con:

    “Một duyên hai nợ âu đành phận,

    Năm nắng mười mưa dám quản công”,

   Hai câu kết là lời nhiếc của bà Tú cũng là lời tự trách mình của nhà thơ:

    “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

    Có chồng hờ hững cũng như không”.

   “Không” là không giàu sang phú quý, không được “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau” như các bà nghè khác. “Không” là không được sống trong cảnh vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” như vợ của các thầy kí, thầy phán khác thời bấy giờ.

   Tú Xương tuy tự trách mình, nhưng ông đã nói lên tất cả tấm lòng quý trọng và biết ơn đối với người vợ hiền thục thương yêu.

   Hình ảnh bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” là hình ảnh của một người phụ nữ Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp như đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.

   Qua các bài thơ “Bánh trôi nước”, “Tự tình” – Bài II, “Thương vợ” người đọc thấy được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, càng biết ơn và tự hào về người mẹ, người chị, người vợ trong mỗi gia đình chúng ta. Đúng như Huy Cận đã viết:

    “Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,

    Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ thời xưa qua các bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ và Trần Tế Xương

I. Mở bài

– Giới thiệu hình tượng người phụ nữ xưa đã đi vào thơ văn của rất nhiều tác giả trung đại …Trong đó nổi bật là hình tượng người phụ nữ trong thơ của hai tác giả: Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương

– Hai bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp và số phận của hình tượng người phụ nữ trong xã hội xưa

II. Thân bài

1. Nhưng người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu số phận vất vả, lênh đênh lận đận

   a. Số phận của một người vợ vất vả lam lũ nuôi chồng nuôi con (Thương vợ)

– Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phỉ nuôi còn mà phải nuôi chồng

– Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:

    +”Lặn lội thân cò”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

    + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

– Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều

⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú

   b. Số phận của người phụ nữ với số phận lênh đênh không tự quyết định số phận mình( Bánh trôi nước)

– “Bảy nổi ba chìm” : Thành ngữ phản ánh cuộc đời lênh đênh, sóng gió của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

– Số phận phải chịu một lần chìm nổi đã đủ lận đận, ở đây sử dụng “bảy”, “ba” càng làm tăng sự éo le trong số phận của những người phụ nữ

– “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”: Thể hiện rõ nét nhất việc không thể tự quyết định số phận mình của những người phụ nữ, số phận họ phải phụ thuộc vào những người đàn ông, vào lễ giáo phong kiến

⇒ Thân phận bị phụ thuộc, không có quyền tự quyết định số phận của mình

2. Tuy phải chịu số phận éo le nhưng ở họ toát lên những vẻ đẹp đáng quý, đáng trọng

   a. Vẻ đẹp về hình thức

   “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”: Vẻ đẹp hình thức đáng trân trọng

    + Hai vế tiểu đối (trắng-tròn) vẻ đẹp tạo hóa đáng trân trọng, vẻ đẹp duyên dáng

⇒ Làm nên cái nữ tính đáng yêu của người phụ nữ: vẻ đẹp đáng được nâng niu.

– Câu thơ ánh lên niềm tự hào muôn thửa của phái đẹp qua cách sử dụng cặp quan hệ từ: Vừa- vừa.

– Thân em: cách nói quen thuộc trong ca dao, đậm đà màu sắc dân gian.

   b. Vẻ đẹp về phẩm chất

   • Phẩm chất của một người vợ, người mẹ trong Thương vợ

– Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :

    + “nuôi đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

    + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn

    + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến

   • Phẩm chất thủy chung của người phụ nữ trong Bánh trôi nước

– “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”: Phẩm chất thủy chung son sắt

    + “Tấm lòng son”: Tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau như một của người phụ nữ

    + “vẫn”: dù số phận ra sao vẫn luôn giữ tấm lòng trinh tiết

3. Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm

– Ngôn ngữ thơ bình dị

– Lấy ý tứ từ ca dao tục ngữ, vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.

– Hình tượng nghệ thuật độc đáo.

– Việt hóa thơ Đường

III. Kết bài

– Khẳng định lại: Thông qua hai tác phẩm, những người phụ nữ trong xã hội xưa hiện với số phận dù lận đận những vẫn mang trong mình vẻ đẹp đáng quý

– Trình bày cảm nghĩ bản thân và liên hệ tới hình tượng người phụ nữ trong xã hội ngày nay

   Viết về người phụ nữ trong kho tàng văn học Việt Nam đặc biệt xuất hiện nhiều vào khoảng thế kỉ XVIII. Những tác phẩm là tiếng nói để khẳng định vẻ đẹp phẩm chất cũng như những nỗi truân chuyên bất hạnh trong cuộc đời họ. Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, hơn ai hết là người thấu hiểu những nỗi cơ cực mà người phụ nữ phải gánh chịu, những điều đó đã được hai tác giả thể hiện xuất sắc qua hai tác phẩm Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương), Thương vợ (Trần Tế Xương).

    Dưới chế độ phong kiến phụ nữ luôn là đối tượng bị áp bức, đè nén, họ phải chịu cảnh Tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cả cuộc đời người phụ nữ phải lệ thuộc vào người khác, họ không được quyết định số phận, hạnh phúc của đời mình. Mặc dùng phải chịu nhiều uất ức, bất công nhưng ở họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, của sự tảo tần chịu thương chịu khó.

    Hồ xuân Hương là một người phụ nữ gặp nhiều trắc trở trong chuyện tình duyên. Lấy chồng bà chỉ được làm lẽ, cô đơn, chăn đơn gối chiếc. Nhưng đồng thời bà cũng là một phụ nữ hết sức mạnh mẽ, dám lên tiếng khẳng định vẻ đẹp, giá trị của bản thân:

    Thân em vừa trắng lại vừa tròn;

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son

    Người phụ nữ tự khẳng định vẻ đẹp của chính mình. Đó là vẻ đẹp ở hình thức bề ngoài: trắng, tròn. Hình ảnh một người con gái tràn đầy sức sống và hết sức phúc hậu. Đồng thời họ còn mang trong mình tấm lòng thủy chung, son sắt dù cuộc đời kia đối với họ có nhiều bất công, ngang trái.

    Trong tác phẩm Thương vợ, vẻ đẹp của người phụ nữ lại hiện lên ở sự tảo tần, chịu thương, chịu khó:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng”.

    Câu thơ đã cho thấy khung cảnh buôn bán, làm ăn tần tảo của bà Tú để trang trải cho gia đình. Bà gánh vác không chỉ là con cái mà con là cả chồng. Tú Xương đã tự tách mình riêng ra một vế, cho thấy rõ sự tự ý thức về cái bất tài của bản thân, đồng thời ngợi ca, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của bà Tú. Dù phải gánh vác cả gia đình nhưng bà Tú không có một lời oán trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công”. Lấy ông duyên thì ít mà nợ thì nhiều, ấy vậy mà bà chẳng hề kêu ca, oán thán, bà chấp nhận số phận của mình. Qua đó cho thấy đức hi sinh thầm lặng và cao cả của bà Tú đối với gia đình.

    Mặc dù mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ, xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc, nhưng cuộc đời người phụ nữ lại gặp phải rất nhiều bất hạnh, ngang trái. Đó là người phụ nữ không thể tự quyết định số phận của mình:

    “Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”

    Cuộc đời họ, nổi nênh, vô định, họ đi đâu về đâu họ không thể biết, chữ “mặc dầu” thể hiện thái độ buông xuôi, đó cũng là lời than não nùng cho số phận nổi trôi. Không chỉ vậy, họ còn đau khổ trong cô đơn lạnh lẽo trong cảnh “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” của kiếp lấy chồng chung. Có lẽ hơn ai hết, Hồ Xuân Hương là người thấu hiểu nhất của cảnh lấy chồng chồng, bởi vậy mà đã từng có lần mà cất tiếng chửi thật đanh thép mà cũng đầy đau đớn: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”.

    Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương lại đậm tô vào sự vất vả, cực nhọc của người phụ nữ khi phải gánh vác công việc gia đình, khi phải làm trụ cột trong nhà:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng

    Lặn lội thân cò khi quãng vắng

    Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

    Không gian buôn bán của bà Tú thật chật trội và nguy hiểm đó “mom sông” phần đất nhô ra ở bờ sông, gợi lên tư thế chênh vênh, có thể ngã nhào bất cứ lúc nào. Đêm hôm phải lặn lội nơi “quãng vắng”, hoặc phải chen chúc trong những “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm, đó là nơi người ta chen nhau, tranh cướp, giành giật nhau. Câu thơ đã tái hiện cuộc sống đầy gian truân, vất vả của bà Tú, đồng thời cũng khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của bà: tảo tần, tháo vát để trang trải cuộc sống gia đình.

