Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Xem thêm các sách tham khảo liên quan:
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 Cực Ngắn
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 2
Đề bài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm
I. Mở bài
– Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
– Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.
II. Thân bài
1. Lời đề từ
– Lời đề từ “Đẹp vậy thay …”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
– Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy …”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.
2. Hình tượng dòng sông Đà
a. Dòng sông “hung bạo”
– “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
b. Sông Đà trữ tình
– Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
– Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …
– Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hưn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, …
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
III. Kết bài
– Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.
– Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là có một không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thể rồi nó giốnglên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa,cùng trí tưởng tượng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm trạng và thân phận riêng. Nhưn tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sảng khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng, trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian như vậy.
Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà bên cạnh đó còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn cuộc đời mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
I. Mở bài
– Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ. – Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.
II. Thân bài
1. Lời đề từ
– Lời đề từ “Đẹp vậy thay …”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
– Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy …”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.
2. Hình tượng dòng sông Đà
a. Dòng sông “hung bạo”
– “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
b. Sông Đà trữ tình
– Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
– Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …
– Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hưn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, …
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
III. Kết bài
– Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.
– Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là có một không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thể rồi nó giốnglên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa,cùng trí tưởng tượng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm trạng và thân phận riêng. Nhưn tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sảng khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng, trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian như vậy.
Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà bên cạnh đó còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn cuộc đời mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà
Bài làm
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.
– Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
– Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.
II. Thân bài
1. Sông đà “hung bạo”
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
+ Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
2. Sông Đà “trữ tình”
– Khi từ tàu bay nhìn xuống:
+ Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình … đốt nương xuân ”
+ Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
– Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
+ Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
+ Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
– Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
+ Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
+ Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
– Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
– Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.
– Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
– Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà
Bài làm
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp đối lập là vẻ đẹp hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.
Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam và cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, … đã biến dòng chảy của con ôong trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.
Trước hết dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập quốc tịch Việt Nam nó đã chảy qua một vùng núi ác của Trung Quốc. Diện mạo của dòng sông hết sức dữ dằn: đá bờ sông dựng đứng “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Hình ảnh so sánh lạ đã tái hiện được sự thu hẹp đột ngột bất ngờ của dòng sông, kết hợp với kĩ thuật miêu tả tỉ mỉ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” cho thấy quang cảnh vừa hùng vĩ, vừa âm u, rợn ngợp. Cùng với đó là trường liên tưởng độc đáo và lạ, Nguyễn Tuân đã gợi ra cái lạnh lẽo từ quang cảnh. Thông thường để tạo ra cái lạnh người ta thường liên tưởng đến mùa đông, còn Ngyễn Tuân lại liên tưởng: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Cái này này thấm sâu vào da thịt, khiến người ta phải run rẩy vì sợ hãi.
Cái dữ dội, nguy hiểm của dòng sông còn được nhà văn tạo hình ở đoạn mặt ghềnh Hát Loóng. Bằng kiến thức địa lí sâu rộng, với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Câu văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh, mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước và đá, chứa đựng đầy sự hiểm nguy.
Sự nguy hiểm còn thể hiện qua những cái hút nước trên sông. Âm thanh ghê rợn, “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, âm thanh vừa dữ dội, vừa kì quái, nó dường như được phát ra từ cổ họng một con quái vật. Về hình ảnh tác giả đặc tả những “đàn quạ bay lừ lừ trên những cái hút nước” gợi ra điềm gở, sự chết chóc. Tài hoa nhất là khi Nguyễn Tuân đẩy trường liên tưởng đến giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy: “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”.
Sau khi miêu tả diện mạo hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào tâm địa của con sông. Dòng sông Đà mang tâm địa thâm độc, hiểm ác, và nó được Nguyễn Tuân tái hiện rõ nhất trong cách chúng bày các trùng vi thạch trận. Ở đây Nguyễn Tuân đã khai thác tối đa hiệu quả của biện pháp nhân hóa, để nhận ra những hòn đá kia mang tính cách, sắc diện của con người. Theo như lời mô tả của Nguyễn Tuân, hòn đá nào cũng nhăn nhúm, méo mó và dữ dằn, chúng phối hợp với nhau tạo thành thiên la, địa võng trên sông. Trước khi vào trận chiến đã tổ chức bố trí trận địa, chúng chia thành ba trùng vi thạch trận liên tiếp nhau chứa vô vàn những cửa tử, mà mỗi trùng vi thạch trận chỉ có một cửa sinh duy nhất, cửa sinh này biến hóa khôn lường. Qua đó thể hiện sự mưu mô, xảo quyệt của con sông với người lái đò. Bằng kiến thức phong phú, uyên bác trên nhiều lĩnh vực cùng với vốn ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã miêu tả trọn vẹn sự nguy hiểm, hung bạo của dòng sông, không chỉ ở diện mạo mà còn ở cả tâm địa, tính cách.
Ở thượng nguồn sông Đà mang trong mình vẻ đẹp kì vĩ, hung bạo, còn về đến hạ nguồn sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác, dường như đối lập hoàn toàn đó là vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn. Và ở trên phương diện này Nguyễn Tuân nhìn nhận sông Đà như một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho đất trời Tây Bắc.
Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp sông Đà tác giả đã soi ngắm nó ở nhiều góc độ, thời gian khác nhau. Nhìn từ trên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn nghèo, hết sức mềm mãi, uyển chuyển. Sông đà được ví “tuôn dài như một áng tóc trữ tình” dòng sông hiện lên vô cùng mĩ lệ, tựa như một người thiếu nữ kiều diễm. Đặc biệt vẻ đẹp của dòng sông lại càng nổi bật hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khiết của hoa ban, sắc đỏ đến nao lòng của hoa gạo cùng với làn khói mờ ảo, khiến cho dòng sông dường như chảy ra từ miền cổ tích. Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, mùa xuân nước xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu lại lừu lừ chín đỏ như người say vì rượu bữa, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp trở nặng phù sa của dòng sông.
Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện rõ nét qua cảnh ven sông. Tác giả cố tình đẩy dòng sông vào miền cổ tích, để có cảm giác “từ thời Lí, Trần, Lê cũng tĩnh lặng đến thế mà thôi”. Để miêu tả cái tĩnh lặng của dòng sông tác giả đã sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh, chỉ có tiếng động của con cá dầm xanh song cũng đủ làm cho đàn hươu thơ ngộ giật mình ngơ ngác.
Về đến hạ lưu dòng chảy của sông Đà trở nên hiền hòa hơn, điều đó đã được Nguyễn Tuân diễn tả bằng một câu văn vô cùng tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Dù không miêu tả trực tiếp song âm điệu của câu văn đã toát lên sự nhẹ nhàng, êm ả, đầy duyên dáng của dòng sông.
Tác giả đi sâu vào miêu tả cảnh vật ven sông để làm nổi bật cái thơ mộng, lãng mạn của cảnh vật. Ông không tham lam các chi tiết mà chỉ một vài chi tiết rất đẹp, rất đặc sắc đã làm toát lên tất cả cái thần thái của bức tranh, đó là những nương ngô mới nhú, đồi cỏ ranh đang độ nõn búp,… Tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Bằng ngòi bút tài hoa, vốn sống phong phú Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông nước của song Đà hết sức đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua những trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên, mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm
Sông Đà có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể hiện những nét đặc trưng phong cách của ông.Đặc biệt là qua hình tượng con sông Đà Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà ngôn ngữ đại tài. Ở mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.
Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Đoạn trích Người lái đò sông Đà có lẽ là trích đoạn hay nhất, diễn tả được nhiều nhất vẻ đẹp của sông Đà. Từ đầu đến cuối tác phẩm hình ảnh sông Đà hiện lên với khuôn dung, trạng thái khác nhau, vô cùng phong phú độc đáo. Cõ lẽ Nguyễn Tuân đã phải dày công nghiên cứu, tìm tòi và quan sát kĩ lưỡng mới có thể đem đến cái nhìn hoàn chỉnh, đẹp đẽ về sông Đà đến như vậy.
Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt long sông Đà như một cái yếu hầu” đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đó đến đó hút vào, rồi cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”.
Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa. Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hái, cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.
Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức tranh đó càng trở nên mơ hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà ở những thời điểm khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu ấn riêng. Và dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như có thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa nước lũ, với lượng phù sa đổ về, sông Đà lại mang một diện mại khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Thật nhạy cảm mà cũng rất dỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.
Không chỉ cảm nhận sông Đà là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, mà ông còn coi sông Đà như một con người, đặc biệt là một cố nhân: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Bờ bãi sông Đà gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đển thế giới cổ tích đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã từng đi qua, mà nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.
Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang sơ như thời tiền sử. Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”.
Sông Đà trong những trang văn của Nguyễn Tuân không đơn thuần là một cảnh trí thiên nhiên tuyệt mĩ, đặc sắc. Mà hơn hết thông qua sông Đà ông thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của mình. Đồng thời cũng cho thấy sự chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của ông. Ông tìm thấy cái đẹp, cái mĩ ở đây, tại cuộc sống, thời điểm này chứ không phải tìm về quá khứ của một thời vang bóng.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
Bài làm
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”…
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
“Chúng thủy giai động tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu”.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm “Sông Đà” ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút “Người đò Sông Đà” là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là một “tờ hoa”, đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa,độc đáo.Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng- Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiêu ghềnh: “Đường Mường bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thúy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách…, như là van xin…., như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận”, dày đặc la liệt “boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt có bộ mặt “xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ải nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tuỳ bút “Người lái đô Sông Đà”, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bác này. Dáng hình sống Đà mểm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng tờ”; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trọng một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhãn” để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quảy vọt len mặt sông trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” .Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm “lững lờ như những hồn đá thác xa xôi”, hoặc “con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”,v.v…
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút “Sông Đà” là loại “tùy bút – kí bút”. Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc,… Chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chung thủy giai đông tẩu – Đà Giang độc bắc lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lý Bạch hơn 1.300 năm về trước:
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật thú vị:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Qua đó, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ.
Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích – bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
“Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu”
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu,.., của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền vãn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.
Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “đề thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, đã miêu tả, nhận điện con người – ông lái đò – ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thòi gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điêu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghénh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.
– Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
– Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.
II. Thân bài
1. Sông đà “hung bạo”
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
+ Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
2. Sông Đà “trữ tình”
– Khi từ tàu bay nhìn xuống:
+ Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình … đốt nương xuân ”
+ Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
– Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
+ Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
+ Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
– Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
+ Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
+ Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
– Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
– Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.
– Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
– Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp đối lập là vẻ đẹp hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.
Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam và cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, … đã biến dòng chảy của con ôong trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.
Trước hết dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập quốc tịch Việt Nam nó đã chảy qua một vùng núi ác của Trung Quốc. Diện mạo của dòng sông hết sức dữ dằn: đá bờ sông dựng đứng “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Hình ảnh so sánh lạ đã tái hiện được sự thu hẹp đột ngột bất ngờ của dòng sông, kết hợp với kĩ thuật miêu tả tỉ mỉ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” cho thấy quang cảnh vừa hùng vĩ, vừa âm u, rợn ngợp. Cùng với đó là trường liên tưởng độc đáo và lạ, Nguyễn Tuân đã gợi ra cái lạnh lẽo từ quang cảnh. Thông thường để tạo ra cái lạnh người ta thường liên tưởng đến mùa đông, còn Ngyễn Tuân lại liên tưởng: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Cái này này thấm sâu vào da thịt, khiến người ta phải run rẩy vì sợ hãi.
Cái dữ dội, nguy hiểm của dòng sông còn được nhà văn tạo hình ở đoạn mặt ghềnh Hát Loóng. Bằng kiến thức địa lí sâu rộng, với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Câu văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh, mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước và đá, chứa đựng đầy sự hiểm nguy.
Sự nguy hiểm còn thể hiện qua những cái hút nước trên sông. Âm thanh ghê rợn, “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, âm thanh vừa dữ dội, vừa kì quái, nó dường như được phát ra từ cổ họng một con quái vật. Về hình ảnh tác giả đặc tả những “đàn quạ bay lừ lừ trên những cái hút nước” gợi ra điềm gở, sự chết chóc. Tài hoa nhất là khi Nguyễn Tuân đẩy trường liên tưởng đến giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy: “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”.
Sau khi miêu tả diện mạo hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào tâm địa của con sông. Dòng sông Đà mang tâm địa thâm độc, hiểm ác, và nó được Nguyễn Tuân tái hiện rõ nhất trong cách chúng bày các trùng vi thạch trận. Ở đây Nguyễn Tuân đã khai thác tối đa hiệu quả của biện pháp nhân hóa, để nhận ra những hòn đá kia mang tính cách, sắc diện của con người. Theo như lời mô tả của Nguyễn Tuân, hòn đá nào cũng nhăn nhúm, méo mó và dữ dằn, chúng phối hợp với nhau tạo thành thiên la, địa võng trên sông. Trước khi vào trận chiến đã tổ chức bố trí trận địa, chúng chia thành ba trùng vi thạch trận liên tiếp nhau chứa vô vàn những cửa tử, mà mỗi trùng vi thạch trận chỉ có một cửa sinh duy nhất, cửa sinh này biến hóa khôn lường. Qua đó thể hiện sự mưu mô, xảo quyệt của con sông với người lái đò. Bằng kiến thức phong phú, uyên bác trên nhiều lĩnh vực cùng với vốn ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã miêu tả trọn vẹn sự nguy hiểm, hung bạo của dòng sông, không chỉ ở diện mạo mà còn ở cả tâm địa, tính cách.
Ở thượng nguồn sông Đà mang trong mình vẻ đẹp kì vĩ, hung bạo, còn về đến hạ nguồn sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác, dường như đối lập hoàn toàn đó là vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn. Và ở trên phương diện này Nguyễn Tuân nhìn nhận sông Đà như một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho đất trời Tây Bắc.
Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp sông Đà tác giả đã soi ngắm nó ở nhiều góc độ, thời gian khác nhau. Nhìn từ trên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn nghèo, hết sức mềm mãi, uyển chuyển. Sông đà được ví “tuôn dài như một áng tóc trữ tình” dòng sông hiện lên vô cùng mĩ lệ, tựa như một người thiếu nữ kiều diễm. Đặc biệt vẻ đẹp của dòng sông lại càng nổi bật hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khiết của hoa ban, sắc đỏ đến nao lòng của hoa gạo cùng với làn khói mờ ảo, khiến cho dòng sông dường như chảy ra từ miền cổ tích. Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, mùa xuân nước xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu lại lừu lừ chín đỏ như người say vì rượu bữa, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp trở nặng phù sa của dòng sông.
Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện rõ nét qua cảnh ven sông. Tác giả cố tình đẩy dòng sông vào miền cổ tích, để có cảm giác “từ thời Lí, Trần, Lê cũng tĩnh lặng đến thế mà thôi”. Để miêu tả cái tĩnh lặng của dòng sông tác giả đã sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh, chỉ có tiếng động của con cá dầm xanh song cũng đủ làm cho đàn hươu thơ ngộ giật mình ngơ ngác.