    Qua những bài thơ trên, người đọc cảm thể cảm nhận đầy đủ, sâu sắc nhất những vẻ đẹp phẩm chất, cũng như nỗi bất hạnh trong cuộc đời họ. Từ đó càng trân trọng, cảm thông sâu sắc cho thân phận người phụ nữ xưa. Ngày nay, người phụ nữ đã được sống trong một xã hội bình đẳng, được tôn trọng, nhưng những vẻ đẹp phẩm chất của họ thì còn trường tồn mãi cùng thời gian.

   Đề tài viết về người phụ nữ luôn là mảnh đất màu mỡ cho cho chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca trung đại phát triển. Nếu thơ Hồ Xuân Hương là “Tiếng nói tâm tình của người phụ nữ” thì sau bà có Tú Xương_nhà thơ trào phúng luôn dành tình cảm sâu đậm cho người vợ của mình. Tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong thơ của hai thi sĩ là bài “Bánh trôi nước” và “Thương vợ”, qua đó người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người mang trong mình vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, đáng thương.

   Mỗi một nhà thơ có một cách thể hiện tình cảm của mình đối với người phụ nữ nhưng nhìn chung trong hai bài thơ “Bánh trôi nước” và “Thương vợ” hình ảnh người họ hiện lên có những nét tương đồng là thân phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

   Trước tiên họ là những con người có nhan sắc-vẻ đẹp bên ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét trong bài “Bánh trôi nước”. Chiếc bánh trôi nước được làm từ bột gạo nếp tinh khiết, trắng trẻo, mịn màng và tròn trịa rất dễ dàng cho người ta liên tưởng đến dung nhan xinh đẹp, hồn nhiên, đầy đặn của người con gái đang độ xuân thì. Vẻ đẹp ấy được bà so sánh trong câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Điều đó khiến cho ta nhớ tới vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao dân gian. Họ mang nét đẹp của “Tấm lụa đào”, “Cây quế giữa rừng”… tỏa hương thơm ngát với đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương bà miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ rất tài tình tiêu biểu là bài “Thiếu nữ ngủ ngày” ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của cô gái trẻ tuổi với các chi tiết gợi hình gợi cảm:

    “Lược trúc chải dài trên mái tóc,

    Yếm đào trễ xuống dưới nương long

    Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

    Một lạch đào nguyên suối chửa thông”

   Cách miêu tả chân thực không một chút bỡn cợt trái lại còn rất nâng niu, trân trọng khác xa với lối viết ước lệ tượng trưng mà không chú ý đến nhan sắc người phụ nữ của các tác gia trước bà. Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ Việt.

   Trong bài “Thương vợ” nhan sắc của bà Tú tuy không được Tú Xương nhắc đến nhưng mở rộng vốn văn học ta cũng phải ngẫm bà Tú ngoài phẩm hạnh tốt đẹp bên trong thì vẻ đẹp nhan sắc của bà cũng không kém ai nên mới có thể lấy được ông Tú-người học rộng và am hiểu bởi tiêu chuẩn chọn vợ trong xã hội thời xưa là con người hội tụ vẻ đẹp của “Công dung ngôn hạnh”.

   Không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc qua hai bài thơ người phụ nữ còn có mang trong mình nét đẹp về phẩm hạnh đáng quý luôn son sắt, chung thủy và chịu thương chịu khó, biết hi sinh vì chồng con. Trong bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương ngợi ca “tấm lòng son”-giá trị nhân phẩm của người phụ nữ luôn vẹn nguyên trước mọi hoàn cảnh. Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói táo bạo dám tự tin khẳng định giá trị của bản thân nói riêng và nhân phẩm người phụ nữ nói chung. Còn bà Tú được Tú Xương ca ngợi bởi tấm lòng nhân hậu của bà luôn cố gắng và hết lòng hi sinh cho gia đình. Bà Tú phải vất vả ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng cơm áo gạo tiền đổ lên đôi vai người phụ nữ, “một chồng” được đặt ngang hàng với “năm con” để cho thấy số tiền phải chi tiêu cho ông Tú bằng miệng ăn, áo mặc của năm đứa con cộng lại. Nuôi một ông chồng tài hoa như ông Tú không chỉ là lo miếng cơm manh áo mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi khi đi thi… Vậy mà bà Tú đã toan lo tất cả nhưng nào dám quản công, kể lể bà cho đó là duyên nợ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” là vậy. Bà sẵn sàng chấp nhận điều đó. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là tâm trạng chung, suy nghĩ chung của người phụ nữ xưa. Trong xã hội hiện đại ngày nay với cuộc sống văn minh, phát triển nhưng liệu còn có bao nhiêu người phụ nữ có thể làm được điều đó cho gia đình?

   Tuy hội tụ cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong nhưng hình ảnh người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người với số phận bé nhỏ, bất hạnh. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng cất lên tiếng khóc thương cảm, xót xa cho thân phận của họ. Không phải vô duyên vô cớ mà ông cất lên tiếng nấc thay lòng cho người phụ nữ trong “Văn chiêu hồn” với câu thơ:

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

   Hay trong kiệt tác “Truyện Kiều” là lời than vãn:

    Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

   Trong xã hội phong kiến với những quan niệm, tư tưởng khắt khe về người phụ nữ như “Tam tòng tứ đức”, “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” rồi “Nữ nhân ngoại tộc” vô tình đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc con người vào lề thói cổ hủ lạc hậu khiến cho họ không có tiếng nói, không có quyền quyết định cho số phận cuộc đời mình. Trong bài “Bánh trôi nước” người phụ nữ là những chiếc bánh trôi để “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để cho số phận long đong lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Chi tiết ấy khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách nổi lênh đênh tượng trưng cho số kiếp nổi nênh của người phụ nữ:

    “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

   Quan niệm phong kiến đã tước đoạt đi quyền làm người và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong cuộc đời, sự sống là sự tồn tại vô nghĩa chứ không được trọn vẹn đúng nghĩa với từ “Sống”.

   Trong bài “Thương vợ” đó là hình ảnh người phụ nữ của gia đình-bà Tú người đã khổ về gánh nặng vật chất miếng cơm manh áo cho bảy miệng ăn lại còn khổ về mặt tinh thần. Bà hết lòng vì chồng vì con nhưng chồng nào có thấu hiểu hay không? Ông Tú tự nhận mình là một người chồng vừa bất tài vô dụng không giúp được gì lại còn “hờ hững” thờ ơ trước nỗi khổ của vợ. Nỗi khổ ấy là “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, là “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông Tú đã nhập vai, hóa thân vào bà Tú để cảm thông, thấu hiểu và cất lên lời than vãn, tiếng chửi của bà một mặt thể hiện tình cảm của ông dành cho vợ, một mặt tự trào phúng bản thân mình.

   Hai bài thơ cùng một đề tài cùng làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa với vẻ đẹp dung nhan bên ngoài và tâm hồn nhân cách bên trong nhưng toát lên là thân phận bé nhỏ, phụ thuộc rất đáng thương. Họ cũng là tấm gương tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất người phụ nữ Việt. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã góp vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ-những con người gánh vác trọng trách duy trì sự sống, sự sinh tồn trên trái đất.

Đề bài: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ – đó chính là nhân cách nhà nho chân chính

II. Thân bài

1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”

– Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người

– Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình

2. Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường

– Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng

    + “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

    + “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính

– Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm

    + Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng

    + Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

⇒ khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng

3. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại

– Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân

    + Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

    + Đi chùa có gót tiên theo sau.

    + Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)

⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

– Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại

    + “ Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

    + “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .

    + “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình

⇒ Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ

4. Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là người mang trong mình đạo lí trung quân

    + “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…

⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.

    + “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

⇒ Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình

III. Kết bài

– Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

– Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính

Đề bài: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.

    Nguyễn Công Trứ là người học rộng, tài cao, làm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Nhưng cuộc đời ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở trên con đường hoạn lộ, khi đang làm chức quan lớn trong triều, ông đột ngột bị giáng chức, nhưng khí chất của một nhà nho chân chính thì không gì có thể lay chuyển được. Ông vẫn giữ lối sống “ngất ngưởng” khác thường. Vẻ đẹp của nhà nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của ông.

    Nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, nhà nho là cách gọi những người tri thức xưa, theo lối Nho học. Như vậy, nhân cách của một nhà nho chân chính tức là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà nho chân chính đối với Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan trong triều, có đến khi ông cáo quan về hưu.

    “Vũ trụ nội mạc phi phận sự

    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

    Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông

    Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

    Lúc Bình Tây cờ đại tướng

    Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

    Mở đầu tác phẩm ông đã khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc phận sự của chính tác giả. Và quả thật trong cuộc đời mình, ông thi đỗ đạt và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, nhưng đồng thời ông cùng bộc lộ nỗi buồn vì bản thân bị “vào lồng” sống cuộc đời gò bó, chật hẹp. Các chức vụ ông được giữ đều là những chức vụ quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng trách nhiệm của một kẻ sĩ với đời. Dù biết rõ ra làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn sàng vào cái lồng đó, bởi ở đấy ông mới có cơ hội đem tài năng cống hiến cho đất nước, làm tròn chí làm trai của một nam nhi: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Nếu như các nhà Nho luôn sống theo lối khiêm nhường dù bản thân có tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ bộc lộ, thì ngược lại ông Hi Văn lại sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Dường như sau lời thơ của ông ta còn thấy được thái độ coi thường của tác giả với những loại người bất tài nhưng hám danh lợi, sống cuộc đời luồn cúi, trong khuôn khổ. Nhưng con đường làm quan của ông cũng đầy thăng trầm, một cá nhân khi có những biểu hiện khác thường, cách tân so với đám đông thường sẽ bị mọi người ghét bỏ, tìm mọi cách hãm hại. Bởi vậy con đường hoạn lộ của ông mới thăng giáng bất thường như vậy. Có lẽ, lối sống “ngất ngưởng” của ông không phù hợp với khuôn khổ chật hẹp, gò bó của xã hội phong kiến.

    Khi ông từ quan, chính là khoảnh khắc cái tôi ngất ngưởng có cơ hội được thể hiện rõ nhất:

    Đô môn giải tổ chi niên

    Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

    Kìa núi nọ phau phau mây trắng

    Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

    Gót tiên theo đủng định một đôi dì

    Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

    Nguyễn Công Trứ đã thực sự được sống cuộc đời tự do, tự tại, như con chim được tháo cũ sổ lồng. Những hành động lời nói của ông là biểu hiện của lối sống rất “ngông” đây cũng là nét phẩm chất làm nên cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, ông làm biết bao con mắt dõi theo. Về hưu ông dựng nhà ở núi Đại, với mây trắng phau phau bao phủ bốn phía, như chốn bồng lai tiên cảnh. Đồng thời ông cũng thường xuyên đi viếng, thăm thú cảnh chùa nhưng lúc nào cũng dắt theo các cô hầu con. Điều này thật trái với quy tắc của nhà chùa. Nguyễn Công Trứ đã bất chấp mọi luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, ngất ngưởng khiến cho bụt “cũng phải cười ông ngất ngưởng”.

    Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông đưa ra quan niệm giữa được – mất trong cuộc đời này là chuyện bình thường và mỗi người cần bình thản đón nhận những biến đổi của cuộc sống. Đồng thời ông cùng khẳng định ông bỏ ngoài tai những lời khen – chê của thiên hạ đối với mình, thỏa thích vui chơi bất cứ những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

    Khổ thơ cuối, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Dù có thể ông không phải một danh tướng, danh nho nhưng trước sau lòng trung với vua ông vẫn vẹn đạo, đây chính là phẩm chất cao quý của nhà nho, thật đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, làm trọn đạo vua tôi, ở đời ai có thể ngất ngưởng được như ông?

    Qua bài Bài ca nhất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của ông đều được xuất phát từ quan niệm Nho giáo đó là đề cao lòng trung quân, đây cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách ấy thật đặc biệt, khác lạ, ông không khuôn mình, trói buộc theo những tư tưởng Nho học, mà “ngất ngưởng” theo cách của riêng mình nhưng vẫn vẹn đạo với vua, với nước. Đây cũng chính là điểm nhấn tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.

Đề bài: Nhân cách nhà Nho chân chính trong bài “Bài ca ngất ngưởng” Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.

“Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.

Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo_ đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.

Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giao ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.

Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minhg chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:

    “Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

    Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

    Lúc bình Tây, cờ đại tướng

    Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tố chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.

Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.

Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm trọn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tố chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.

Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:

    “Kìa núi nọ phau phau mây trắng

    Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi

    Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì

    Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.

Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:

    “Được mất dương dương người thái thượng

    Khen chê phơi phới ngọn đông phong

    Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

    Không Phật, không tiên, không vướng tục”

Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.

Ông ngông ghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:

    “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

    Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

    Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.

Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.

Đề bài: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễ Công Trứ).

   Ta vẫn thường nghe: “Tài cao phận thấp, chí khí uất”. Dường như cái tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ “phận”. Đó cũng chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát. Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh – thánh Quát. Vậy nhưng đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca.

   Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả – “nợ tang bồng”. Ông vố đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể thỏa mãn khát vọng của mình.

    Bãi cát dài lại bãi cát dài,

    Đi một bước như lùi một bước.

   “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế.

    Mặt trời đã lặn chưa dừng được,

    Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

   “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được”. Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong xã họi, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó, ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn thuần do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng chúng trở nên đắng hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới:

    Không học được tiên ông phép ngủ,

    Trèo non, lội suối giận khôn vơi.

   Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu: trước những cảnh đời khổ cực của nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Ngay cả Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” là thế mà con luôn tâm niệm “nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chúng”. Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc: “Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế”. Tâm sự này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ và tâm hồn thanh cao trong thơ văn: “Nhất sinh đê thủ bái mao hoa”.

   Thứ hai, ông vô cùng hổ thẹn vì dù đã đeo đuổi con đường thi cử rất lâu mà vẫn chưa có được chức danh xứng đáng, vẫn chưa đạt được công danh để cho người đời thán phục. Thế nên lòng người càng trở nên bế tắc, oán hận và bi phẫn. Ông đã từng dùng hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao vời của mình”

    “Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời

    Những muốn vịn mây mà lên cao mãi.”

   Ông mong muốn có được phép thần tiên kì diệu để có tiếp tục đi trên con đường chông gai mặc cho đói khát, mệt mỏi hay buồn ngủ. Hy vọng có thể mau chóng tìm ra cho mình một cái đích rõ ràng.

   Cách hiểu cuối cùng rất sâu sắc: đó chính là sự thoát li khỏi thực tại tầm thường. Đến như Nguyễn Công Trứ lỗi lạc là thế mà còn tìm kiếm lối thoát bằng cách cáo quan ở ẩn. Ở đây, Cao Bá Quát giá như bản thân có thể nhắm mắt làm ngơ, mặc cho sự đời biến đổi và mong muốn vất bỏ phiền muộn. Nhưng không! Với lý tưởng cao cả, chí khí ngoan cường, Chu Thần không thể thực hiện điều trái với đạo lý của bản thân. Do đó, cái “giận khôn vơi” ở đây, càng chiếu soi, làm tỏ hiện cho ta thấy được một Chu Thần với nhân cách cao cả, quý giá biết bao. Ông không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết đối đầu và khắc phục khó khăn. Thật là nhân cách đáng ngưỡng mộ.

   Những câu thơ tiếp theo lại đem đến cho người đọc về cái nhìn của Cao Bá Quát trước cảnh xã hội mưu cầu danh lợi:

    Xưa nay, phường danh lợi,

    Tất cả trên đường đời.

    Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

    Người say vô số, tỉnh bao người?

   Con đường danh lợi cũng là một thứ rất đường đời thật gập ghềnh, trắc trở. Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí đểm thảm hại chạy theo vật chất. Học hành, độ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, sự nghiêp ấy sao quá đỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn lao hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của tiền tài. Họ chẳng khác nào những con thiêu thân, lao đầu vào nơi có ánh sáng và đông không kể. Qua đây, Cao Bá Quát cho thấy được điểm nhìn tuyệt vời của mình. Đó là cái nhìn bao quát thực tại bình thường, vượt ra cả không gian và vượt lên trên thời gian. Những suy nghĩ ấy đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Cũng có thể thấy được thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình “tỉnh” hay “say”? Để rồi lại trút tiếng thở dài vô vọng:

    Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

    Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,

    Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.

    Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,

    Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

    Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.

   Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: “tính sao đây?”. Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này, Chu Thần đã bị đẩy vào “đường cùng”. Dường như, trongong đang có sự đấu tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiêp công danh. Bi kịch của Chu Thần không chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp đi đến phút cáo chung.

    Anh đứng làm chi trên bãi cát?

   Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuân nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường “bãi cát” ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình: cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: “Trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.” Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôi.

   “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là bài thơ ngắn mà dài, hiện thực mà đầy tượng trưng, trữ tình mà đầy bi phẫn với ý thơ hàm súc, đa nghĩa. Ẩn chứ trong tác phẩm là những suy nghĩ kín đáo của tác giả, là tâm tình da diết với đất nước, là khí phách hiên ngang của chí làm trai, là trí tuệ thông thái, là cái nhìn vượt thời gian, là ước muốn cải cách xã hội và cũng là nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính Cao Bá Quát.