Về đến hạ lưu dòng chảy của sông Đà trở nên hiền hòa hơn, điều đó đã được Nguyễn Tuân diễn tả bằng một câu văn vô cùng tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Dù không miêu tả trực tiếp song âm điệu của câu văn đã toát lên sự nhẹ nhàng, êm ả, đầy duyên dáng của dòng sông.
Tác giả đi sâu vào miêu tả cảnh vật ven sông để làm nổi bật cái thơ mộng, lãng mạn của cảnh vật. Ông không tham lam các chi tiết mà chỉ một vài chi tiết rất đẹp, rất đặc sắc đã làm toát lên tất cả cái thần thái của bức tranh, đó là những nương ngô mới nhú, đồi cỏ ranh đang độ nõn búp,… Tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Bằng ngòi bút tài hoa, vốn sống phong phú Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông nước của song Đà hết sức đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua những trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên, mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
Sông Đà có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể hiện những nét đặc trưng phong cách của ông.Đặc biệt là qua hình tượng con sông Đà Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà ngôn ngữ đại tài. Ở mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.
Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Đoạn trích Người lái đò sông Đà có lẽ là trích đoạn hay nhất, diễn tả được nhiều nhất vẻ đẹp của sông Đà. Từ đầu đến cuối tác phẩm hình ảnh sông Đà hiện lên với khuôn dung, trạng thái khác nhau, vô cùng phong phú độc đáo. Cõ lẽ Nguyễn Tuân đã phải dày công nghiên cứu, tìm tòi và quan sát kĩ lưỡng mới có thể đem đến cái nhìn hoàn chỉnh, đẹp đẽ về sông Đà đến như vậy.
Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt long sông Đà như một cái yếu hầu” đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đó đến đó hút vào, rồi cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”.
Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa. Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hái, cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.
Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức tranh đó càng trở nên mơ hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà ở những thời điểm khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu ấn riêng. Và dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như có thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa nước lũ, với lượng phù sa đổ về, sông Đà lại mang một diện mại khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Thật nhạy cảm mà cũng rất dỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.
Không chỉ cảm nhận sông Đà là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, mà ông còn coi sông Đà như một con người, đặc biệt là một cố nhân: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Bờ bãi sông Đà gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đển thế giới cổ tích đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã từng đi qua, mà nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.
Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang sơ như thời tiền sử. Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”.
Sông Đà trong những trang văn của Nguyễn Tuân không đơn thuần là một cảnh trí thiên nhiên tuyệt mĩ, đặc sắc. Mà hơn hết thông qua sông Đà ông thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của mình. Đồng thời cũng cho thấy sự chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của ông. Ông tìm thấy cái đẹp, cái mĩ ở đây, tại cuộc sống, thời điểm này chứ không phải tìm về quá khứ của một thời vang bóng.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”…
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
“Chúng thủy giai động tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu”.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm “Sông Đà” ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút “Người đò Sông Đà” là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là một “tờ hoa”, đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa,độc đáo.Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng- Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiêu ghềnh: “Đường Mường bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thúy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách…, như là van xin…., như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận”, dày đặc la liệt “boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt có bộ mặt “xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ải nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tuỳ bút “Người lái đô Sông Đà”, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bác này. Dáng hình sống Đà mểm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng tờ”; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trọng một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhãn” để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quảy vọt len mặt sông trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” .Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm “lững lờ như những hồn đá thác xa xôi”, hoặc “con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”,v.v…
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút “Sông Đà” là loại “tùy bút – kí bút”. Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc,… Chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chung thủy giai đông tẩu – Đà Giang độc bắc lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lý Bạch hơn 1.300 năm về trước:
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật thú vị:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Qua đó, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ.
Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích – bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
“Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu”
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu,.., của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền vãn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.
Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “đề thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, đã miêu tả, nhận điện con người – ông lái đò – ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thòi gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điêu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghénh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Bài làm
I. Mở bài
– Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
– Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
II. Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, … chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề
– Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc … xuống dòng”, …
– Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
+ Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
+ Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, …
– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
– Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹo vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà
Bài làm
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điều luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,… Dưới sự điều khiển của ông lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt , ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch trận tiu ngỉu ở phía sau.
Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông gềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chỉnh bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa. Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông vào thế yếu. Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Họ – những con người lao động bình dị, thậm chí vô danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật ông lái dò trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
Bài làm
Với “Sông Đà” Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và “Người lái đò Sông Đà”, một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác “Sông Đà” ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là “mười phân vẹn mười”.
Từ “Vang bóng một thời” đến “Sông Đà”, một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã “xê dịch” để đi tìm thứ “vàng mười” còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết “một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ”. Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có mùi và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”( Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bấc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa”đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” liều mạng xông vào “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Ông đã bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn “gọn ngắn tỉnh táo” đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: “Dóng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò tấn công ngay “nắm chặt được bờm sóng” cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Thằng đá tướng thất bại thảm hại “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết”. Thần sông còn bố trí “bọn đá hậu vệ” của con thác hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v… Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa… hấp dẫn lạ thường.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi “cửa ải nước tướng dữ quân tợn” vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên cái mênh mang của “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh”, và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè”, ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang “đề thơ vào sông nước” Đà Giang.