Đề bài: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ – đó chính là nhân cách nhà nho chân chính

II. Thân bài

1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”

– Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người

– Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình

2. Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường

– Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng

    + “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

    + “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính

– Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm

    + Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng

    + Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

⇒ khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng

3. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại

– Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân

    + Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

    + Đi chùa có gót tiên theo sau.

    + Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)

⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

– Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại

    + “ Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

    + “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .

    + “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình

⇒ Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ

4. Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là người mang trong mình đạo lí trung quân

    + “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…

⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.

    + “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

⇒ Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình

III. Kết bài

– Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

– Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính

   Nguyễn Công Trứ là người học rộng, tài cao, làm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Nhưng cuộc đời ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở trên con đường hoạn lộ, khi đang làm chức quan lớn trong triều, ông đột ngột bị giáng chức, nhưng khí chất của một nhà nho chân chính thì không gì có thể lay chuyển được. Ông vẫn giữ lối sống “ngất ngưởng” khác thường. Vẻ đẹp của nhà nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của ông.

    Nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, nhà nho là cách gọi những người tri thức xưa, theo lối Nho học. Như vậy, nhân cách của một nhà nho chân chính tức là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà nho chân chính đối với Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan trong triều, có đến khi ông cáo quan về hưu.

    “Vũ trụ nội mạc phi phận sự

    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

    Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông

    Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

    Lúc Bình Tây cờ đại tướng

    Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

    Mở đầu tác phẩm ông đã khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc phận sự của chính tác giả. Và quả thật trong cuộc đời mình, ông thi đỗ đạt và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, nhưng đồng thời ông cùng bộc lộ nỗi buồn vì bản thân bị “vào lồng” sống cuộc đời gò bó, chật hẹp. Các chức vụ ông được giữ đều là những chức vụ quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng trách nhiệm của một kẻ sĩ với đời. Dù biết rõ ra làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn sàng vào cái lồng đó, bởi ở đấy ông mới có cơ hội đem tài năng cống hiến cho đất nước, làm tròn chí làm trai của một nam nhi: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Nếu như các nhà Nho luôn sống theo lối khiêm nhường dù bản thân có tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ bộc lộ, thì ngược lại ông Hi Văn lại sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Dường như sau lời thơ của ông ta còn thấy được thái độ coi thường của tác giả với những loại người bất tài nhưng hám danh lợi, sống cuộc đời luồn cúi, trong khuôn khổ. Nhưng con đường làm quan của ông cũng đầy thăng trầm, một cá nhân khi có những biểu hiện khác thường, cách tân so với đám đông thường sẽ bị mọi người ghét bỏ, tìm mọi cách hãm hại. Bởi vậy con đường hoạn lộ của ông mới thăng giáng bất thường như vậy. Có lẽ, lối sống “ngất ngưởng” của ông không phù hợp với khuôn khổ chật hẹp, gò bó của xã hội phong kiến.

    Khi ông từ quan, chính là khoảnh khắc cái tôi ngất ngưởng có cơ hội được thể hiện rõ nhất:

    Đô môn giải tổ chi niên

    Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

    Kìa núi nọ phau phau mây trắng

    Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

    Gót tiên theo đủng định một đôi dì

    Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

    Nguyễn Công Trứ đã thực sự được sống cuộc đời tự do, tự tại, như con chim được tháo cũ sổ lồng. Những hành động lời nói của ông là biểu hiện của lối sống rất “ngông” đây cũng là nét phẩm chất làm nên cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, ông làm biết bao con mắt dõi theo. Về hưu ông dựng nhà ở núi Đại, với mây trắng phau phau bao phủ bốn phía, như chốn bồng lai tiên cảnh. Đồng thời ông cũng thường xuyên đi viếng, thăm thú cảnh chùa nhưng lúc nào cũng dắt theo các cô hầu con. Điều này thật trái với quy tắc của nhà chùa. Nguyễn Công Trứ đã bất chấp mọi luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, ngất ngưởng khiến cho bụt “cũng phải cười ông ngất ngưởng”.

    Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông đưa ra quan niệm giữa được – mất trong cuộc đời này là chuyện bình thường và mỗi người cần bình thản đón nhận những biến đổi của cuộc sống. Đồng thời ông cùng khẳng định ông bỏ ngoài tai những lời khen – chê của thiên hạ đối với mình, thỏa thích vui chơi bất cứ những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

    Khổ thơ cuối, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Dù có thể ông không phải một danh tướng, danh nho nhưng trước sau lòng trung với vua ông vẫn vẹn đạo, đây chính là phẩm chất cao quý của nhà nho, thật đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, làm trọn đạo vua tôi, ở đời ai có thể ngất ngưởng được như ông?

    Qua bài Bài ca nhất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của ông đều được xuất phát từ quan niệm Nho giáo đó là đề cao lòng trung quân, đây cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách ấy thật đặc biệt, khác lạ, ông không khuôn mình, trói buộc theo những tư tưởng Nho học, mà “ngất ngưởng” theo cách của riêng mình nhưng vẫn vẹn đạo với vua, với nước. Đây cũng chính là điểm nhấn tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.

   Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.

   “Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.

   Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo_ đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.

   Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giao ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.

   Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minhg chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:

    “Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

    Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

    Lúc bình Tây, cờ đại tướng

    Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

   Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tố chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.

   Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.

   Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm trọn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tố chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.

   Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:

    “Kìa núi nọ phau phau mây trắng

    Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi

    Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì

    Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

   Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.

   Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:

    “Được mất dương dương người thái thượng

    Khen chê phơi phới ngọn đông phong

    Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

    Không Phật, không tiên, không vướng tục”

   Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.

   Ông ngông ghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:

    “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

    Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

    Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

   Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.

   Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

   Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.

Đề bài: Cảm nghĩ của anh chị về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ: Tác giả với tư tưởng li tâm Nho giáo. Thương vợ là một trong số những bài thơ tiêu biểu thể hiện tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương

– Ngoài giá trị nội dung tương đối nổi bật, bài thơ còn thành công bởi việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ

II. Thân bài

1. Dấu hiệu của ca dao, thành ngữ, tục ngữ trong bài thơ

– Sự vận dụng thành ngữ, ca dao, tục ngữ được thể hiện ở hai cặp câu thực và luận trong bài:

    + “Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

    + “Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

⇒ Nét nghệ thuật tiêu biểu này đóng vai trò to lớn trong thể hiện nỗi niềm thương vợ của Trần Tế Xương

2. Vai trò, tác dụng của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ

– Hai câu thực:

    + “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”: Lấy ý từ câu ca dao: “Con cò lặn lội bở sông”

    + ”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng ⇒ vận dụng sáng tạo, đảo lặn lội lên đầu nhấn mạnh nỗi gian truân vất vả

    + Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát : vận dụng sáng tạo hình ảnh ca dao, dùng thân cò càng làm tăng nỗi gian truân của bà Tú

    + “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua sử dụng sáng tạo ca dao

    + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

    + Buổi đò đông: Gợi liên tưởng đến câu ca dao: “Con ơi nhớ lấy câu này- Đò đông chớ lội, đò đầy chớ qua”: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

– Hai câu luận:

    + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn

    + nắng mưa”: chỉ vất vả

    + “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều

⇒ “Năm nắng mười mưa”: thành ngữ chéo gợi phẩm chất tần tảo của Bà Tú

    + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Nhận xét: Âm điệu ca dao, thành ngữ đã được Tế Xương vận dụng một cách sáng tạo để thể hiện nỗi lo âu vất vả trong công việc hằng ngày của bà Tú, đồng thời càng thêm nhấn mạnh cho vẻ đẹp của bà và thể hiện tấm lòng thương vợ sâu sắc của ông Tú

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong việc thể hiện thành công nội dung tác phẩm

– Liên hệ trình bày cảm nhận cá nhân về nét đặc sắc nghệ thuật này

Đề bài: Cảm nghĩ về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ

    Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.

    Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.

    Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:

    Một duyên hai nợ âu đành phận

    Năm nắng mười mưa dám quản công.

    Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:

    “Một duyên, hai nợ, ba tình

    Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”

    Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi

    Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”

    Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.

    Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:

    “Cái cò mà đi ăn đêm

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”

    Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông

    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”

    Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.

    Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.

    Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.

Đề bài: Cảm nghĩ của anh chị về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương

Một trong những đặc điểm lớn của thơ ca trung đại Việt Nam là sự kế thừa tinh hoa của văn học dân gian. Biết bao các nhà thơ trung đại đã ảnh hưởng điều đó vào sáng tác để hồn thơ mang đậm chất dân tộc. “Thương vợ” của Tú Xương cũng là một bài thơ có ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ được vận dụng sáng tạo làm nên màu sắc riêng của tác giả.

Bài thơ “Thương vợ” là tình cảm chân thành của thi sĩ dành cho bà Tú mà cất lên tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư thay vợ. Chân dung bà Tú hiện lên là một người vợ phải chịu nhiều vất vả , đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương và sự hi sinh cho chồng con. Bài thơ đã thành công với lối dùng từ, ngôn ngữ và sự ảnh hưởng của âm điệu ca dao.

Về ngôn ngữ được viết bằng chữ Nôm_sản phẩm của người Việt sáng tạo ra thể hiện tinh thần dân tộc. Từ ngữ trong bài thơ rất giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của nhân dân như các từ “Mom sông” tả không gian nơi bà Tú làm việc nguy hiểm nơi đầu sóng ngọn gió để mưu sinh “Nuôi đủ năm con với một chồng” hay các từ láy “Lặn lội”, “eo sèo”, “hờ hững” cho thấy sự cực nhọc của người vợ mà người chồng lại vô tâm, hờ hững. Lời thơ giản dị đó là lời bộc bạch tâm tư, tình cảm mà nhà thơ nhập thân vào hoàn cảnh của vợ để thấu hiểu, cảm nhận và thể hiện có cả tiếng chửi nhẹ nhàng sâu lắng “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” rất đời thường, mang đậm chất hiện thực sinh động.

Bài thơ được vận dụng các thành ngữ, tục ngữ rất sáng tạo không phải là trích nguyên văn mà biến đổi nhưng vẫn giữ được nội dung của câu nói như “Dầm mưa dãi nắng” được ông vận dụng sáng tạo thành “Năm nắng mười mưa” cho thấy sự vất vả được nhân lên rất nhiều lần của bà Tú.

Đặc biệt âm điệu ca dao có ảnh hưởng sâu sắc với hình ảnh sáng tạo “Thân cò lặn lội khi quãng vắng”. Xưa nay ta thấy hình ảnh con cò thể hiện cho sự vất vả cơ cực của người nông dân đặc biệt là nói về thân phận của người phụ nữ:

    “Con cò lặn lội bờ sông

    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Hay:

    “Con cò mà đi ăn đêm

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng ấn tượng sâu sắc hơn.

Nhà thơ vận dụng sáng tạo các khái niệm duyên, nợ, phận trong dân gian vào câu thơ “Một duyên hai nợ âu đành phận” để nói về mối nhân duyên vợ chồng, ông Tú và bà Tú lấy được nhau là do duyên nợ từ kiếp trước. Bà Tú chịu cực vì ông Tú nhưng không một lời than vãn mà tự cho rằng đó là do duyên phận mà trời đã định. Bà chấp nhận điều đó không oán thán dù cho duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Bởi con đường hoạn lộ công danh của ông lận đận, suốt cả cuộc đời có ba việc chính là học, đi thi, làm thơ còn lại công việc trong gia đình đều do bà Tú lo liệu, gánh vác.

Dưới vần thơ tài tình của Tú Xương hình ảnh bà Tú hiện lên chân thật, bình dị nét đẹp phẩm chất của bà là vẻ đẹp của biết bao người phụ nữ Việt Nam tần tảo, hy sinh cả cuộc đời vì chồng con và hạnh phúc gia đình. Bài thơ đã thành công với sự vận dụng sáng tạo về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ làm nên nét đặc sắc riêng của Tú Xương.

Đề bài: Cảm nghĩ về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ: Tác giả với tư tưởng li tâm Nho giáo. Thương vợ là một trong số những bài thơ tiêu biểu thể hiện tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương

– Ngoài giá trị nội dung tương đối nổi bật, bài thơ còn thành công bởi việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ

II. Thân bài

1. Dấu hiệu của ca dao, thành ngữ, tục ngữ trong bài thơ

– Sự vận dụng thành ngữ, ca dao, tục ngữ được thể hiện ở hai cặp câu thực và luận trong bài:

    + “Lặn lội thân cò khi quãng vắng

   Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

    + “Một duyên hai nợ âu đành phận

   Năm nắng mười mưa dám quản công”

⇒ Nét nghệ thuật tiêu biểu này đóng vai trò to lớn trong thể hiện nỗi niềm thương vợ của Trần Tế Xương

2. Vai trò, tác dụng của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ

– Hai câu thực:

    + “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”: Lấy ý từ câu ca dao: “Con cò lặn lội bở sông”

    + ”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng ⇒ vận dụng sáng tạo, đảo lặn lội lên đầu nhấn mạnh nỗi gian truân vất vả

    + Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát : vận dụng sáng tạo hình ảnh ca dao, dùng thân cò càng làm tăng nỗi gian truân của bà Tú

    + “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua sử dụng sáng tạo ca dao

    + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

    + Buổi đò đông: Gợi liên tưởng đến câu ca dao: “Con ơi nhớ lấy câu này- Đò đông chớ lội, đò đầy chớ qua”: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

– Hai câu luận:

    + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn

    + nắng mưa”: chỉ vất vả

    + “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều

⇒ “Năm nắng mười mưa”: thành ngữ chéo gợi phẩm chất tần tảo của Bà Tú

    + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Nhận xét: Âm điệu ca dao, thành ngữ đã được Tế Xương vận dụng một cách sáng tạo để thể hiện nỗi lo âu vất vả trong công việc hằng ngày của bà Tú, đồng thời càng thêm nhấn mạnh cho vẻ đẹp của bà và thể hiện tấm lòng thương vợ sâu sắc của ông Tú

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong việc thể hiện thành công nội dung tác phẩm

– Liên hệ trình bày cảm nhận cá nhân về nét đặc sắc nghệ thuật này

   Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.

    Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.

    Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:

    Một duyên hai nợ âu đành phận

    Năm nắng mười mưa dám quản công.

    Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:

    “Một duyên, hai nợ, ba tình

    Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”

    Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi

    Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”

    Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.

    Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:

    “Cái cò mà đi ăn đêm

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”

    Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông

    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”

    Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.

    Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.

    Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.

   Một trong những đặc điểm lớn của thơ ca trung đại Việt Nam là sự kế thừa tinh hoa của văn học dân gian. Biết bao các nhà thơ trung đại đã ảnh hưởng điều đó vào sáng tác để hồn thơ mang đậm chất dân tộc. “Thương vợ” của Tú Xương cũng là một bài thơ có ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ được vận dụng sáng tạo làm nên màu sắc riêng của tác giả.

   Bài thơ “Thương vợ” là tình cảm chân thành của thi sĩ dành cho bà Tú mà cất lên tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư thay vợ. Chân dung bà Tú hiện lên là một người vợ phải chịu nhiều vất vả , đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương và sự hi sinh cho chồng con. Bài thơ đã thành công với lối dùng từ, ngôn ngữ và sự ảnh hưởng của âm điệu ca dao.

   Về ngôn ngữ được viết bằng chữ Nôm_sản phẩm của người Việt sáng tạo ra thể hiện tinh thần dân tộc. Từ ngữ trong bài thơ rất giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của nhân dân như các từ “Mom sông” tả không gian nơi bà Tú làm việc nguy hiểm nơi đầu sóng ngọn gió để mưu sinh “Nuôi đủ năm con với một chồng” hay các từ láy “Lặn lội”, “eo sèo”, “hờ hững” cho thấy sự cực nhọc của người vợ mà người chồng lại vô tâm, hờ hững. Lời thơ giản dị đó là lời bộc bạch tâm tư, tình cảm mà nhà thơ nhập thân vào hoàn cảnh của vợ để thấu hiểu, cảm nhận và thể hiện có cả tiếng chửi nhẹ nhàng sâu lắng “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” rất đời thường, mang đậm chất hiện thực sinh động.

   Bài thơ được vận dụng các thành ngữ, tục ngữ rất sáng tạo không phải là trích nguyên văn mà biến đổi nhưng vẫn giữ được nội dung của câu nói như “Dầm mưa dãi nắng” được ông vận dụng sáng tạo thành “Năm nắng mười mưa” cho thấy sự vất vả được nhân lên rất nhiều lần của bà Tú.

   Đặc biệt âm điệu ca dao có ảnh hưởng sâu sắc với hình ảnh sáng tạo “Thân cò lặn lội khi quãng vắng”. Xưa nay ta thấy hình ảnh con cò thể hiện cho sự vất vả cơ cực của người nông dân đặc biệt là nói về thân phận của người phụ nữ:

    “Con cò lặn lội bờ sông

    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

   Hay:

    “Con cò mà đi ăn đêm

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

   Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng ấn tượng sâu sắc hơn.