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà
I. Mở bài
– Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
– Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
II. Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, … chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề
– Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc … xuống dòng”, …
– Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
+ Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
+ Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, …
– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
– Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹo vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điều luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,… Dưới sự điều khiển của ông lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt , ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch trận tiu ngỉu ở phía sau.
Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông gềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chỉnh bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa. Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông vào thế yếu. Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Họ – những con người lao động bình dị, thậm chí vô danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Với “Sông Đà” Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và “Người lái đò Sông Đà”, một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác “Sông Đà” ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là “mười phân vẹn mười”.
Từ “Vang bóng một thời” đến “Sông Đà”, một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã “xê dịch” để đi tìm thứ “vàng mười” còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết “một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ”. Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có mùi và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”( Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bấc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa”đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” liều mạng xông vào “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Ông đã bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn “gọn ngắn tỉnh táo” đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: “Dóng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò tấn công ngay “nắm chặt được bờm sóng” cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Thằng đá tướng thất bại thảm hại “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết”. Thần sông còn bố trí “bọn đá hậu vệ” của con thác hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v… Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa… hấp dẫn lạ thường.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi “cửa ải nước tướng dữ quân tợn” vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên cái mênh mang của “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh”, và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè”, ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang “đề thơ vào sông nước” Đà Giang.
Đề bài: Giới thiệu một vài nét về nhà văn Nguyễn Tuân và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nguyễn Tuân “là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ” như có người đã nói thế. Vẻ đẹp văn chương, dấu ấn về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện trên những kiệt tác văn chương như “Vang bóng một thời” (1940), “Sông Đà” (1960), “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi” (1972), “Tờ hoa” (1966), v.v…
Về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, sách Văn 12 có viết: “Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng túng, tài hoa và uyên bác”.
Cái nhìn của Nguyễn Tuân mang tính phát hiện độc đáo đối với thế giới khách quan, tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống, cái đẹp tài hoa, phi thường, cái đẹp ở phương tiện văn hoá, mĩ thuật, Cách uống trà, thưởng lan, cách thả thơ của người xưa (“Vang bóng một thời”), con sông Đà và người lái đò “tay lái ra hoa” (Sông Đà), cái độn tóc chị Hoài “đổ tung xuống như một trận mưa rào đen nhánh” (“Tóc chị Hoài” v.v… đã được ông nói đến một cách tài hoa, hấp dẫn.
Người ta hay nói “chủ nghĩa xê dịch” của Nguyễn Tuân. Thật ra đó là cách sống sáng tạo của riêng ông mà ông gọi là đi và viết, để “thay đổi thực đơn cho giác quan”. Quá khứ, hiện tại và tương lai, không gian và thời gian đã liên kết thành tuyến, thành mảng trên trang văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thẩm mĩ, đem đến nhiều liên tưởng, ấn tượng kì thú cho người đọc. Những tính cách phi thường (Huấn Cao, Người lái đò Sông Đà),những tình cảm, cảm giác mãnh liệt của những phong cách tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao, rừng thiêng, ghềnh thác dữ dội (cảnh mặt trời mọc ở ngoài đảo Cô Tô, đỉnh núi Phan-xi-păng với hoa đỗ quyên năm sắc rực rỡ, với cây trúc như cái phất trần, là con sông tuyến Hiền Lương, là con Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”, là tiếng thác rống lên như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn trong rừng cháy,v.v…).
Văn Nguyễn Tuân rất uyên bác, độc đáo. Các kiến thức về văn hoá, địa lí, lịch sử, phong tục, những miền quê, những vùng đất… được ông kể rất đậm đà, duyên dáng. Ông là bậc thầy về ngôn ngữ văn chương: giàu có, sáng tạo.
Nói đến phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là nói đến tuỳ bút, những trang văn xuôi đầy chất thơ của một tâm hồn nghệ sĩ, của một cây bút tài hoa, uyẻn bác, phóng túng, độc đáo hiếm có.
Đề bài: Phân tích những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân thể hiện trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.
Bài làm
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Con sông Đà thân yêu ngày nay đã cho nhân dân ta thủy điện, đem ánh sáng đến mọi miền đất nước. Cách đây trên bốn thập kỉ, nhà văn Nguyễn Tuân, đã viết “Sông Đà”, trong đó có bài kí “Người lái đò sông Đà” ngợi ca cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ của sông núi và sự dung cảm, tài hoa của con người Tây Bắc. Áng văn này đích thực là một “Tờ hoa”, một “Trang hoa”, thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ lớn, tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại: uyên bác, tài hoa, độc đáo.
Bài kí có hai nhân vật – hình tượng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ, đó là hình ảnh con sông Đà và người lái đò trên Đà giang.