   Nhà thơ vận dụng sáng tạo các khái niệm duyên, nợ, phận trong dân gian vào câu thơ “Một duyên hai nợ âu đành phận” để nói về mối nhân duyên vợ chồng, ông Tú và bà Tú lấy được nhau là do duyên nợ từ kiếp trước. Bà Tú chịu cực vì ông Tú nhưng không một lời than vãn mà tự cho rằng đó là do duyên phận mà trời đã định. Bà chấp nhận điều đó không oán thán dù cho duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Bởi con đường hoạn lộ công danh của ông lận đận, suốt cả cuộc đời có ba việc chính là học, đi thi, làm thơ còn lại công việc trong gia đình đều do bà Tú lo liệu, gánh vác.

   Dưới vần thơ tài tình của Tú Xương hình ảnh bà Tú hiện lên chân thật, bình dị nét đẹp phẩm chất của bà là vẻ đẹp của biết bao người phụ nữ Việt Nam tần tảo, hy sinh cả cuộc đời vì chồng con và hạnh phúc gia đình. Bài thơ đã thành công với sự vận dụng sáng tạo về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ làm nên nét đặc sắc riêng của Tú Xương.

Đề bài: Anh chị hiểu và suy ngẫm được điều gì sâu sắc qua bài Lẽ ghét thương

Đề bài: Anh (chị) hiểu và suy ngẫm được điều gì sâu sắc qua bài Lẽ ghét thương

    Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong đời thơ Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết lí của ông về cuộc sống và về con người. Đoạn trích Lẽ ghét thương đã phần nào thể hiện quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu về cái yêu, cái ghét của ông. Qua đó đã để lại những suy ngẫm, bài học sâu sắc trong lòng người đọc.

    Đoạn trích nằm ở đầu tác phẩm Lục Vân Tiên, Vân Tiên cùng bạn đến kinh đô dự thi, vào một quán trọ họ tình cờ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Bốn người uống rượu, làm thơ, Trịnh Hâm không phục tài năng của Vân Tiên. Lúc này ông Quán xuất hiện nói về lẽ ghét thương của mình.

    Ông Quán là người đã từng dùi mài kinh sử, nên có suy ngẫm, quan điểm hết sức đúng đắn. Trước hết ông nói về những điều ông ghét. Ông lựa chọn những đời vua điển hình nhất cho sự độc ác, thối nát của lịch sử Trung Quốc: Vua Kiệt, Vua Trụ, U Vương – tên vua nổi tiếng háo sắc, Ngũ bá – năm lãnh chúa của năm nước chư hầu thời Xuân Thu; vua và lãnh chúa ở cuối đời Đường. Bọn chúng đều là những kẻ độc ác, không quan tâm đến đời sống nhân dân, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, vơ vét của cải của nhân dân, đẩy dân vào cảnh lầm than, cực khổ.

    Ông ghét những kẻ hại dân, hại nước và cũng rất thương những con người có tài năng, đức hạnh sinh nhầm thời, tài đức bị vùi dập: Đức thánh Khổng Tử – ông tổ của Nho giáo, thầy Nhan Tử học trò giỏi nhất của Không Tử, nhà thơ Đào Uyên Minh tình tình cao thương, không mưu cầu danh lợi, từ quan về ở quân vì ông không chịu khom lưng, uốn gối,… Đó cũng là những vị quân tử nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Ông Quán thương họ, bởi họ đều là những con người tài đức nhưng lại không được trọng dụng: Khổng Tử đi khắp các nước tìm cách thực hiện đạo của mình mà không được; Nhan Tử học giởi nhưng mất sơm, Khổng Minh nổi tiếng mưu lược nhưng đến khi chết sự nghiệp vẫn chưa thành, Đào Tiềm học rộng, thơ văn lỗi lạc, đang làm quan ông từ quan về quê vì không chịu nổi cảnh phải khụy nụy. Qua đó, Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm ít nhiều tâm sự của mình pử đây. Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà nho, mang trong mình hoài bão giúp đời, giúp nước nhưng cuộc đời ông lại gặp quá nhiều chông gai, bất hạnh, thêm vào đó đúng vào thời buổi nhiễu nhương, số phận của ông cũng có những nét tương đồng với những nhân vật linh sử kia. Qua những lời ông Quán ta có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu quan tâm đến cuộc sống lầm than của nhân dân và số phận bất hạnh của nhiều hiền tài khi sinh ra không đúng thời.

    Qua bài Lẽ ghét thương, chúng ta có thể thấy rằng, yêu và ghét vốn là hai trạng thái tâm lí đối nghịch nhau nhưng lại luôn tồn tại song song với nhau. Ghét đồng thời cũng xuất phát từ tình yêu thương, như Nguyễn Đình Chiểu ông ghét những tên vua độc ác bởi ông thương người dân vô tội, sống lầm than, cực khổ, ông thương những người hiền tài sinh bất phùng thời, không thể cống hiến cho đất nước.

    Bằng những lời lẽ mộc mạc, giản dị nhưng đầy tình cảm cảm xúc, ông Quán đã thay lời Nguyễn Đình Chiểu thể hiện quan điểm về cuộc đời, xã hội. Lẽ ghét của ông cũng xuất phát từ chính tình yêu thương với nhân dân, với ngươi tài. Bởi yêu quý, kính trọng họ nên ông mới căm ghét những kẻ làm cuộc sống của họ thêm phần cực khổ. Bài thơ đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Đề bài: Anh (chị) hiểu và suy ngẫm được điều gì sâu sắc qua đoạn trích “Lẽ ghét thương”

Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng của nền văn học dân tộc để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó “Lục Vân Tiên” là truyện thơ biểu dương đạo lí “Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh là câu trau mình”, tác phẩm mang đậm màu sắc Nam Bộ, lời thơ giản dị mộc mạc, nhân vật bộc trực thể hiện rõ thái độ yêu ghét rạch ròi. Một trong những đoạn trích hay nhất là “Lẽ ghét thương” cho thấy tình cảm thương ghét của nhà thơ, để lại nhiều điều sâu sắc đáng suy ngẫm cho người đọc.

Đoạn trích thuộc từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán-nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu với các nho sĩ trẻ tuổi. Đó là lời cảm khái than đời của ông trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ xấu xa vu oan cho Lục Vân Tiên và Tử Trực. Qua đó ông Quán thể hiện quan điểm, thái độ của mình về lẽ ghét thương ở đời xoay quanh các câu hỏi: Ghét ai? Vì sao ghét? Thương ai? Vì sao thương? Từ đó cho ta những bài học nhận thức để suy ngẫm.

Theo quan điểm của ông Quán cũng như sự nhận thức của cá nhân bản thân em: Nguồn gốc của sự ghét trước tiên bắt nguồn từ lẽ thương “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó là cái ghét chân chính và nhân văn. Nếu như mọi sự ghét chỉ toàn là ganh tuông, đố kị thì tất cả chỉ là thái độ hằn học với đời, mất đi sự cao cả của nó. Mức độ ghét ở đây đạt đến cực đại “Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” thương càng nhiều thì ghét càng lắm.

Lí giải cho căn nguyên của tất cả những căm ghét trào sôi là xuất phát từ tấm lòng thương người thương đời của một nhà nho chân chính, cụ thể là vì ông thương nhân dân – những con người cùng cực, bị áp bức bất công, người hiền tài mà không được trọng dụng. Những con người ấy được ông liệt kê và nói lí do vì sao thương họ. Đó là Khổng Tử muốn truyền bá tư tưởng, thực hiện hoài bão cứu đời nhưng đi đến nước nào cũng không được tin dùng, Nhan Tử là Nhan Uyển-học trò xuất sắc của Khổng Tử học rộng tài cao nhưng số mệnh chết yểu, Gia Cát Lượng quân sư tài ba cho Lưu Bị không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư có tài có chí có tâm ra làm quan nhưng không được trọng dụng, Nguyên Lượng là Đào Tiềm-Đào Uyên Minh phải lui về ở ẩn vì không chịu được sự khom lưng uốn gối, Hàn Dũ bị oan khiên, thầy Liêm, Lạc về quê dạy học vì bất đồng quan điểm nơi triều chính. Tất cả những con người ấy đều có tài có đức mà lận đận con đường khoa cử công danh. Ông thương họ, thương dân nên mới cất lên tiếng thơ thể hiện sự căm ghét bọn vua chúa quan lại hoang dâm, tàn bạo không chăm lo cho đời sống, xây dựng đất nước mà chỉ biết hưởng thụ trên sự hi sinh của dân, bóc lột sức lao động, tiền của, trí tuệ của nhân dân. Ông ghét những người đứng đầu đại diện cho các triều đại bạo ngược bên Trung Hoa là vua Kiệt, vua Trụ, U Vương, Lệ Vương rồi đến đời nhà Chu kéo bè kết cánh, đánh nhau liên miên gây ra biết bao thảm họa, điêu đứng cho nhân dân. Ông đứng trên quan điểm lập trường và lợi ích của dân để ghét. Qua đó cho ta thấy Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “Nhân nghĩa” chính thống của Khổng Tử, Mạnh Tử khi Nho giáo vẫn còn có giá trị rất lớn, đặc biệt là quan niệm “Dân vi quý”-dân là quý nhất, quan trọng nhất. Thương dân bao nhiêu thì ghét bọn nhũng nhiễu làm hại dân bấy nhiêu.

Tư tưởng ấy của Nguyễn đình Chiểu đến ngày nay vẫn còn có giá trị, vẫn luôn được người đời đề cao. Nhà nước ta luôn “lấy dân làm gốc”, tất cả đều xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, thấm nhuần triết lí “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” điều đó được thể hiện qua sự chưng cầu ý kiến nhân dân trong mỗi một sự việc quan trọng của đất nước. Những người cán bộ, các vị lãnh đạo ai biết yêu thương, chăm lo quan tâm đến đời sống của nhân dân luôn được dân yêu, dân tin, dân kính, dân nể và ngược lại những con người chỉ mong làm quan để đục khoét, moi móc của dân tham ô, tham nhũng thì luôn phải gánh chịu hậu quả và sự trừng phạt của pháp luật.

Ngoài ra, qua đoạn trích “Lẽ ghét thương” Nguyễn Đình Chiểu đã cụ thể hóa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” văn học phải mang chức năng truyền tải đạo lí tốt đẹp ở trên đời, ca ngợi, ủng hộ cái tốt và lên án, tố cáo, đả kích cái xấu, những con người tàn ác. Ông Quán thương cho người tài cũng là ca ngợi giá trị của họ, ông ghét bọn hung bạo cũng là đang phê phán lối sống tiêu cực và đạo đức xuống cấp của chúng. Tuy chỉ nói chuyện bên Trung Hoa nhưng cũng là để tố cáo xã hội hiện thực, thời đại mà chính tác giả đang sống. Hồi Thiệu Trị, Tự Đức trị vì triều đình chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, tiền đồ mồ hôi công sức của nhân dân phải đổ vào lăng tẩm đền đài, quan lại tham nhũng, loạn lạc liên miên, nhân dân cùng cực rơi vào cảnh đói khổ lầm than. Ông tố cáo xã hội ấy thể hiện tấm lòng thương dân vô bờ của mình, thương cho người đời cũng là thương cho chính mình. Nguyễn Đình Chiểu học rộng tài cao, con đường hoạn lộ công danh đang rộng mở nhưng lại đứt gánh giữa đường, lận đận khoa cử, lúc đang trên đường đi thi thì được tin mẹ mất về phục tang mẹ rồi bị bệnh mù cả đôi mắt. Đồ Chiểu chưa bao giờ chịu khuất phục số phận dù mù lòa nhưng tâm ông luôn sáng, văn chương của ông là lá cờ đầu cho giai đoạn kháng chiến chống Pháp vừa tố cáo tội ác của giặc vừa thôi thúc, động viên lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến cho dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện tình cảm thương ghét rõ ràng của mình, dù nói chuyện kinh sử nhưng giọng điệu và ngôn ngữ thơ không nén được nỗi buồn đau, tức giận bởi trong cuộc sống thường ngày những điều đáng ghét, đáng thương thường xuyên dội vào tâm tư Đồ Chiểu khiến cho ông trăn trở trong cuộc đời.

Đoạn trích tập trung các giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho đoặc trưng thơ ca trung đại như: sử dụng các điển tích điển cố, nghệ thuật tiểu đối trong câu làm cho câu thơ có vần có nhịp, cân đối mang nét đẹp cổ điển. Ngoài ra các điệp từ, điệp cấu trúc “thương ông” “thương thầy” từ “dân” được lặp lại nhiều lần thể hiện cho quan điểm thương ghét nhân đạo của tác giả.

“Lẽ ghét thương” qua lời ông Quán đã tập trung thể hiện quan điểm thương dân, thương đời sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu. Vì thương dân quá nhiều mà ông ghét bọn hôn quân bạo chúa ngang tàn. Đằng sau những vần thơ ghét thương là một tấm lòng nhân đạo, nhân ái bao la của nà thơ mù nổi tiếng. Đoạn trích để lại cho ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về tình cảm thương ghét ở trên đời. Không phải sự ghét nào cũng là

Đề bài: Anh (chị) hiểu và suy ngẫm được điều gì sâu sắc qua bài Lẽ ghét thương

   Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong đời thơ Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết lí của ông về cuộc sống và về con người. Đoạn trích Lẽ ghét thương đã phần nào thể hiện quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu về cái yêu, cái ghét của ông. Qua đó đã để lại những suy ngẫm, bài học sâu sắc trong lòng người đọc.

    Đoạn trích nằm ở đầu tác phẩm Lục Vân Tiên, Vân Tiên cùng bạn đến kinh đô dự thi, vào một quán trọ họ tình cờ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Bốn người uống rượu, làm thơ, Trịnh Hâm không phục tài năng của Vân Tiên. Lúc này ông Quán xuất hiện nói về lẽ ghét thương của mình.

    Ông Quán là người đã từng dùi mài kinh sử, nên có suy ngẫm, quan điểm hết sức đúng đắn. Trước hết ông nói về những điều ông ghét. Ông lựa chọn những đời vua điển hình nhất cho sự độc ác, thối nát của lịch sử Trung Quốc: Vua Kiệt, Vua Trụ, U Vương – tên vua nổi tiếng háo sắc, Ngũ bá – năm lãnh chúa của năm nước chư hầu thời Xuân Thu; vua và lãnh chúa ở cuối đời Đường. Bọn chúng đều là những kẻ độc ác, không quan tâm đến đời sống nhân dân, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, vơ vét của cải của nhân dân, đẩy dân vào cảnh lầm than, cực khổ.

    Ông ghét những kẻ hại dân, hại nước và cũng rất thương những con người có tài năng, đức hạnh sinh nhầm thời, tài đức bị vùi dập: Đức thánh Khổng Tử – ông tổ của Nho giáo, thầy Nhan Tử học trò giỏi nhất của Không Tử, nhà thơ Đào Uyên Minh tình tình cao thương, không mưu cầu danh lợi, từ quan về ở quân vì ông không chịu khom lưng, uốn gối,… Đó cũng là những vị quân tử nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Ông Quán thương họ, bởi họ đều là những con người tài đức nhưng lại không được trọng dụng: Khổng Tử đi khắp các nước tìm cách thực hiện đạo của mình mà không được; Nhan Tử học giởi nhưng mất sơm, Khổng Minh nổi tiếng mưu lược nhưng đến khi chết sự nghiệp vẫn chưa thành, Đào Tiềm học rộng, thơ văn lỗi lạc, đang làm quan ông từ quan về quê vì không chịu nổi cảnh phải khụy nụy. Qua đó, Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm ít nhiều tâm sự của mình pử đây. Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà nho, mang trong mình hoài bão giúp đời, giúp nước nhưng cuộc đời ông lại gặp quá nhiều chông gai, bất hạnh, thêm vào đó đúng vào thời buổi nhiễu nhương, số phận của ông cũng có những nét tương đồng với những nhân vật linh sử kia. Qua những lời ông Quán ta có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu quan tâm đến cuộc sống lầm than của nhân dân và số phận bất hạnh của nhiều hiền tài khi sinh ra không đúng thời.

    Qua bài Lẽ ghét thương, chúng ta có thể thấy rằng, yêu và ghét vốn là hai trạng thái tâm lí đối nghịch nhau nhưng lại luôn tồn tại song song với nhau. Ghét đồng thời cũng xuất phát từ tình yêu thương, như Nguyễn Đình Chiểu ông ghét những tên vua độc ác bởi ông thương người dân vô tội, sống lầm than, cực khổ, ông thương những người hiền tài sinh bất phùng thời, không thể cống hiến cho đất nước.