Mấy thế kỉ trước, đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo đường sông Đà, ca dao có câu:
“Đường lên Mường Lễ bao xa,
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng xinh đẹp. Nguyễn Tuân coi sông Đà là người bạn thân thiết, một “cố nhân”với nhiều thương nhớ, bồi hồi. Đọc một em học sinh biết thêm: Li Tiên và Bả Biên giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Và độ dài của nó là 883 nghìn mét, riêng từ đoạn biên giới Việt – Trung đến ngã ba Trung Hà dài đúng 500 cây số lượn rồng rắn.
Sông Đà hung dữ có lắm thác nhiều ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận, kể cho ta nghe tên bao nhiêu con thác dữ, những cái tên là lạ hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, thác Tiếu, thác Bờ,… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên; người Thái mới có câu tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở thượng nguồn, lòng sông Đà có đoạn thắt lại “như cái yết hầu”, đôi bờ vách đá dựng thành “con nai,con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè….” dài hàng mấy cây số! Có những cái vực với những hút nước sâu thẳm như giếng bê tông “nước thở và kêu ặc ặc như cửa cống cái bị sặc”, ở phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn đang chờ mồi. Âm thanh tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo nên những so sánh và liên tưởng rất “đắt”cho thấy óc quan sát, cách nghĩ cách cảm của ông về thác, ghểnh Đà giang. Có lúc ông ví sông Đà hung dữ có “diện mạo và tâm địa” một thứ kẻ thù số một của con người. Nó hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao “thạch trận”, bao “trùng vi” có những ông tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp “cửa tử” và “cửa sinh” với những boong ke chìm mai phục khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà lại có mùa, có đoạn đẹp một cách hữu tình: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích… Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người bầm đi vì rượu bữa…”. Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở bung núi rừng Tây Bắc “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”. Hình ảnh những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những nương ngô xanh rờn, những con cá dầm xanh quẫy vọt lẽn mặt nước sông “bụng trắng như bạc rơi thoi” gợi lẽn vẻ đẹp kì thú, hoang sơ của Đà giang.
Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt hay và tuyệt đẹp nói lên vẻ hoang sơ của sông Đà: ‘Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ… Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn ngày xưa”. Sông Đà càng trở nôn thơ mộng với “những con đò đuôi én thắt mình dây điển” ở vùng trung lưu và “những con đò mình nở chạy buồm vải” vùng hạ lưu. Đọc “Người lái đò Sông Đà”, hơn bao giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Với tình yêu sông núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật và thời gian thẩm mĩ vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với Đà giang – mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.
Hình ảnh người lái đò sông Đà được khắc hoạ khá độc đáo. Con người này như dẫn ta đi xuôi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó là một người làm ăn giỏi, thạo nghề sông nước. Với con thuyền sáu mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên chiến trường sông nước, “nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá”. Ông đã đưa con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười nãm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông “ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”. Mái tóc nay đã bạc “cái đầu quắc thước đặt một thân cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Cánh tay ông “trẻ tráng” quá; nhìn ông lão bảy mươi tuổi mà ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai và ngực ông nổi lên những “củ nâu” dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác. Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “Huân chương lao động siêu hạng”.
Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông nước. Cảnh ghềnh thác cực kì dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra một kho ngôn từ giàu có, phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh tượng vượt thác ghềnh với bao hình thù và sắc thái, với bao bộ mặt và âm thanh, xa gần ẩn hiện, nhiêu tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy mô và tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa, chiến thắng những mưu mồ xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm, quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên tre “vút vút” xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. Có lúc ông đã “nắm chặt cái bờm sóng”, nắm chắc lấy luồng nước, vút qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,… Cũng có trường hợp ông bị luồng nước “vô sở bất chí” đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát hiểm!
Nguyễn Tuân không chỉ tả ông lái đò trong lúc vượt thác băng ghềnh mà còn miêu tả ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để làm nổi bật cái trầm tĩnh, sự thư thái ung dung của một vị thuyên trưởng lão luyện, dạn dày sông nước. Lúc ngừng chèo, đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ nói chuyện “cá anh vũ, cá dầm xanh”, những hầm cá về mùa hè tiếng nổ to như mìn, bộc phá. Còn cái chuyện vượt thác đối với ông chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
Nguyễn Tuân là một nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả biến hóa, sinh động bằng một vốn từ ngữ giàu có kì lạ. Trên mặt ghềnh thác thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”… Hút nước kêu “ặc ặc như rót dầu sôi vào”. Tiếng thác nghe từ xa vô cùng ghê rợn “như oán trách …như van xin…. như khiêu khích… giọng gằn mà chế nhạo”,có lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lôn giữa rừng cháy!
Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thể dục thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ… cả tiếng lóng của nghề sông nước để tạo nên những đoạn văn đẹp, hấp dẫn lạ. Nào là đòn tỉa đòn âm, đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào là trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa tử, pháo đài… Nào là thanh viện, giáp lá cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai… Chữ dùng thật đắt, lối đặt câu co duỗi dài ngắn, vừa đa dạng, uyển chuyển, vừa thú vị.
Các từ tượng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, những so sánh liên tưởng, lối nhân hóa… rất sáng tạo, mới mẻ, ý vị và hay. Hồ Xuân Hương viết: “Đâm toạc châm mây, đá mấy hòn” (“Tự tình”) hoặc “Hòn đá xanh rì lún phún rêu (“Đèo Ba Dội”). Bà Huyện Thanh Quan lại có câu thơ: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt – Nước còn cau mặt với tang thương”. Đó là những vần thơ tuyệt bút viết vé đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân cũng có những câu vãn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lầm liệt…”.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa trong cách sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng vẻ văn chương. Một câu thơ nước ngoài, một câu cổ thi được ông dùng làm đề từ, đã mấy ai biết xuất xứ của nó? – Và đã tạo nên cốt cách sang trọng cho bài kí. Ông nhắc lại câu đồng dao để nói về huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh tranh giành người đẹp, để yêu thêm núi Tản sông Đà:
“Núi cao sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”.
Tác giả mượn câu thơ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng của Đà giang:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Cảnh mùa xuân trên sông Đà cũng là cảnh đẹp hoa khói như con sông Trường Giang hơn nghìn năm về trước trong đời Đường khi thi tiên Lý Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Nói về truyền thống anh hùng của đồng bào Tây Bắc, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích — bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
“Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu”.
Nhờ thế mà đọc bài kí “Người lái đò Sông Đà”, ta hiểu được nhiều điều bổ ích vể cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc, về địa lí, lịch sử, về truyền thống cách mạng của các dân tộc xung quanh con sông Đà, về hình thức, ghềnh sông, về tài nguyên Tổ quốc bao la, về những câu thơ đẹp – tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây mà Nguyễn Tuân chọn lọc đưa vào. Tâm hồn người như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy, bừng sáng và trở nên giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, tài hoa và lịch lãm của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông nói về chuyện uống trà, thưởng hoa, trồng cây cảnh, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ, chơi đèn trung thu… của những nhà nho thưở trước, những thứ ăn chơi tao nhã, sang trọng, thể hiện một phong cách sống đẹp, khẳng định bản sắc của nền văn hóa Việt Nam với độ dày hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc “Người lái đò Sông đà”, ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài hoa, độc đáo. Tả cảnh thì biến hóa, trong bốn mùa, trong mọi thời gian và không gian, đa thanh và phức điệu lúc nói về thác, ghềnh… Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm, cần cù và tài hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát – khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Đề bài: Bình giảng đoạn văn sau trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… nó khắc hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Bài làm
Từ “Vang bóng một thời” (1940) đến “Sông Đà” (1960), con đường sáng tạo văn chương của Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút “Sông Đà” làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, “Sông Đà” đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghẹ thuật uyên độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.
“Người lái đò Sông Đà” rút trong tạp tùy bút “Sông Đà” thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyền Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười”của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cỏ cây trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Bút pháp của Nguyễn Tuân rất biến hóa. Lúc thì ông miêu tả sông Đà “hung bạo và trữ tình” qua cặp mắt ông lái đò dũng cảm tài hoa. Lúc thì ông nhắc đến sông Đà như một “cố nhân” sau những ngày dài ở rừng đi núi “thèm chỗ thoáng”, và khi gặp lại con sông “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có lúc Nguyễn Tuân từ trên tàu bay nhìn xuống Đà Giang bâng khuâng dõi theo dáng hình của nó “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”. Có lúc ông lại trôi theo con đò êm êm xuôi dòng để thăm thú và tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ, kì thú mà nhiều người trong chúng ta thèm khá. Nhà văn đang miêu tả hay đang tâm tình. Đây là một đoạn tùy bút đẹp, gợi tả vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của miền trung lưu Sông Đà, một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi hiếm có:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ… và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn con đồ đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nếu trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân tung ra một vốn từ ngữ phong phú, chính xác, mới lạ để diễn tả cuộc chiến giữa ông đò với thần sông, thần đá có đủ quân đông, tướng dữ, bằng một giọng văn mạnh mẽ, nhịp văn gấp như thác gầm, sóng réo, thì đến đoạn văn này giọng văn, nhịp điệu thay đổi hẳn: nhẹ nhàng, lâng lâng, mơ màng. Vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ. Đó là quãng sông từ thác Tiếu trở xuống, như một câu tục ngữ Thái đã nói: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”- mới có vẻ êm đềm thơ mộng ấy. Câu văn toàn thanh bằng diễn tả con thuyền êm ái, nhẹ nhàng trôi xuôi: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…”. Một không gian nghệ thuật “lặng tờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du. Cái ý “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này lặng tờ đến thế mà thôi”. Ngược thời gian một thiên niên kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” người đọc trở về với “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” (Hoàng Cầm). Đã có cái “phẳng lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến.
Mơ màng nhìn dòng sông, nghe nước êm trôi “lặng tờ”, ông khách sông Đà bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần cảnh ven sông. Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên “mà không một bóng người”. Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những “nõn búp” ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào mà ở đây chỉ có: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn “xanh non” ấy, mới có cách nói, cách tả độc đáo ấy; ông đã thả hồn mình vào cảnh vật, mà yêu mến, nâng niu. Câu văn của ông tưởng như là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử;
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là chữ của nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp “hoang dại” và “hồn nhiên” của Đà Giang.
Rồi từ trong cái không gian “hoang dã” ấy của đôi bờ sông Đà, Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát “thèm” một âm vang của thời đại. Từ giấc mơ của “bờ tiền sử” chuyển sang giấc mơ về một tương lai huy hoàng qua một tiếng còi tàu kì diệu,… Trong mộng tưởng có nhiều say mê: “Chao ôi thấy thèm được giật mình một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái- Lai Châu”. Ông yêu sông Đà với cái “hồn nhiên”, “hoang dại” của nó, đã “nhìn sông Đà như một cố nhân”, ông còn “thèm” ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà Giang, đưa người đọc cùng ông bay lên cùng “ngọn gió ngày mai thổi lại…”. Chất lãng mạn trong văn Nguyễn Tuân dìu dịu trong hương hoa “bữa tiệc thạch lan hương” thuở nào, chỉ đủ cho ta mơ ước về một viễn cảnh… Đó là dư vị, là mà ta cảm nhận được qua tiếng còi xúp-lê mơ màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài thơ trừ tình kì diệu, một giấc mơ chập chờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa ông khách sông Đà với đàn hươu núi đã lên đến đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cỏ sương, hươu chăm chăm nhìn người như dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động: thơ ngộ ngẩng dấu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi dò”. Hươu nhìn người mà ngơ ngác… Người nhìn đàn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ. Cả một không gian nghệ thuật trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người tự hỏi ? Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn. Từ cõi mộng mà trở về thực tại với bao nỗi bồi hồi: Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng thấy một tiếng còi sương?”. Có thể nói những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa, độc đáo, đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dại của đôi bờ con sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo, dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo vật. Câu chữ rất có duyên gợi lên cái hồn của cảnh vật: “Con hươu thơ ngộ”, “ngẩng đầu nhung”, “áng cỏ sương”,”chăm chăm nhìn”, “con vật lành”, “tiếng còi sương…”. Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mĩ tài hoa.
Cảnh biến đổi nên câu văn Nguyễn Tuân cũng co duỗi biến hóa. Một tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng. Mượn cái động để tả cái tĩnh được vận dụng sáng tạo, mờ ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quẫy, đàn hươu vụt biến, cá vọt lên mạt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hươu núi vụt biến, cá bụng trắng vượt lên rồi rơi xuống, lặn xuống; trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh của cỏ gianh đồi núi. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá… bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh.
Cá quẫy… đàn hươu vụt biến… Và ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với con đò trôi xuôi, êm ái, lặng tờ. Vốn là một nhà văn tài hoa, uyên bác, nhưng câu văn, câu thơ cổ kim đông tây, ông “giắt đầy mình” vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngâm ngợi. Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Chưa có thi sĩ và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyền Khắc Hiếu. Có trăng phải có rượu, cũng như có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà mà ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà Giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản Đà có ba bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa người tình nhân không quen biết” (1918), “Thư trách người không người tình nhân không quen biết”(1921), “Thư lại trách người tình nhân không quen biết” (1926). Nguyễn Tuân chỉ trích hai câu trong bài thơ thứ hai, trích 2 câu hay nhất, đích đáng nhất, lại vừa hợp cảnh, hợp tình. Ông viết:
Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh – bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa “tri âm”. “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”. Cũng như có cảnh đẹp mà thiếu bạn thì cái tình yêu hoa thưởng nguyệt đã giảm đi ít nhiều nhã thú. Đọc thơ bạn, ngâm thơ bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang cùng mình ngồi trên con thuyền trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…” – mơ màng tâm tình và thưởng ngoạn. Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri âm, tri kỉ.
Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây điển trên dòng trên”. “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hâu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông, để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịp sống ấm áp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi, đang lững lờ trong tâm hồn mình, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy!
Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu Tây Bắc, yêu một trời hoa ban, yêu một sắc đào Tô Hiệu, yêu một ông lái đò dũng mãnh tài ba, lúc vượt thác cũng như lúc ngổi trong hang đá nướng ống cơm lam,… Bác Nguyễn yêu cái lạng tờ của dòng sông, yêu đàn hươu rừng thơ ngộ, yẽu một tiếng cá dầm xanh quẫy, vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tác giả “Sông Đà” còn yêu và say mê ngắm “con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển” của người Thái, “con đò mình nở chạy buồm vải” của người Kinh, người Mường… Yêu sông Đà, yêu cảnh sắc sông Đà, yêu Tây Bắc, với Nguyễn Tuân, với chúng ta, chính là tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam cồn cù, nhân hậu, dũng cảm, tài ba…
Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà giang ở quãng trung lưu. Tuy vậy, ta vẫn cảm được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác. Một ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình, dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu. Những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi. Đây là một đoạn hay và đẹp nói về hương sắc đất nước. Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này… Người đọc vẫn cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với Bác nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ của dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”…