    Bằng những lời lẽ mộc mạc, giản dị nhưng đầy tình cảm cảm xúc, ông Quán đã thay lời Nguyễn Đình Chiểu thể hiện quan điểm về cuộc đời, xã hội. Lẽ ghét của ông cũng xuất phát từ chính tình yêu thương với nhân dân, với ngươi tài. Bởi yêu quý, kính trọng họ nên ông mới căm ghét những kẻ làm cuộc sống của họ thêm phần cực khổ. Bài thơ đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

   Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng của nền văn học dân tộc để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó “Lục Vân Tiên” là truyện thơ biểu dương đạo lí “Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh là câu trau mình”, tác phẩm mang đậm màu sắc Nam Bộ, lời thơ giản dị mộc mạc, nhân vật bộc trực thể hiện rõ thái độ yêu ghét rạch ròi. Một trong những đoạn trích hay nhất là “Lẽ ghét thương” cho thấy tình cảm thương ghét của nhà thơ, để lại nhiều điều sâu sắc đáng suy ngẫm cho người đọc.

   Đoạn trích thuộc từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán-nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu với các nho sĩ trẻ tuổi. Đó là lời cảm khái than đời của ông trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ xấu xa vu oan cho Lục Vân Tiên và Tử Trực. Qua đó ông Quán thể hiện quan điểm, thái độ của mình về lẽ ghét thương ở đời xoay quanh các câu hỏi: Ghét ai? Vì sao ghét? Thương ai? Vì sao thương? Từ đó cho ta những bài học nhận thức để suy ngẫm.

   Theo quan điểm của ông Quán cũng như sự nhận thức của cá nhân bản thân em: Nguồn gốc của sự ghét trước tiên bắt nguồn từ lẽ thương “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó là cái ghét chân chính và nhân văn. Nếu như mọi sự ghét chỉ toàn là ganh tuông, đố kị thì tất cả chỉ là thái độ hằn học với đời, mất đi sự cao cả của nó. Mức độ ghét ở đây đạt đến cực đại “Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” thương càng nhiều thì ghét càng lắm.

   Lí giải cho căn nguyên của tất cả những căm ghét trào sôi là xuất phát từ tấm lòng thương người thương đời của một nhà nho chân chính, cụ thể là vì ông thương nhân dân – những con người cùng cực, bị áp bức bất công, người hiền tài mà không được trọng dụng. Những con người ấy được ông liệt kê và nói lí do vì sao thương họ. Đó là Khổng Tử muốn truyền bá tư tưởng, thực hiện hoài bão cứu đời nhưng đi đến nước nào cũng không được tin dùng, Nhan Tử là Nhan Uyển-học trò xuất sắc của Khổng Tử học rộng tài cao nhưng số mệnh chết yểu, Gia Cát Lượng quân sư tài ba cho Lưu Bị không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư có tài có chí có tâm ra làm quan nhưng không được trọng dụng, Nguyên Lượng là Đào Tiềm-Đào Uyên Minh phải lui về ở ẩn vì không chịu được sự khom lưng uốn gối, Hàn Dũ bị oan khiên, thầy Liêm, Lạc về quê dạy học vì bất đồng quan điểm nơi triều chính. Tất cả những con người ấy đều có tài có đức mà lận đận con đường khoa cử công danh. Ông thương họ, thương dân nên mới cất lên tiếng thơ thể hiện sự căm ghét bọn vua chúa quan lại hoang dâm, tàn bạo không chăm lo cho đời sống, xây dựng đất nước mà chỉ biết hưởng thụ trên sự hi sinh của dân, bóc lột sức lao động, tiền của, trí tuệ của nhân dân. Ông ghét những người đứng đầu đại diện cho các triều đại bạo ngược bên Trung Hoa là vua Kiệt, vua Trụ, U Vương, Lệ Vương rồi đến đời nhà Chu kéo bè kết cánh, đánh nhau liên miên gây ra biết bao thảm họa, điêu đứng cho nhân dân. Ông đứng trên quan điểm lập trường và lợi ích của dân để ghét. Qua đó cho ta thấy Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “Nhân nghĩa” chính thống của Khổng Tử, Mạnh Tử khi Nho giáo vẫn còn có giá trị rất lớn, đặc biệt là quan niệm “Dân vi quý”-dân là quý nhất, quan trọng nhất. Thương dân bao nhiêu thì ghét bọn nhũng nhiễu làm hại dân bấy nhiêu.

   Tư tưởng ấy của Nguyễn đình Chiểu đến ngày nay vẫn còn có giá trị, vẫn luôn được người đời đề cao. Nhà nước ta luôn “lấy dân làm gốc”, tất cả đều xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, thấm nhuần triết lí “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” điều đó được thể hiện qua sự chưng cầu ý kiến nhân dân trong mỗi một sự việc quan trọng của đất nước. Những người cán bộ, các vị lãnh đạo ai biết yêu thương, chăm lo quan tâm đến đời sống của nhân dân luôn được dân yêu, dân tin, dân kính, dân nể và ngược lại những con người chỉ mong làm quan để đục khoét, moi móc của dân tham ô, tham nhũng thì luôn phải gánh chịu hậu quả và sự trừng phạt của pháp luật.

   Ngoài ra, qua đoạn trích “Lẽ ghét thương” Nguyễn Đình Chiểu đã cụ thể hóa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” văn học phải mang chức năng truyền tải đạo lí tốt đẹp ở trên đời, ca ngợi, ủng hộ cái tốt và lên án, tố cáo, đả kích cái xấu, những con người tàn ác. Ông Quán thương cho người tài cũng là ca ngợi giá trị của họ, ông ghét bọn hung bạo cũng là đang phê phán lối sống tiêu cực và đạo đức xuống cấp của chúng. Tuy chỉ nói chuyện bên Trung Hoa nhưng cũng là để tố cáo xã hội hiện thực, thời đại mà chính tác giả đang sống. Hồi Thiệu Trị, Tự Đức trị vì triều đình chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, tiền đồ mồ hôi công sức của nhân dân phải đổ vào lăng tẩm đền đài, quan lại tham nhũng, loạn lạc liên miên, nhân dân cùng cực rơi vào cảnh đói khổ lầm than. Ông tố cáo xã hội ấy thể hiện tấm lòng thương dân vô bờ của mình, thương cho người đời cũng là thương cho chính mình. Nguyễn Đình Chiểu học rộng tài cao, con đường hoạn lộ công danh đang rộng mở nhưng lại đứt gánh giữa đường, lận đận khoa cử, lúc đang trên đường đi thi thì được tin mẹ mất về phục tang mẹ rồi bị bệnh mù cả đôi mắt. Đồ Chiểu chưa bao giờ chịu khuất phục số phận dù mù lòa nhưng tâm ông luôn sáng, văn chương của ông là lá cờ đầu cho giai đoạn kháng chiến chống Pháp vừa tố cáo tội ác của giặc vừa thôi thúc, động viên lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến cho dân tộc.

   Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện tình cảm thương ghét rõ ràng của mình, dù nói chuyện kinh sử nhưng giọng điệu và ngôn ngữ thơ không nén được nỗi buồn đau, tức giận bởi trong cuộc sống thường ngày những điều đáng ghét, đáng thương thường xuyên dội vào tâm tư Đồ Chiểu khiến cho ông trăn trở trong cuộc đời.

   Đoạn trích tập trung các giá trị nghệ thuật tiêu biểu cho đoặc trưng thơ ca trung đại như: sử dụng các điển tích điển cố, nghệ thuật tiểu đối trong câu làm cho câu thơ có vần có nhịp, cân đối mang nét đẹp cổ điển. Ngoài ra các điệp từ, điệp cấu trúc “thương ông” “thương thầy” từ “dân” được lặp lại nhiều lần thể hiện cho quan điểm thương ghét nhân đạo của tác giả.

   “Lẽ ghét thương” qua lời ông Quán đã tập trung thể hiện quan điểm thương dân, thương đời sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu. Vì thương dân quá nhiều mà ông ghét bọn hôn quân bạo chúa ngang tàn. Đằng sau những vần thơ ghét thương là một tấm lòng nhân đạo, nhân ái bao la của nà thơ mù nổi tiếng. Đoạn trích để lại cho ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về tình cảm thương ghét ở trên đời. Không phải sự ghét nào cũng là

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác).

    “Con ơi nhớ lấy câu này

    Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.

   Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.

   Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.

   Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!

   Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi” .Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.

   Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.

   Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn:

Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đổ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đổ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chĩ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.

   Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:

    Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,

    Cả trời Nam sang nhất là đây!

    Lầu từng gác vẽ tung mây,

    Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.

   Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ … Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xí, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên ò khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn vể bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.

   Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lẩn trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cải sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ.

   Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tồi xem mạch Đông cung cho thật kĩ:

   Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người đọc cớ thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: … thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.

   Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.

   Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…

   Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.

   Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp . Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .

   Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch . Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm : “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.

   “Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.

Các bài văn mẫu lớp 11: Viết bài làm văn số 2

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 906

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống