Văn mẫu lớp 12 Tập 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước, là thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính.

– Giới thiệu bài thơ Sóng: sáng tác năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào, là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh.

II. Thân bài

1. Bản chất, quy luật của “sóng” và “em”

– Khổ 1: + sử dụng nghệ thuật tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, từ đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lí của người phụ nữ khi yêu (khi mãnh liệt khi lại dịu dàng).

    + Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” được bản tính của sóng, nên “sóng ” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá chính bản thân mình, khát khao vươn tới giá trị tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

– Khổ 2: +“Ôi con sóng … và ngày sau vẫn thế”: dù trong quá khứ hay hiện tại sóng luôn dạt dào, sôi nổi, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản tính của người phụ nữ muôn đời.

    + “Nỗi khát vọng tình yêu … ngực trẻ”: liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng của đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc trưng muôn đời của tuổi trẻ.

2. Những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

    + Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về tình yêu muôn đời.

– Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời điểm bắt đầu tình tình yêu.

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu

– Khổ 5: +Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: ‘”ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Nội dung: qua hình tượng sóng diễn tả tình yêu thiết tha, nồng nàn của người phụ nữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện quan niệm tình yêu mới mẻ, hiện đại: sự chủ động của người phụ nữ trong tình yêu nhưng vẫn giữ được nét truyền thống.

Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

    Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “Sóng”.

    Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.

    Mở đầu bài thơ với hai câu thơ cùng cấu trúc tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ tạo thành hai cặp đối lập: “dữ dội/ồn ào” và “dịu êm/lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc khác nhau của sóng. Đây đồng thời cũng chính là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt nhịp 2/3 cho câu thơ, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã có thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của em, với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Đây chính là những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.

    Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp, đến với không gian rộng lớn:

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẹn, thẹn thùng, không dám quyết định cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh phúc.

    Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Làm sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một người nào”. Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy. Các từ “ngày xưa” “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu:

    “Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”

    Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể/ …/ Khi nào ta yêu nhau”. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để diễn tả bản chất của tình yêu đó là sự bí ẩn không thể lí giải được. Giữa em và muôn trùng sóng bể có sự đối lập rất rõ nét, em nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước cái vô biên, rộng lớn của vũ trụ, chính điều đó đã làm thức dậy những suy tư, trăn trở trong lòng cô gái đang yêu. Từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào nhu cầu khám phá, cắt nghĩa. Em nghĩa về biển lớn “Từ nơi nào sóng lên?” và câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”; em nghĩ về anh và em, là câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”, và câu trả lời thật chính xác: “Em cũng không biết nữa”. Quả đúng tình yêu chẳng thể đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan cài, hòa quyện vào nhau, chúng dường như nhập vào làm một. Nếu như nguồn gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho tình yêu.

    Những nhịp sóng khi êm đềm, khi dâng lên cuộn trào cũng như chính cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu/ …/ Dù muôn vời cách trở. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ này, nỗi nhớ ấy gắn với không gian “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó bao trùm cả thời gian “ngày đêm không ngủ được”, và xâm chiếm tâm hồn con người, ngay cả trong vô thức “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một tiếng “nhớ” thôi mà đã diễn tả đầy đủ được tình yêu em dành cho anh .Đồng thời đây là khổ duy nhất trong bài có đến 6 câu thơ, sự phá cách ấy đã góp phần diễn tả trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ trong tình yêu.

    Nỗi nhơ da diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dẫu xuôi về phương Bắc/…/ Hướng về anh – một phương”. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung, son sắt.

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”

    Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/đò là ẩn dụ cho người con trai, bờ/bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây “sóng” lại là hình ảnh của người con gái, “bờ” là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu.

    Từ bỏ cái chật chội, bé nhỏ Xuân Quỳnh hướng đến cái lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn đó là khát vọng dâng hiến và bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ. Khổ thơ thứ tám vừa là suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những nhận thức trong tình yêu và đi đến ước nguyện được tan ra, được dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hoà trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.

    Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đan cài, hòa quyện làm một khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

    Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng “sóng”“em” , Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những nét hiện đại.

Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

   Nếu hỏi đề tài nào được quan tâm nhiều nhất, được viết nhiều nhất, tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng: ấy là tình yêu. Tình yêu một thứ tình cảm quyến luyến đến lạ lùng, khiến người ta luôn nhớ nhung và khoắc khoải. Ở bất cứ một trạng thái, một khoảng khắc nào nó vẫn luôn ngự trị trong trái tim ta.

   Xuân Quỳnh – một người phụ nữ đa cảm, giàu tình yêu thương cũng có những cung bậc cảm xúc mãnh liệt như vậy khi yêu. Khi mới yêu, tình yêu khi có gia đình, mỗi thời đoạn lại có cung bậc khác nhau, nhưng tựu lại đều là tình yêu tha thiết, cháy bỏng. Sóng là một trong những bài thơ như vậy.

   Viết về tình yêu, tình cảm đôi lứa, ta đâu chỉ biết đến một mình Xuân Quỳnh, mà còn có Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, hay một Hàn Mạc Tử đầy khác lạ,… Nhưng những vần thơ viết về tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn mang một dư âm riêng, rất lạ, rất bình dị, và đẹp đẽ. Chị nói về tình yêu của mình cũng vô cùng dung dị, cũng có cái phân vân, lo lắng:

     Trước muôn trùng sóng bể

     Em nghĩ về anh em

     Em nghĩ về biển lớn

     Từ nơi nào song lên?

     Sóng bắt đầu từ gió

     Gió bắt đầu từ đâu

     Em cũng không biết nữa

     Khi nào ta yêu nhau?

   Trong tình yêu, có lẽ người ta vẫn thường tự hỏi nhau rằng, khi nào anh yêu em, khi nào anh nhớ em? Nhưng đã có mấy ai thực sự trả lời được câu hỏi đó. Tình yêu là một thứ xúc cảm nhẹ nhàng, sâu lắng, nó bất chợt đến cuộc sống của chúng ta mà không ai hay biết, là một buổi sáng mùa thu đẹp đẽ hay là một chiều đông giá rét. Chẳng ai có thể định rõ thời gian khi con tim rung đông. Ấy chính là tình yêu. Và Xuân Quỳnh cũng vậy, chị tự hỏi, tự truy vấn chình mình và cũng tự nhận ra rằng “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?”. Tình yêu đâu đong đếm bằng thời gian, mà chỉ đo lường bằng tình cảm, cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn mỗi con người.

   Dẫu rằng luôn băn khoăn, luôn khắc khoải bởi câu hỏi khi nào anh yêu em, nhưng đó có lẽ dường như cũng chỉ là lời hỏi muốn khẳng định tình yêu của đối phương. Còn trong lòng người con gái ấy, vốn tình yêu đong đầy với chàng trai là không gì có thể xóa nhòa nổi:

     Con sóng dưới lòng sâu

     Con sóng trên mặt nước

     Ôi con sóng nhớ bờ

     Ngày đêm không ngủ được

     Lòng em nhớ đến anh

     Cả trong mơ còn thức

   Xuân Quỳnh mượn hình ảnh của những con sóng vô hạn, nối tiếp nhau xô vào bờ để diễn tả tâm trạng, cảm xúc của người con gái khi yêu. Tình cảm chân thành, mãnh liệt ấy được diễn tả ở cả hai không gian “lòng sâu” “mặt nước” ở tất cả mọi thời gian “ngày đêm” tình yêu dường như mãnh liệt đến độ chẳng thể đong đếm, chẳng thể nói hết bằng lời. Và càng mãnh liệt, tinh tế hơn khi nỗi nhớ ấy “cả trong mơ còn thức” tình yêu trong cõi vô thức vẫn choán ngợp, cồn cào mãnh liệt trong lòng. Người con gái trong tình yêu đương bùng cháy không hề giấu giếm, không hề ngại ngàn nói ra những cảm xúc, tình cảm cả mình. Nhưng để rồi ngay sau đó lại trở nên thâm trầm, sâu lắng hơn:

     Dẫu xuôi về phương Bắc

     Dẫu ngược về phương Nam

     Nơi nào em cũng nghĩ

     Hướng về anh một phương

   Tình yêu cần nhất chính là sự chân thành, chung thủy, dẫu đi ngược về xuôi vẫn luôn dõi mắt hướng về người mình yêu thường. Đó chính là minh chứng của tình yêu chân thành, bên vững, luôn luôn hướng về nhau. Cách diễn tả của chị trong câu thơ cũng thật đặc biệt xuôi về Bắc, ngược về Nam, tưởng chừng là nhầm lẫn nhưng kì thực cách diễn đạt như vậy lại càng làm sáng tỏ hơn trái tim yêu chân thành mà chị dành cho người mình yêu thương.

   Những khổ thơ cuối cùng là những suy nghĩ, chiêm nghiệm của chị về tình yêu, về cuộc đời. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều gian nan trắc trở những vẫn sẽ đi qua, cũng như tình yêu của em và anh cuối cùng cũng sẽ đi đến bến bờ hạnh phúc. Khổ thơ cuối là nguyện ước chân thành của Xuân Quỳnh:

     Làm sao được tan ra

     Làm trăm con sóng nhỏ

     Trong biển lớn tình yêu

     Để ngàn năm còn vỗ.

   Tình yêu đối với Xuân Quỳnh không chỉ đơn thuần là những câu nói, mà đó còn là mong ước tận hiến, được tan ra, được sống trọn vẹn trong tình yêu của nhau. Đó mới là đích đến, là điều mà Xuân Quỳnh hằng hướng đến.

   Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn từ dung dị, dễ hiểu Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những tình cảm, những cảm xúc mới mẻ trong tình yêu của một người con gái. Đồng thời còn thể hiện những quan niệm hết sức mới mẻ, nhân văn trong tình yêu của mình.

Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước, là thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính. – Giới thiệu bài thơ Sóng: sáng tác năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào, là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh.

II. Thân bài

1. Bản chất, quy luật của “sóng” và “em”

– Khổ 1: + sử dụng nghệ thuật tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, từ đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lí của người phụ nữ khi yêu (khi mãnh liệt khi lại dịu dàng).

    + Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” được bản tính của sóng, nên “sóng ” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá chính bản thân mình, khát khao vươn tới giá trị tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

– Khổ 2: +“Ôi con sóng … và ngày sau vẫn thế”: dù trong quá khứ hay hiện tại sóng luôn dạt dào, sôi nổi, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản tính của người phụ nữ muôn đời.

    + “Nỗi khát vọng tình yêu … ngực trẻ”: liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng của đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc trưng muôn đời của tuổi trẻ.

2. Những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

    + Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về tình yêu muôn đời.

– Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời điểm bắt đầu tình tình yêu.

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu

– Khổ 5: +Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: ‘”ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Nội dung: qua hình tượng sóng diễn tả tình yêu thiết tha, nồng nàn của người phụ nữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện quan niệm tình yêu mới mẻ, hiện đại: sự chủ động của người phụ nữ trong tình yêu nhưng vẫn giữ được nét truyền thống.

    Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “Sóng”.

    Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.

    Mở đầu bài thơ với hai câu thơ cùng cấu trúc tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ tạo thành hai cặp đối lập: “dữ dội/ồn ào” và “dịu êm/lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc khác nhau của sóng. Đây đồng thời cũng chính là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt nhịp 2/3 cho câu thơ, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã có thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của em, với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Đây chính là những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.

    Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp, đến với không gian rộng lớn:

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẹn, thẹn thùng, không dám quyết định cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh phúc.

    Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Làm sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một người nào”. Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy. Các từ “ngày xưa” “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu:

    “Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”

    Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể/ …/ Khi nào ta yêu nhau”. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để diễn tả bản chất của tình yêu đó là sự bí ẩn không thể lí giải được. Giữa em và muôn trùng sóng bể có sự đối lập rất rõ nét, em nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước cái vô biên, rộng lớn của vũ trụ, chính điều đó đã làm thức dậy những suy tư, trăn trở trong lòng cô gái đang yêu. Từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào nhu cầu khám phá, cắt nghĩa. Em nghĩa về biển lớn “Từ nơi nào sóng lên?” và câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”; em nghĩ về anh và em, là câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”, và câu trả lời thật chính xác: “Em cũng không biết nữa”. Quả đúng tình yêu chẳng thể đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan cài, hòa quyện vào nhau, chúng dường như nhập vào làm một. Nếu như nguồn gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho tình yêu.

    Những nhịp sóng khi êm đềm, khi dâng lên cuộn trào cũng như chính cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu/ …/ Dù muôn vời cách trở. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ này, nỗi nhớ ấy gắn với không gian “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó bao trùm cả thời gian “ngày đêm không ngủ được”, và xâm chiếm tâm hồn con người, ngay cả trong vô thức “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một tiếng “nhớ” thôi mà đã diễn tả đầy đủ được tình yêu em dành cho anh .Đồng thời đây là khổ duy nhất trong bài có đến 6 câu thơ, sự phá cách ấy đã góp phần diễn tả trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ trong tình yêu.

    Nỗi nhơ da diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dẫu xuôi về phương Bắc/…/ Hướng về anh – một phương”. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung, son sắt.

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”

    Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/đò là ẩn dụ cho người con trai, bờ/bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây “sóng” lại là hình ảnh của người con gái, “bờ” là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu.

    Từ bỏ cái chật chội, bé nhỏ Xuân Quỳnh hướng đến cái lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn đó là khát vọng dâng hiến và bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ. Khổ thơ thứ tám vừa là suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những nhận thức trong tình yêu và đi đến ước nguyện được tan ra, được dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hoà trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.

    Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đan cài, hòa quyện làm một khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

    Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng “sóng” và “em” , Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những nét hiện đại.

   Nếu hỏi đề tài nào được quan tâm nhiều nhất, được viết nhiều nhất, tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng: ấy là tình yêu. Tình yêu một thứ tình cảm quyến luyến đến lạ lùng, khiến người ta luôn nhớ nhung và khoắc khoải. Ở bất cứ một trạng thái, một khoảng khắc nào nó vẫn luôn ngự trị trong trái tim ta.

    Xuân Quỳnh – một người phụ nữ đa cảm, giàu tình yêu thương cũng có những cung bậc cảm xúc mãnh liệt như vậy khi yêu. Khi mới yêu, tình yêu khi có gia đình, mỗi thời đoạn lại có cung bậc khác nhau, nhưng tựu lại đều là tình yêu tha thiết, cháy bỏng. Sóng là một trong những bài thơ như vậy.

    Viết về tình yêu, tình cảm đôi lứa, ta đâu chỉ biết đến một mình Xuân Quỳnh, mà còn có Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, hay một Hàn Mạc Tử đầy khác lạ,… Nhưng những vần thơ viết về tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn mang một dư âm riêng, rất lạ, rất bình dị, và đẹp đẽ. Chị nói về tình yêu của mình cũng vô cùng dung dị, cũng có cái phân vân, lo lắng:

    Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào song lên?

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau?

    Trong tình yêu, có lẽ người ta vẫn thường tự hỏi nhau rằng, khi nào anh yêu em, khi nào anh nhớ em? Nhưng đã có mấy ai thực sự trả lời được câu hỏi đó. Tình yêu là một thứ xúc cảm nhẹ nhàng, sâu lắng, nó bất chợt đến cuộc sống của chúng ta mà không ai hay biết, là một buổi sáng mùa thu đẹp đẽ hay là một chiều đông giá rét. Chẳng ai có thể định rõ thời gian khi con tim rung đông. Ấy chính là tình yêu. Và Xuân Quỳnh cũng vậy, chị tự hỏi, tự truy vấn chình mình và cũng tự nhận ra rằng “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?”. Tình yêu đâu đong đếm bằng thời gian, mà chỉ đo lường bằng tình cảm, cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn mỗi con người.

    Dẫu rằng luôn băn khoăn, luôn khắc khoải bởi câu hỏi khi nào anh yêu em, nhưng đó có lẽ dường như cũng chỉ là lời hỏi muốn khẳng định tình yêu của đối phương. Còn trong lòng người con gái ấy, vốn tình yêu đong đầy với chàng trai là không gì có thể xóa nhòa nổi:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Xuân Quỳnh mượn hình ảnh của những con sóng vô hạn, nối tiếp nhau xô vào bờ để diễn tả tâm trạng, cảm xúc của người con gái khi yêu. Tình cảm chân thành, mãnh liệt ấy được diễn tả ở cả hai không gian “lòng sâu” “mặt nước” ở tất cả mọi thời gian “ngày đêm” tình yêu dường như mãnh liệt đến độ chẳng thể đong đếm, chẳng thể nói hết bằng lời. Và càng mãnh liệt, tinh tế hơn khi nỗi nhớ ấy “cả trong mơ còn thức” tình yêu trong cõi vô thức vẫn choán ngợp, cồn cào mãnh liệt trong lòng. Người con gái trong tình yêu đương bùng cháy không hề giấu giếm, không hề ngại ngàn nói ra những cảm xúc, tình cảm cả mình. Nhưng để rồi ngay sau đó lại trở nên thâm trầm, sâu lắng hơn:

    Dẫu xuôi về phương Bắc

    Dẫu ngược về phương Nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh một phương

    Tình yêu cần nhất chính là sự chân thành, chung thủy, dẫu đi ngược về xuôi vẫn luôn dõi mắt hướng về người mình yêu thường. Đó chính là minh chứng của tình yêu chân thành, bên vững, luôn luôn hướng về nhau. Cách diễn tả của chị trong câu thơ cũng thật đặc biệt xuôi về Bắc, ngược về Nam, tưởng chừng là nhầm lẫn nhưng kì thực cách diễn đạt như vậy lại càng làm sáng tỏ hơn trái tim yêu chân thành mà chị dành cho người mình yêu thương.

    Những khổ thơ cuối cùng là những suy nghĩ, chiêm nghiệm của chị về tình yêu, về cuộc đời. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều gian nan trắc trở những vẫn sẽ đi qua, cũng như tình yêu của em và anh cuối cùng cũng sẽ đi đến bến bờ hạnh phúc. Khổ thơ cuối là nguyện ước chân thành của Xuân Quỳnh:

    Làm sao được tan ra

    Làm trăm con sóng nhỏ

    Trong biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ.

    Tình yêu đối với Xuân Quỳnh không chỉ đơn thuần là những câu nói, mà đó còn là mong ước tận hiến, được tan ra, được sống trọn vẹn trong tình yêu của nhau. Đó mới là đích đến, là điều mà Xuân Quỳnh hằng hướng đến.

    Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn từ dung dị, dễ hiểu Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những tình cảm, những cảm xúc mới mẻ trong tình yêu của một người con gái. Đồng thời còn thể hiện những quan niệm hết sức mới mẻ, nhân văn trong tình yêu của mình.

Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh: là nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, tiếng thơ của chị giàu chất nữ tính, trăn trở với những khát khao hạnh phúc đời thường, giản dị.

– Giới thiệu bài thơ và hình tượng sóng: Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của chị, hình tượng đặc đặc sắc làm nên giá trị bài thơ chính là hình tượng sóng.

II. Thân bài

1. Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu

– Khổ 1: + Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).

    + Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn, đó là khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

– Khổ 2: + Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la.

    + Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.

2. Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

– Khổ 3: Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”)

– Khổ 4: Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió …” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải.

3. Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

– Khổ 5: Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày – đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ.

    + Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: : + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.

– Khổ 7: + Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.

4. Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu

– Khổ 8: + Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

    + Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng … bay về xa.”

– Khổ 9: + Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

    + Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về hình tượng sóng và nội dung bài thơ: bằng sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng sóng và em, bài thơ là tiếng lòng khát khao tình yêu mãnh liệt, chân thành của người phụ nữ muốn vượt qua mọi giới hạn của không gian, sự hữu hạn của đời người để hướng đến cái tuyệt đích của tình yêu.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng sóng song hành với hình tượng em, nhịp điệu tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, …

Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

    Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

    Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

    Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

    “Dữ dội và dịu êm

    ồn ào và lặng lẽ

   

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”

    “Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

    Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

    Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”

    Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy…vẫn…” “Dẫu …vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

    Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

   Xuân Quỳnh được biết đến là một nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Những tác phẩm, những câu chuyện của bà xoay quanh cuộc sống thường nhật, cuộc đời, tình yêu, gia đình nhỏ của bà. Những câu chuyện dung dị mà sâu lắng, được thể hiện qua giọng thơ hết sức hồn hồn, sâu sắc. Nhắc đến Xuân Quỳnh ta cũng không thể không nhắc đến bài Sóng với hình tượng sóng nổi bật, chứa đựng nhiều giá trị, ý nghĩa

   Viết về tình yêu, nói về tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Có rất nhiều hình tượng khác nhau được lựa chọn để nói lên những cung bậc cảm xúc khác nhau. Riêng đối với Xuân Quỳnh bà lựa chọn “sóng” để nói lên những cũng bậc tình yêu mãnh liệt của mình. Có một điều rất đặc biệt trong kết cấu bài thơ ấy là bài thơ gồm có tất cả 9 khổ, bốn khổ đầu và 4 khổ cuối số lượng câu trong một khổ bằng nhau là những con sóng dồn dập, tới tấp ùa về. Còn riêng khổ thơ giữa lại có tận những sáu câu, nhưng những làn sóng vươn cao mãnh liệt, diễn tả tình cảm cuộn dâng của người con gái khi yêu. Kết hợp với kết cấu các khổ thơ là nhịp điệu dạt dào những những con sóng đồng điệu với nhịp đập của trái tim người con gái khi yêu. Với tất cả những điều đó, hình tượng sóng đã làm tròn nhiệm vụ biểu đạt những cung bậc tình cảm mãnh liệt của bà, của những người con gái khi yêu.

   Bài thơ mở đầu bằng nỗi băn khoăn, thao thức của một trái tim khao khát yêu và được yêu:

     Dữ dội và dịu êm

     Ồn ào và lặng lẽ

     Sông không hiểu nổi mình

     Sóng tìm ra tận bể

   Hai trạng thái đối lập, đầy mâu thuẫn, nhưng ấy cũng chính là trạng thái của những con người khi yêu. Câu thơ được ngắt nhịp 2/3 cùng với sự đối ứng của thanh điệu: dữ dội – ồn ào, dịu êm – lặng lẽ đã cho thấy sự đối nghịch của những con sóng đồng thời cũng chính là những nhịp đập bất thường của trái tim. Trong cái dữ dội vẫn có cái dịu êm, trong cái ồn ào vẫn có cái lặng lẽ. Cũng như trái tim người con gái, dù yêu đương nồng nàn vẫn còn những khoảng lặng thâm trầm, sâu sắc. Nhẹ nhàng mà lắng sâu trong trái tim, tâm hồn họ. Đồng thời con song nhỏ bé ấy cũng mang trong mình khát vọng lớn, muốn truy nguyên, cắt nghĩa lí giải tình yêu, bởi vậy cô gái tuy nhỏ bé ấy đã “ra tận bể” để tìm thấy cho mình câu trả lời.

   Để rồi khổ thơ tiếp theo, hình tượng sóng tiếp tục ẩn hiện trong từng câu chữ, khẳng định tình yêu mãnh liệt:

     Ôi con sóng ngày xưa

     Và ngày sau vẫn thế

     Nỗi khát vọng tình yêu

     Bồi hồi trong ngực trẻ.

   Trước cái chảy trôi vô hạn của thời gian “ngày xưa” “ngày sau” nhưng người còn gái ấy “vẫn thế”. Vẫn khao khát yêu đương, trái tim vẫn không thôi nhiệt huyết, cháy bỏng. Cũng từ đó, Xuân Quỳnh bước đầu tìm hiểu, tìm cách cắt nghĩa lí giải về tình yêu. Đã từ ngàn đời nay người ta vẫn truy nguyên, lí giải của tình yêu, ấy vậy nhưng đã có ai làm được, đã có ai truy nguyên được, tình yêu là gì. Con sóng từ chỗ để cảm, để hiểu đã trở thành đối tượng để suy tư, triết lí. Mải miết để suy tư, để cắt nghĩa về tình yêu, để rồi cuối cùng chính Xuân Quỳnh cũng phải tự thừa nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Bởi tình yêu là như vậy, là sự ngự trị của con tim, là sự thúc đẩy của cảm xúc, làm sao có thể triết tự, có thể cắt nghĩa rạch ròi. Nếu tình yêu như một bài toán có lẽ lúc ấy đã không còn là tình yêu nữa, đúng như Pascal đã từng nói: “Trái tim có quy luật riêng mà lí trí không thể hiểu nổi”.

   Dù đã thừa nhận rằng trái tim không thể lí giải khi nào ta yêu nhau, nhưng Xuân Quỳnh vẫn không ngừng tìm tòi và nhận ra: biểu hiện dạt dào mãnh liệt nhất của tình yêu chính là nỗi nhớ:

     Con sóng dưới lòng sâu

     Con sóng trên mặt nước

     Ôi con sóng nhớ bờ

     Ngày đêm không ngủ được

     Lòng em nhớ đến anh

     Cả trong mơ còn thức

   Đây chính là những lớp sóng cuộn trào, đẩy tình cảm của nhân vật trữ tình lên đến đỉnh điểm. Quả thực trong tình yêu còn gì dễ dàng nhận thấy hơn là nỗi nhớ, nỗi nhớ chìm trong đáy mắt u buồn, trong tâm khảm khắc khoải. Đó là những biểu hiện mà không ai có thể che giấu được. Và Xuân Quỳnh đã diễn tả vô cùng xuất sắc nỗi nhớ ấy trong từng câu chữ của mình, và biến nó trở thành khổ thơ hay nhất của bài. Chị đã diễn tả thật xúc động, nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” là nỗi nhớ đã ăn sâu, đã hằn lên trong nếp cảm, nếp nghĩ của người con gái. Đồng thời cũng cho thấy nỗi nhớ da diết, cồn ào, triền miên, như sóng biển lúc nào cũng dội vào bờ.

   Sóng bắt đầu từ gió, cũng như tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ. Lấy hình tượng song để diễn tả tình yêu, Xuân Quỳnh đã hoàn chỉnh quan niệm, chân dung về tình yêu. Sóng và em chính là nhịp đập trái tim của người con gái khi yêu, là tình yêu chân thành, mãnh liệt. Nhưng cũng đầy thủy chung, nữ tính, e ấp của người con gái.

   Những khổ thơ cuối cùng của mình, bà không ngần ngại bộc lộ những ước mơ của một người con gái: “Ở ngoài kia đại dương/…/Mây vẫn bay về xa”. Bài thơ kết thúc bằng niềm khao khát cháy bỏng, mãnh liệt được sống, cống hiến hết mình cho tình yêu. Không chỉ cống hiến mà cò muốn được tan ra thành trăm ngàn con sóng nhỏ, để hòa vào biển lớn tình yêu: “Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”.

   Với hình tượng sóng người đọc có thể cảm nhận một cách sâu sắc, toàn diện nhất về một tâm hồn nữ tính đầy khao khát yêu thương và được yêu thương, hướng đến một tình yêu trong sáng, vĩnh cửu. Bài thơ Sóng đã trở thành một tượng đài bất tử khi viết về tình yêu đôi lứa, đặc biệt là tình yêu của những người phụ nữ trong những ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, cháy bỏng.

Đề bài: Hình tượng “Sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh là lời giải bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của tác giả. Hãy phân tích và chứng minh vấn đề trên.

Bài làm

    Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: “Hoa cúc xanh”, “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Nói cùng anh”, “Mùa hoa doi”, v.v…

    … “Tình anh đối với em là xứ sở

    Là bóng rợp trên đường nắng lửa

    Trái cây thơm trên miền đất khô cằn

    Đó tình yêu, em muốn nói cùng anh

    Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng

    Lòng tốt để duy trì sự sống

    Cho con người thực sự Người hơn”.

           (Nói cùng anh)

    Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng”, làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người “thực sự Người hơn”. Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tỉnh yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng “sóng” là ẩn dụ về “em”, về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

    Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì “dữ dội”, lúc thì “dịu êm”, có lúc lại “ồn ào”, có khi rất lặng lẽ. .Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đối trong tình yêu:

    “Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ”.

    Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng của “muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mỏng cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bời lẽ ” Làm sao sống được mà không yêu — Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

    “Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Con sóng tình yêu có vồ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng “Những cô gái da mịn màng như lụa – Những chàng trai đang độ hai mươi” (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động “bồi hồi” như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần” (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

    Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, “em nghĩ về anh, em”,và tự hỏi: “Từ kh nào sóng lên”. Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hối tràn ngập tình thương yêu:

    “Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu?

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau”.

    Tình yêu là sự sống muôn đời nơi “vườn trần” nhưng “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đám. Cái giây phút “thắm lại” của lứa đôi trong mối tình đẩu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là “cái thuở ban đâu lưu luyến” vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

    “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

    Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”.

    Sóng được nhân hóa, “sóng nhớ bờ”, sóng “ngày đêm không ngủ được”, dù ở “dưới lòng sâu”, hay “ở trên mặt nước”. Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, “thôn Đoài thì nhớ thôn Đông…” người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm “cả trong mơ” và cả trong lúc “còn thức”. Một chữ “nhớ” tràn ngập tình yêu thương.

    Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tinh yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”, chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược… nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

    “Dẫu xuôi về phương Bắc

    Dầu ngược về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng vê anh – một phương

    Cấu trúc đoạn thơ: “dẫu … cũng…”,chữ “dẫu” được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: “cũng nghĩ”, “hướng về” liên kết với số từ “một” (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong “Thề non nước”:

    “Dù cho sông cạn đá mòn,

    Còn non còn nước hãy cồn thề xưa”.

    Tình yêu đẹp đem đến cho “em” một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có “muôn vời cách trở”. Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách

    Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hổn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

    “Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa”.

    “Tuy… vẫn…”, “dẫu… vẫn”, cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. “Năm tháng” và “mây” là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

    Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được “tan ra”, muốn được hóa thân thành “Trăm sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp , bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống “giữa biển lớn tình yêu” đến ngàn năm “còn vỗ”… Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

    “Sóng” cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

    Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái “được yêu” như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là “sóng” ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình “Biển”của thi sĩ Xuân Diệu “sóng” lại là hình ảnh người con trai đa tình:

    “Anh xin làm sóng biếc

    Hôn mãi cát vàng em

    Hôn thật khẽ thật êm

    Hôn êm đềm mãi mãi

    Đã hôn rồi hôn lại

    Hôn mãi đến muôn đời

    Đến tan cả đất trời

    Anh mới thôi dào dạt…”.

    Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao “bồi hồi trong ngực trẻ” về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng của Xuân Quỳnh

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh: là nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, tiếng thơ của chị giàu chất nữ tính, trăn trở với những khát khao hạnh phúc đời thường, giản dị.

– Giới thiệu bài thơ và hình tượng sóng: Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của chị, hình tượng đặc đặc sắc làm nên giá trị bài thơ chính là hình tượng sóng.

II. Thân bài

1. Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu

– Khổ 1: + Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).

    + Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn, đó là khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

– Khổ 2: + Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la.

    + Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.

2. Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

– Khổ 3: Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”)

– Khổ 4: Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió …” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải.

3. Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

– Khổ 5: Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày – đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ.

    + Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: : + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.

– Khổ 7: + Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.

4. Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu

– Khổ 8: + Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

    + Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng … bay về xa.”

– Khổ 9: + Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

    + Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về hình tượng sóng và nội dung bài thơ: bằng sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng sóng và em, bài thơ là tiếng lòng khát khao tình yêu mãnh liệt, chân thành của người phụ nữ muốn vượt qua mọi giới hạn của không gian, sự hữu hạn của đời người để hướng đến cái tuyệt đích của tình yêu.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng sóng song hành với hình tượng em, nhịp điệu tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, …

   Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

    Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

    Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

    “Dữ dội và dịu êm

    ồn ào và lặng lẽ…

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”

    “Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

    Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

    Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”

    Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy…vẫn…” “Dẫu …vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

    Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

   Xuân Quỳnh được biết đến là một nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Những tác phẩm, những câu chuyện của bà xoay quanh cuộc sống thường nhật, cuộc đời, tình yêu, gia đình nhỏ của bà. Những câu chuyện dung dị mà sâu lắng, được thể hiện qua giọng thơ hết sức hồn hồn, sâu sắc. Nhắc đến Xuân Quỳnh ta cũng không thể không nhắc đến bài Sóng với hình tượng sóng nổi bật, chứa đựng nhiều giá trị, ý nghĩa

    Viết về tình yêu, nói về tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Có rất nhiều hình tượng khác nhau được lựa chọn để nói lên những cung bậc cảm xúc khác nhau. Riêng đối với Xuân Quỳnh bà lựa chọn “sóng” để nói lên những cũng bậc tình yêu mãnh liệt của mình. Có một điều rất đặc biệt trong kết cấu bài thơ ấy là bài thơ gồm có tất cả 9 khổ, bốn khổ đầu và 4 khổ cuối số lượng câu trong một khổ bằng nhau là những con sóng dồn dập, tới tấp ùa về. Còn riêng khổ thơ giữa lại có tận những sáu câu, nhưng những làn sóng vươn cao mãnh liệt, diễn tả tình cảm cuộn dâng của người con gái khi yêu. Kết hợp với kết cấu các khổ thơ là nhịp điệu dạt dào những những con sóng đồng điệu với nhịp đập của trái tim người con gái khi yêu. Với tất cả những điều đó, hình tượng sóng đã làm tròn nhiệm vụ biểu đạt những cung bậc tình cảm mãnh liệt của bà, của những người con gái khi yêu.

    Bài thơ mở đầu bằng nỗi băn khoăn, thao thức của một trái tim khao khát yêu và được yêu:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Hai trạng thái đối lập, đầy mâu thuẫn, nhưng ấy cũng chính là trạng thái của những con người khi yêu. Câu thơ được ngắt nhịp 2/3 cùng với sự đối ứng của thanh điệu: dữ dội – ồn ào, dịu êm – lặng lẽ đã cho thấy sự đối nghịch của những con sóng đồng thời cũng chính là những nhịp đập bất thường của trái tim. Trong cái dữ dội vẫn có cái dịu êm, trong cái ồn ào vẫn có cái lặng lẽ. Cũng như trái tim người con gái, dù yêu đương nồng nàn vẫn còn những khoảng lặng thâm trầm, sâu sắc. Nhẹ nhàng mà lắng sâu trong trái tim, tâm hồn họ. Đồng thời con song nhỏ bé ấy cũng mang trong mình khát vọng lớn, muốn truy nguyên, cắt nghĩa lí giải tình yêu, bởi vậy cô gái tuy nhỏ bé ấy đã “ra tận bể” để tìm thấy cho mình câu trả lời.

    Để rồi khổ thơ tiếp theo, hình tượng sóng tiếp tục ẩn hiện trong từng câu chữ, khẳng định tình yêu mãnh liệt:

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ.

    Trước cái chảy trôi vô hạn của thời gian “ngày xưa” “ngày sau” nhưng người còn gái ấy “vẫn thế”. Vẫn khao khát yêu đương, trái tim vẫn không thôi nhiệt huyết, cháy bỏng. Cũng từ đó, Xuân Quỳnh bước đầu tìm hiểu, tìm cách cắt nghĩa lí giải về tình yêu. Đã từ ngàn đời nay người ta vẫn truy nguyên, lí giải của tình yêu, ấy vậy nhưng đã có ai làm được, đã có ai truy nguyên được, tình yêu là gì. Con sóng từ chỗ để cảm, để hiểu đã trở thành đối tượng để suy tư, triết lí. Mải miết để suy tư, để cắt nghĩa về tình yêu, để rồi cuối cùng chính Xuân Quỳnh cũng phải tự thừa nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Bởi tình yêu là như vậy, là sự ngự trị của con tim, là sự thúc đẩy của cảm xúc, làm sao có thể triết tự, có thể cắt nghĩa rạch ròi. Nếu tình yêu như một bài toán có lẽ lúc ấy đã không còn là tình yêu nữa, đúng như Pascal đã từng nói: “Trái tim có quy luật riêng mà lí trí không thể hiểu nổi”.

    Dù đã thừa nhận rằng trái tim không thể lí giải khi nào ta yêu nhau, nhưng Xuân Quỳnh vẫn không ngừng tìm tòi và nhận ra: biểu hiện dạt dào mãnh liệt nhất của tình yêu chính là nỗi nhớ:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Đây chính là những lớp sóng cuộn trào, đẩy tình cảm của nhân vật trữ tình lên đến đỉnh điểm. Quả thực trong tình yêu còn gì dễ dàng nhận thấy hơn là nỗi nhớ, nỗi nhớ chìm trong đáy mắt u buồn, trong tâm khảm khắc khoải. Đó là những biểu hiện mà không ai có thể che giấu được. Và Xuân Quỳnh đã diễn tả vô cùng xuất sắc nỗi nhớ ấy trong từng câu chữ của mình, và biến nó trở thành khổ thơ hay nhất của bài. Chị đã diễn tả thật xúc động, nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” là nỗi nhớ đã ăn sâu, đã hằn lên trong nếp cảm, nếp nghĩ của người con gái. Đồng thời cũng cho thấy nỗi nhớ da diết, cồn ào, triền miên, như sóng biển lúc nào cũng dội vào bờ.

    Sóng bắt đầu từ gió, cũng như tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ. Lấy hình tượng song để diễn tả tình yêu, Xuân Quỳnh đã hoàn chỉnh quan niệm, chân dung về tình yêu. Sóng và em chính là nhịp đập trái tim của người con gái khi yêu, là tình yêu chân thành, mãnh liệt. Nhưng cũng đầy thủy chung, nữ tính, e ấp của người con gái.

    Những khổ thơ cuối cùng của mình, bà không ngần ngại bộc lộ những ước mơ của một người con gái: “Ở ngoài kia đại dương/…/Mây vẫn bay về xa”. Bài thơ kết thúc bằng niềm khao khát cháy bỏng, mãnh liệt được sống, cống hiến hết mình cho tình yêu. Không chỉ cống hiến mà cò muốn được tan ra thành trăm ngàn con sóng nhỏ, để hòa vào biển lớn tình yêu: “Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”.

    Với hình tượng sóng người đọc có thể cảm nhận một cách sâu sắc, toàn diện nhất về một tâm hồn nữ tính đầy khao khát yêu thương và được yêu thương, hướng đến một tình yêu trong sáng, vĩnh cửu. Bài thơ Sóng đã trở thành một tượng đài bất tử khi viết về tình yêu đôi lứa, đặc biệt là tình yêu của những người phụ nữ trong những ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, cháy bỏng.

   Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: “Hoa cúc xanh”, “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Nói cùng anh”, “Mùa hoa doi”, v.v…

    … “Tình anh đối với em là xứ sở

    Là bóng rợp trên đường nắng lửa

    Trái cây thơm trên miền đất khô cằn

    Đó tình yêu, em muốn nói cùng anh

    Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng

    Lòng tốt để duy trì sự sống

    Cho con người thực sự Người hơn”.(Nói cùng anh)

    Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng”, làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người “thực sự Người hơn”. Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tỉnh yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng “sóng” là ẩn dụ về “em”, về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

    Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì “dữ dội”, lúc thì “dịu êm”, có lúc lại “ồn ào”, có khi rất lặng lẽ. .Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đối trong tình yêu:

    “Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ”.

    Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng của “muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mỏng cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bời lẽ ” Làm sao sống được mà không yêu — Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

    “Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Con sóng tình yêu có vồ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng “Những cô gái da mịn màng như lụa – Những chàng trai đang độ hai mươi” (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động “bồi hồi” như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần” (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

    Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, “em nghĩ về anh, em”,và tự hỏi: “Từ kh nào sóng lên”. Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hối tràn ngập tình thương yêu:

    “Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu?

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau”.

    Tình yêu là sự sống muôn đời nơi “vườn trần” nhưng “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đám. Cái giây phút “thắm lại” của lứa đôi trong mối tình đẩu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là “cái thuở ban đâu lưu luyến” vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

    “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

    Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”.

    Sóng được nhân hóa, “sóng nhớ bờ”, sóng “ngày đêm không ngủ được”, dù ở “dưới lòng sâu”, hay “ở trên mặt nước”. Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, “thôn Đoài thì nhớ thôn Đông…” người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm “cả trong mơ” và cả trong lúc “còn thức”. Một chữ “nhớ” tràn ngập tình yêu thương.

    Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tinh yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”, chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược… nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

    “Dẫu xuôi về phương Bắc

    Dầu ngược về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng vê anh – một phương

    Cấu trúc đoạn thơ: “dẫu … cũng…”,chữ “dẫu” được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: “cũng nghĩ”, “hướng về” liên kết với số từ “một” (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong “Thề non nước”:

    “Dù cho sông cạn đá mòn,

    Còn non còn nước hãy cồn thề xưa”.

    Tình yêu đẹp đem đến cho “em” một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có “muôn vời cách trở”. Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách

    Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hổn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

    “Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa”.

    “Tuy… vẫn…”, “dẫu… vẫn”, cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. “Năm tháng” và “mây” là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

    Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được “tan ra”, muốn được hóa thân thành “Trăm sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp , bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống “giữa biển lớn tình yêu” đến ngàn năm “còn vỗ”… Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

    “Sóng” cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

    Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái “được yêu” như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là “sóng” ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình “Biển”của thi sĩ Xuân Diệu “sóng” lại là hình ảnh người con trai đa tình:

    “Anh xin làm sóng biếc

    Hôn mãi cát vàng em

    Hôn thật khẽ thật êm

    Hôn êm đềm mãi mãi

    Đã hôn rồi hôn lại

    Hôn mãi đến muôn đời

    Đến tan cả đất trời

    Anh mới thôi dào dạt…”.

    Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao “bồi hồi trong ngực trẻ” về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Đề bài: Cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là một nữ sĩ tài ba, nhạy cảm, luôn khát khao hạnh phúc đời thường, thơ chị luôn dạt dào tình cả, lòng trắc ẩn nhân hậu của một trái tim nữ tính.

– Bài thơ Sóng là một trong những bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.

– Nổi bật rong bài thơ là hai hình tượng “sóng” và “em”, đây là hai hình tượng có tính chất song hành, lúc tách đôi nhưng lúc lại hòa nhập.

II. Thân bài

1. Bản tính và khát vọng của “sóng” và “em” (khổ 1, 2)

– Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Ẩn sâu hình ảnh song là hình ảnh “em”, bản tính của sóng chính là tính khí của “em” trong tình yêu.

– Con sóng không chấp nhận không gian “sông” chật hẹp, “không hiểu” nổi sóng nên quyết liệt “tìm ra tận bể” khoáng đạt, để là chính mình. “Em” cũng vậy, cũng khát khao tìm được tình yêu để được yêu thương và thấu hiểu, được là chính mình.

– Bản chất của sóng từ “ngày xưa” đến “ngày sau” vẫn không hề thay đổi (vừa dữ dội vừa dịu êm … luôn muốn tìm ra biển lớn). Đó cũng chính là khát vọng muôn đời của “em”: được sống trong tình yêu bằng cả tuổi trẻ.

2. Những nỗi niềm của “em” về “sóng”, về tình yêu (khổ 3, 4)

– Đối diện với “muôn trùng sóng bể”, “em” đã có những suy tư, khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu, “biển lớn” tình yêu.

– “Em” băn khoăn về khởi nguồn của “sóng” rồi tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên, nhưng rồi tự nhận thấy rằng khởi nguồn của sóng, thời đểm bắt đầu tình yêu thật bí ẩn. (Liên hệ câu thơ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu …” trong bài Vì sao của Xuân Diệu).

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của “sóng” và “em”(khổ 5, 6, 7)

– “Sóng” nhớ đến bờ: nỗi nhớ bao trùm không gian (dưới lòng sâu – trên mặt nước), dằng dặc theo thời gian (ngày – đêm), nhớ đến “không ngủ được”.

– “Sóng nhớ bờ” chính là “em” nhớ “anh”, nỗi nhớ của “em” cũng bao trùm không gian, thời gian, thậm chí thường trực trong tiềm thức, trong suy nghĩ “cả trong mơ còn thức” (liên hệ nỗi nhớ trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh).

– Dù “xuôi về phương bắc” hay “ngược về phương nam”, trải qua sóng gió cuộc đời thì lòng “em” vẫn luôn hướng về “phương anh”. Đó là phẩm chất thủy chung son sắt của “em” trong tình yêu.

– Con sóng cũng táo bạo, chủ động và thủy chung như “em”, dù trôi dạt phương nào thì đích đến cuối cùng vẫn là bờ.

4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu của “em”(khổ 8, 9)

– “Em” luôn trăn trở, lo âu, bất an về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

– Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng … bay về xa.”

– Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn bởi vậy “em” khát khao được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

– Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về hai hình tượng:“sóng” được khám phá dựa trên sự tương đồng, hòa hợp với “em”.Hình tượng “em” vừa mang nét truyền thống (thủy chung, dịu dàng) lại vừa mang nét hiện đại (chủ động tìm tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo).

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Bài thơ đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn, thủy chung. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con người.

Đề bài: Cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

    Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, mỗi tác giả khác nhau lại có những cách thức, cách thể hiện riêng, làm phong phú hơn nữa đề tài này. Xuân Quỳnh cũng đóng góp vào thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm về đề tài tình yêu, nhưng nổi bật hơn cả là “Sóng”. Với hai hình tượng sóng đôi, sóng và em đan kết, hòa quyện với nhau đã nói lên tâm hồn, cảm xúc đa dạng của người phụ nữ khi yêu và những khát khao hết sức nhân văn, cao cả.

    Bài thơ được đặt nhan đề là Sóng, nhưng sóng không đơn thuần là một hình ảnh thực mà nó còn là biểu tượng của những làn sóng trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong bài thơ có hai hình tượng nghệ thuật luôn tồn tại song song với nhau, là hình tượng sóng và hình tượng em. Sóng chính là ẩn dụ cho nỗi lòng, cho những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Sóng và em tưởng tách bạch, riêng rẽ mà thực chất lại hòa quyện với nhau không ngờ.

    Mở đầu bài thơ là những làn sóng vừa khẽ khàng vừa dữ dội xuất hiện

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Hai câu thơ đầu sử dụng hàng loạt các tình từ mang tính chất đối lập nhau: dữ dội đối lập với dịu êm, ồn ào đối lập với lặng lẽ. Đây là những trạng thái khác nhau của con sóng, khi dữ dội, ầm ầm khi dịu êm, âm thanh khi cuồng nộ, ồn ào, khi lặng lặng lẽ lắng đọng. Cả hai câu thơ đều sử dụng quan hệ từ và đã giúp làm nổi bật sự biến chuyển không ngừng của những lớp sóng theo trình tự thời gian. Nhưng đằng sau hình ảnh sóng đó chính là tâm hồn của người con gái khi yêu, họ cũng như những làn sóng khi sôi nổi mạnh ẽ, khi lại dịu dàng, âm thầm. Và hai trạng thái này cũng có sự biến chuyển không ngừng, luôn luôn chuyển hóa cho nhau, khiến cho tình yêu trở nên đa màu sắc và cung bậc cảm xúc hơn. Khổ thơ thứ hai, là sự cụ thể hóa nỗi khát khao mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Cách Xuân Quỳnh sử dụng từ ngữ thật hay và chính xác, “ngày xưa” “ngày sau” cách nói khái quát, bao hàm muôn đời, muôn thế hệ, tình yêu vẫn luôn là cung bậc cảm xúc đẹp đẽ và rạo rực nhất trong tâm hồn của những người trẻ tuổi.

    Không thể ở mãi trong không gian nhỏ bé, chật hẹp, “em” tìm cách vượt thoát đến không gian rộng lớn, từ sông sóng tìm ra tận “bể”. Hai không gian tương phản nhau, một nhỏ bé – sông, một to lớn – bể, để nói lên khát khao yêu đương mãnh liệt của người con gái. Họ không rụt rè, sợ hãi mà khi yêu họ sẵn sàng từ bỏ sự ích kỉ, những e lệ để hướng đến một tình yêu lớn lao và tìm đ sự đồng điệu với tâm hồn của mình yêu.

    Cắt nghĩa tình yêu là khát khao của thi nhân muôn đời, nhưng mấy ai có thể cắt nghĩa nổi, Xuân Diệu cũng đã từng bất lực mà nói rằng: “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Xuân Quỳnh cũng mang trong mình khát khao, cắt nghĩa, lí giải tình yêu. Đến đây sóng không còn là đối tượng để cảm nhận mà là đối tượng để chiêm nghiệm suy tư:

    “Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh, em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào sóng lên ?

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau”

    Trước không gian mênh mông của muôn trùng sóng bể, người con gái thật nhỏ bé, đang trăn trở, suy tư về tình yêu đôi lứa. Cô gái băn khoăn với câu hỏi sóng bắt đầu từ đâu và tìm ra câu trả lời, sóng có từ những cơn gió; nhưng với câu hỏi thứ hai “khi nào ta yêu nhau” dường như người con gái bất lực không thể tìm ra câu trả lời. Điều này như một lời khẳng định sự thiêng liêng, huyền bí của tình yêu, không thể cắt nghĩa, cũng không thể lí giải.

    Ở khổ thơ tiếp theo nỗi nhớ như làn sóng ào ạt ùa về: “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Những con sóng ào ạt xô bờ dù nằm sâu trong lòng đại dương, hay hiện hiện trên mặt nước, chúng đều có một quy luật chung là xô vào bờ. Và chính từ những con sóng của tự nhiên đó, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sóng ở trong lòng người con gái khi yêu. Nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, “ngày đêm không ngủ được” thời gian đằng đẵng, nối tiếp nhau dường như không có điểm đích. Và đắc sặc nhất là cách diễn tả nỗi nhớ: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ dường như được đẩy lên thêm một bậc cảm xúc nữa, nó không chỉ đong đếm bằng thời gian, mà còn bằng tâm khảm, tồn tại như một lẽ dĩ nhiên trong tiềm thức người con gái khi yêu, bởi vậy nó vẫn khắc khoải trong từng giấc ngủ của nhân vật trữ tình.

    Dẫu xuôi về phương bắc

    Dẫu ngươc về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh một phương

    Trong tình yêu không tránh khỏi những chòng chành, khó khăn, sự xa xôi cách trở về không gian địa lí, nhưng không vì thế mà người con gái dễ dàng từ bỏ. Dù xuôi về bắc hay ngược về nam, người con gái vẫn sắt son, một lòng hướng về người mình yêu thương. Đây là lời khẳng định của tấm lòng thủy chung sắt son, quyết không thay đổi trước sự đổi thay của cuộc đời. Đồng thời cũng thể hiện một niềm tin mãnh liệt, tha thiết: “Ở ngoài kia đại dương/ Trăm ngàn con sóng đó/ Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vàn cách trở”. Dù có muôn vàn khó khăn, bão táp nhưng khi yêu, con người có thể vượt mọi khó khăn, và chắc chắn sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc.

    “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa/ Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”. Những suy tư trăng trở về cuộc đời, chính là những phút lo âu của Xuân quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô cùng của nhiên nhiên vũ trụ. Bởi vậy kết lại bài thơ là lời khẳng định sống tận hiến, hết mình với tình yêu. Khát vọng được tan ra, hòa nhập là khát vọng thật đẹp đẽ, cao cả. Nhưng cũng cần phải hiểu “tan ra” ở đây không đồng nghĩa với sự biến mất, mà là sự hòa quyện, dâng hiến cho tình yêu tận cùng, bỏ đi những ích kỉ cá nhân, hướng đến một tình yêu cao đẹp.

    Những câu thơ cuối cùng của tác phẩm, lằn sâu kí ức nơi người đọc bởi một tình yêu chân thành, sẵn sàng dâng hiến để có được tình yêu bất tử với vũ trụ. Với sự kết hợp hài hòa hai hình tượng sóng và em Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc một tuyệt tác về tình yêu và cách ứng xử nhân văn trong tình yêu.

Đề bài: Cảm nhận về hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

   Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền đã từng nhận định về bài Sóng của Xuân Quỳnh như sau: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ”. Và quả thực đúng như vậy, tình yêu đó, khát khao mãnh liệt cháy bỏng đó đã được hữu hình hóa qua hai hình tượng “sóng” và “em” để từ đó làm bật lên tình yêu tuổi trẻ khát khao, mãnh liệt.

   Trong bài thơ này, tồn tại song song hai hình tượng là “sóng” và “em” chúng bổ sung, tương hỗ cho nhau làm nổi bật chủ đề chính của tác phẩm. Sóng chính là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái khi yêu, đây là dạng thức của cái tôi trữ tình nhập vai. Chúng được tách làm hai, nhưng thực tế chỉ là một – nhân vật trữ tình. Khi phân tách, khi hòa quyện với nhau, soi chiếu nhau, cộng hưởng làm bật lên tình yêu tha thiết nồng cháy.

   Sóng không phải là hình tượng mới mẻ trong thi ca khi nói về tình yêu. Ta đã biết đến song của Xuân Diệu: “Anh xin làm song biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôm rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Sóng – vốn là hình tượng động, biểu trưng cho người đàn ông. Nhưng với sóng của Xuân Quỳnh chị đã mang đến những khám phá, phát hiện mới mẻ. Sóng – biểu trưng cho người phụ nữ, cho những khao khát tình yêu mãnh liệt trong lồng ngực bồi hồi nhịp đập tình yêu. Không chỉ vật, hình tượng song còn được gợi ra từ những âm hưởng dạt dào của cả bài thơ. Đó là những con sóng triền miên, nối tiếp nhau xô vào bờ. Để tạo nên nhịp điệu linh hoạt này, tác giả đã sử dụng thể thơ năm chữ, nhịp ngắt linh hoạt để làm bật lên con sóng khi ồn ào, sôi nổi, khi lại dịu êm đằm thắm:

     Dữ dội và dịu êm

     Ồn ào và lặng lẽ

   Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái đang yêu. Dường như nhịp sóng kia như đang hòa chung nhịp đập với người con gái. Đôi khi ta không thể phân biệt nổi, sóng và em hòa với nhau thật nhịp nhàng. Và từ những hình ảnh của song, em cũng trỗi dạy khát khao được truy nguyên nguồn gốc của tình yêu: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.

   Dù chỉ là một phần rất nhỏ bé, nhưng sóng cũng rất mạnh dạn, không ngần ngại đi từ không gian nhỏ hẹp của sông để đến không gian lớn hơn tìm ra đáp án cho bản thân. Ngay trong hành động của sóng ta đã nhận thấy những quan niệm mới mẻ của Xuân Quỳnh về tình yêu: người con gái không thụ động mà chủ động để tìm đến tình yêu. Khao khát yêu đương đã được biểu lộ thành hành động mãnh liệt, không còn nhẫn nhịn, cam lòng. Nỗi khát khao yêu thương xao xuyến trong trái tim của người con gai, đây đồng thời cũng chính à khát khao của toàn nhân loại:

     Ôi sóng ngày xưa

     Và ngày sau vẫn thế

     Nỗi khát vọng tình yêu

     Bồi hồi trong ngực trẻ

   Khi tình yêu đến, bất cứ trong chúng ta ai cũng có nhu cầu cắt nghĩa, lí giải tình yêu. Nhưng đúng như Xuân Diệu đã từng nói: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, và ngay bản thân Xuân Quỳnh cũng phải thừa nhận. Tình yêu thực ra là một xúc cảm hết sức mong manh, mơ hồ, như sóng biển khi ồn ào, khi lại dịu dàng nồng ấm. Cũng bởi vậy mà: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?”.

   Nếu có thể định nghĩa được chính xác nhất tình yêu, có thể đó chỉ là khi định tính qua nỗi nhớ. Nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt tha thiết, bủa vây xung quanh những người đang yêu. Nó như con sóng ồ ạt, triền miên, vô hạn. Nhịp thơ đoạn này cũng trở nên gấp gáp hơn, nhanh chóng:

     Con sóng dưới lòng sâu

     Con sóng trên mặt nước

     Ôi con sóng nhớ bờ

     Ngày đêm không ngủ được

     Lòng em nhớ đến anh

     Cả trong mơ còn thức

   Dường như nỗi nhớ “ngày đêm không ngủ được” vẫn chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ da diết khắc khoải của người con gái với tình yêu. Bởi vậy, ngay sau đó phải nhấn mạnh thêm một lần nữa : “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ ngập đầy, cả không gian, thời gian, cả trong ý thức lẫn trong cõi tiềm thức ẩn kín. Chỉ từng ấy câu chữ thôi nhưng cũng đủ để diễn tả nỗi nhớ cồn cào, da diết của người con gái với người mình yêu thương. Tình yêu của người con gái vừa tha thiết, vừa mãnh liệt. Với hình tượng sóng và em chị đã không ngần ngại phô bày tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.

   Những vần thơ cuối cùng Xuân Quỳnh vưa thổ lọ trực tiếp vừa mượn hình tượng song để nói lên suy nghĩ, quan niệm, triết lí về tình yêu:

     Làm sao để tan ra

        Thành trăm con sóng nhỏ

        Trong biển lớn tình yêu

     Để ngàn năm còn vỗ

   Cuộc hành trình của sóng dù mãnh liệt , khao khát yêu đương, biểu lộ tình cảm da diết đến bao nhiêu chẳng phải cuối cùng cũng là để hướng đến một tình yêu vĩnh hằng, bền vững cùng thời gian đó sao. Không chỉ tan ra, để tình yêu ngàn năm còn vỗ, không chỉ là tình yêu đôi lứa mà đó còn ta tình yêu cuộc sống, này, cuộc đời này. Đó mới là cái đích cuối cùng mà Xuân Quỳnh hướng đến.

   Sóng không phải là bài thơ quá dài, nhưng ý tứ hàm súc, sâu xa chứa đựng nhiều ý nghĩa. Đặc biệt qua hai hình tượng “sóng”“em” đan cài, hòa quyện với nhau không chỉ nói lên những khao khát mãnh liệt của người con gái khi yêu mà còn cho thấy tình yêu đời, niềm yêu sống của một trái tim tha thiết yêu đời – Xuân Quỳnh.

Đề bài: Cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là một nữ sĩ tài ba, nhạy cảm, luôn khát khao hạnh phúc đời thường, thơ chị luôn dạt dào tình cả, lòng trắc ẩn nhân hậu của một trái tim nữ tính.

– Bài thơ Sóng là một trong những bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.

– Nổi bật rong bài thơ là hai hình tượng “sóng” và “em”, đây là hai hình tượng có tính chất song hành, lúc tách đôi nhưng lúc lại hòa nhập.

II. Thân bài

1. Bản tính và khát vọng của “sóng” và “em” (khổ 1, 2)

– Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Ẩn sâu hình ảnh song là hình ảnh “em”, bản tính của sóng chính là tính khí của “em” trong tình yêu.

– Con sóng không chấp nhận không gian “sông” chật hẹp, “không hiểu” nổi sóng nên quyết liệt “tìm ra tận bể” khoáng đạt, để là chính mình. “Em” cũng vậy, cũng khát khao tìm được tình yêu để được yêu thương và thấu hiểu, được là chính mình.

– Bản chất của sóng từ “ngày xưa” đến “ngày sau” vẫn không hề thay đổi (vừa dữ dội vừa dịu êm … luôn muốn tìm ra biển lớn). Đó cũng chính là khát vọng muôn đời của “em”: được sống trong tình yêu bằng cả tuổi trẻ.

2. Những nỗi niềm của “em” về “sóng”, về tình yêu (khổ 3, 4)

– Đối diện với “muôn trùng sóng bể”, “em” đã có những suy tư, khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu, “biển lớn” tình yêu.

– “Em” băn khoăn về khởi nguồn của “sóng” rồi tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên, nhưng rồi tự nhận thấy rằng khởi nguồn của sóng, thời đểm bắt đầu tình yêu thật bí ẩn. (Liên hệ câu thơ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu …” trong bài Vì sao của Xuân Diệu).

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của “sóng” và “em”(khổ 5, 6, 7)

– “Sóng” nhớ đến bờ: nỗi nhớ bao trùm không gian (dưới lòng sâu – trên mặt nước), dằng dặc theo thời gian (ngày – đêm), nhớ đến “không ngủ được”.

– “Sóng nhớ bờ” chính là “em” nhớ “anh”, nỗi nhớ của “em” cũng bao trùm không gian, thời gian, thậm chí thường trực trong tiềm thức, trong suy nghĩ “cả trong mơ còn thức” (liên hệ nỗi nhớ trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh).

– Dù “xuôi về phương bắc” hay “ngược về phương nam”, trải qua sóng gió cuộc đời thì lòng “em” vẫn luôn hướng về “phương anh”. Đó là phẩm chất thủy chung son sắt của “em” trong tình yêu.

– Con sóng cũng táo bạo, chủ động và thủy chung như “em”, dù trôi dạt phương nào thì đích đến cuối cùng vẫn là bờ.

4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu của “em”(khổ 8, 9)

– “Em” luôn trăn trở, lo âu, bất an về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

– Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng … bay về xa.”

– Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn bởi vậy “em” khát khao được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

– Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về hai hình tượng:“sóng” được khám phá dựa trên sự tương đồng, hòa hợp với “em”.Hình tượng “em” vừa mang nét truyền thống (thủy chung, dịu dàng) lại vừa mang nét hiện đại (chủ động tìm tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo).

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Bài thơ đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn, thủy chung. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con người.

   Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, mỗi tác giả khác nhau lại có những cách thức, cách thể hiện riêng, làm phong phú hơn nữa đề tài này. Xuân Quỳnh cũng đóng góp vào thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm về đề tài tình yêu, nhưng nổi bật hơn cả là “Sóng”. Với hai hình tượng sóng đôi, sóng và em đan kết, hòa quyện với nhau đã nói lên tâm hồn, cảm xúc đa dạng của người phụ nữ khi yêu và những khát khao hết sức nhân văn, cao cả.

    Bài thơ được đặt nhan đề là Sóng, nhưng sóng không đơn thuần là một hình ảnh thực mà nó còn là biểu tượng của những làn sóng trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong bài thơ có hai hình tượng nghệ thuật luôn tồn tại song song với nhau, là hình tượng sóng và hình tượng em. Sóng chính là ẩn dụ cho nỗi lòng, cho những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Sóng và em tưởng tách bạch, riêng rẽ mà thực chất lại hòa quyện với nhau không ngờ.

    Mở đầu bài thơ là những làn sóng vừa khẽ khàng vừa dữ dội xuất hiện

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Hai câu thơ đầu sử dụng hàng loạt các tình từ mang tính chất đối lập nhau: dữ dội đối lập với dịu êm, ồn ào đối lập với lặng lẽ. Đây là những trạng thái khác nhau của con sóng, khi dữ dội, ầm ầm khi dịu êm, âm thanh khi cuồng nộ, ồn ào, khi lặng lặng lẽ lắng đọng. Cả hai câu thơ đều sử dụng quan hệ từ và đã giúp làm nổi bật sự biến chuyển không ngừng của những lớp sóng theo trình tự thời gian. Nhưng đằng sau hình ảnh sóng đó chính là tâm hồn của người con gái khi yêu, họ cũng như những làn sóng khi sôi nổi mạnh ẽ, khi lại dịu dàng, âm thầm. Và hai trạng thái này cũng có sự biến chuyển không ngừng, luôn luôn chuyển hóa cho nhau, khiến cho tình yêu trở nên đa màu sắc và cung bậc cảm xúc hơn. Khổ thơ thứ hai, là sự cụ thể hóa nỗi khát khao mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Cách Xuân Quỳnh sử dụng từ ngữ thật hay và chính xác, “ngày xưa” “ngày sau” cách nói khái quát, bao hàm muôn đời, muôn thế hệ, tình yêu vẫn luôn là cung bậc cảm xúc đẹp đẽ và rạo rực nhất trong tâm hồn của những người trẻ tuổi.

    Không thể ở mãi trong không gian nhỏ bé, chật hẹp, “em” tìm cách vượt thoát đến không gian rộng lớn, từ sông sóng tìm ra tận “bể”. Hai không gian tương phản nhau, một nhỏ bé – sông, một to lớn – bể, để nói lên khát khao yêu đương mãnh liệt của người con gái. Họ không rụt rè, sợ hãi mà khi yêu họ sẵn sàng từ bỏ sự ích kỉ, những e lệ để hướng đến một tình yêu lớn lao và tìm đ sự đồng điệu với tâm hồn của mình yêu.

    Cắt nghĩa tình yêu là khát khao của thi nhân muôn đời, nhưng mấy ai có thể cắt nghĩa nổi, Xuân Diệu cũng đã từng bất lực mà nói rằng: “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Xuân Quỳnh cũng mang trong mình khát khao, cắt nghĩa, lí giải tình yêu. Đến đây sóng không còn là đối tượng để cảm nhận mà là đối tượng để chiêm nghiệm suy tư:

    “Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh, em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào sóng lên ?

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau”

    Trước không gian mênh mông của muôn trùng sóng bể, người con gái thật nhỏ bé, đang trăn trở, suy tư về tình yêu đôi lứa. Cô gái băn khoăn với câu hỏi sóng bắt đầu từ đâu và tìm ra câu trả lời, sóng có từ những cơn gió; nhưng với câu hỏi thứ hai “khi nào ta yêu nhau” dường như người con gái bất lực không thể tìm ra câu trả lời. Điều này như một lời khẳng định sự thiêng liêng, huyền bí của tình yêu, không thể cắt nghĩa, cũng không thể lí giải.

    Ở khổ thơ tiếp theo nỗi nhớ như làn sóng ào ạt ùa về: “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Những con sóng ào ạt xô bờ dù nằm sâu trong lòng đại dương, hay hiện hiện trên mặt nước, chúng đều có một quy luật chung là xô vào bờ. Và chính từ những con sóng của tự nhiên đó, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sóng ở trong lòng người con gái khi yêu. Nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, “ngày đêm không ngủ được” thời gian đằng đẵng, nối tiếp nhau dường như không có điểm đích. Và đắc sặc nhất là cách diễn tả nỗi nhớ: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ dường như được đẩy lên thêm một bậc cảm xúc nữa, nó không chỉ đong đếm bằng thời gian, mà còn bằng tâm khảm, tồn tại như một lẽ dĩ nhiên trong tiềm thức người con gái khi yêu, bởi vậy nó vẫn khắc khoải trong từng giấc ngủ của nhân vật trữ tình.

    Dẫu xuôi về phương bắc

    Dẫu ngươc về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh một phương

    Trong tình yêu không tránh khỏi những chòng chành, khó khăn, sự xa xôi cách trở về không gian địa lí, nhưng không vì thế mà người con gái dễ dàng từ bỏ. Dù xuôi về bắc hay ngược về nam, người con gái vẫn sắt son, một lòng hướng về người mình yêu thương. Đây là lời khẳng định của tấm lòng thủy chung sắt son, quyết không thay đổi trước sự đổi thay của cuộc đời. Đồng thời cũng thể hiện một niềm tin mãnh liệt, tha thiết: “Ở ngoài kia đại dương/ Trăm ngàn con sóng đó/ Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vàn cách trở”. Dù có muôn vàn khó khăn, bão táp nhưng khi yêu, con người có thể vượt mọi khó khăn, và chắc chắn sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc.

    “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa/ Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”. Những suy tư trăng trở về cuộc đời, chính là những phút lo âu của Xuân quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô cùng của nhiên nhiên vũ trụ. Bởi vậy kết lại bài thơ là lời khẳng định sống tận hiến, hết mình với tình yêu. Khát vọng được tan ra, hòa nhập là khát vọng thật đẹp đẽ, cao cả. Nhưng cũng cần phải hiểu “tan ra” ở đây không đồng nghĩa với sự biến mất, mà là sự hòa quyện, dâng hiến cho tình yêu tận cùng, bỏ đi những ích kỉ cá nhân, hướng đến một tình yêu cao đẹp.

    Những câu thơ cuối cùng của tác phẩm, lằn sâu kí ức nơi người đọc bởi một tình yêu chân thành, sẵn sàng dâng hiến để có được tình yêu bất tử với vũ trụ. Với sự kết hợp hài hòa hai hình tượng sóng và em Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc một tuyệt tác về tình yêu và cách ứng xử nhân văn trong tình yêu.

   Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền đã từng nhận định về bài Sóng của Xuân Quỳnh như sau: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ”. Và quả thực đúng như vậy, tình yêu đó, khát khao mãnh liệt cháy bỏng đó đã được hữu hình hóa qua hai hình tượng “sóng” và “em” để từ đó làm bật lên tình yêu tuổi trẻ khát khao, mãnh liệt.

    Trong bài thơ này, tồn tại song song hai hình tượng là “sóng” và “em” chúng bổ sung, tương hỗ cho nhau làm nổi bật chủ đề chính của tác phẩm. Sóng chính là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái khi yêu, đây là dạng thức của cái tôi trữ tình nhập vai. Chúng được tách làm hai, nhưng thực tế chỉ là một – nhân vật trữ tình. Khi phân tách, khi hòa quyện với nhau, soi chiếu nhau, cộng hưởng làm bật lên tình yêu tha thiết nồng cháy.

    Sóng không phải là hình tượng mới mẻ trong thi ca khi nói về tình yêu. Ta đã biết đến song của Xuân Diệu: “Anh xin làm song biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôm rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Sóng – vốn là hình tượng động, biểu trưng cho người đàn ông. Nhưng với sóng của Xuân Quỳnh chị đã mang đến những khám phá, phát hiện mới mẻ. Sóng – biểu trưng cho người phụ nữ, cho những khao khát tình yêu mãnh liệt trong lồng ngực bồi hồi nhịp đập tình yêu. Không chỉ vật, hình tượng song còn được gợi ra từ những âm hưởng dạt dào của cả bài thơ. Đó là những con sóng triền miên, nối tiếp nhau xô vào bờ. Để tạo nên nhịp điệu linh hoạt này, tác giả đã sử dụng thể thơ năm chữ, nhịp ngắt linh hoạt để làm bật lên con sóng khi ồn ào, sôi nổi, khi lại dịu êm đằm thắm:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái đang yêu. Dường như nhịp sóng kia như đang hòa chung nhịp đập với người con gái. Đôi khi ta không thể phân biệt nổi, sóng và em hòa với nhau thật nhịp nhàng. Và từ những hình ảnh của song, em cũng trỗi dạy khát khao được truy nguyên nguồn gốc của tình yêu: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.

    Dù chỉ là một phần rất nhỏ bé, nhưng sóng cũng rất mạnh dạn, không ngần ngại đi từ không gian nhỏ hẹp của sông để đến không gian lớn hơn tìm ra đáp án cho bản thân. Ngay trong hành động của sóng ta đã nhận thấy những quan niệm mới mẻ của Xuân Quỳnh về tình yêu: người con gái không thụ động mà chủ động để tìm đến tình yêu. Khao khát yêu đương đã được biểu lộ thành hành động mãnh liệt, không còn nhẫn nhịn, cam lòng. Nỗi khát khao yêu thương xao xuyến trong trái tim của người con gai, đây đồng thời cũng chính à khát khao của toàn nhân loại:

    Ôi sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ

   Khi tình yêu đến, bất cứ trong chúng ta ai cũng có nhu cầu cắt nghĩa, lí giải tình yêu. Nhưng đúng như Xuân Diệu đã từng nói: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, và ngay bản thân Xuân Quỳnh cũng phải thừa nhận. Tình yêu thực ra là một xúc cảm hết sức mong manh, mơ hồ, như sóng biển khi ồn ào, khi lại dịu dàng nồng ấm. Cũng bởi vậy mà: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?”.

    Nếu có thể định nghĩa được chính xác nhất tình yêu, có thể đó chỉ là khi định tính qua nỗi nhớ. Nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt tha thiết, bủa vây xung quanh những người đang yêu. Nó như con sóng ồ ạt, triền miên, vô hạn. Nhịp thơ đoạn này cũng trở nên gấp gáp hơn, nhanh chóng:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Dường như nỗi nhớ “ngày đêm không ngủ được” vẫn chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ da diết khắc khoải của người con gái với tình yêu. Bởi vậy, ngay sau đó phải nhấn mạnh thêm một lần nữa : “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ ngập đầy, cả không gian, thời gian, cả trong ý thức lẫn trong cõi tiềm thức ẩn kín. Chỉ từng ấy câu chữ thôi nhưng cũng đủ để diễn tả nỗi nhớ cồn cào, da diết của người con gái với người mình yêu thương. Tình yêu của người con gái vừa tha thiết, vừa mãnh liệt. Với hình tượng sóng và em chị đã không ngần ngại phô bày tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.

    Những vần thơ cuối cùng Xuân Quỳnh vưa thổ lọ trực tiếp vừa mượn hình tượng song để nói lên suy nghĩ, quan niệm, triết lí về tình yêu:

    Làm sao để tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Trong biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ

    Cuộc hành trình của sóng dù mãnh liệt , khao khát yêu đương, biểu lộ tình cảm da diết đến bao nhiêu chẳng phải cuối cùng cũng là để hướng đến một tình yêu vĩnh hằng, bền vững cùng thời gian đó sao. Không chỉ tan ra, để tình yêu ngàn năm còn vỗ, không chỉ là tình yêu đôi lứa mà đó còn ta tình yêu cuộc sống, này, cuộc đời này. Đó mới là cái đích cuối cùng mà Xuân Quỳnh hướng đến.

    Sóng không phải là bài thơ quá dài, nhưng ý tứ hàm súc, sâu xa chứa đựng nhiều ý nghĩa. Đặc biệt qua hai hình tượng “sóng” và “em” đan cài, hòa quyện với nhau không chỉ nói lên những khao khát mãnh liệt của người con gái khi yêu mà còn cho thấy tình yêu đời, niềm yêu sống của một trái tim tha thiết yêu đời – Xuân Quỳnh.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, tiếng thơ vừa hồn nhiên vừa nồng nàn, mãnh liệt.

– Bài thơ đuợc in trong tập Hoa dọc chiến hào, là một trong những bông hoa rực rỡ nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tâm trạng mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.

II. Thân bài

– Hai hình tượng sóng đôi trong tác phẩm là hình tượng “sóng” và “em”, có khi tách riêng, nhưng lúc lại hòa làm một đã thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ trong tình yêu.

– Khổ 1: + Con sóng của đại dương hiện lên với nhiều đối cực khác nhau dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là hình ảnh trái tim chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú phức tạp của người phụ nữ.

    + Hai câu sau là sự bứt phá của sóng thoát khỏi không gian sông nhỏ hẹp, “không hiểu mình” để tìm đến biển cả rộng lớn, người phụ nữ cũng luôn khát khao những giá trị tuyệt đích trong tình yêu, luôn muốn khám phá chính mình.

– Khổ 2: + Thời gian có đổi thay, những bản tính của sóng “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn như vậy: luôn dạt dào, khao khát tìm kiếm không gian rộng lớn vẫy vùng, luôn hướng đến bờ.

    + Cũng như trong, trái tim của người con gái luôn rạo rực, “bồi hồi” khát khao được yêu thương, khát khao đến bến bờ nơi anh.

– Khổ 3: + Trái tim tình yêu của người con gái đã hòa nhịp chung với nhịp vỗ của “muôn trùng sóng bể”.

    + Người con gái trong tình yêu luôn khát khao nhận thức về mình, người mình yêu và về tình yêu. Nỗi khắc khoải “Từ nơi ..lên” là khát khao tìm nguồn cội tình yêu.

– Khổ 4: + Đến đây chính là lời giải đáp cho những băn khoăn ở khổ trước.

    + Vì trái tim người con gái đã hòa nhịp cùng sóng, nên để tìm nguồn cội tình yêu người con gái muốn lí giải nguồn cội của sóng trước, nhưng tất cả đều bí ẩn, để rồi ngại ngùng thốt lên “Em cũng không biết nữa”.

– Khổ 5: + Nỗi nhớ bờ của sóng triền miên, bao trùm khắp không gian “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, thời gian “ngày” – “đêm”, dạt dào đến “không ngủ được”. Đó cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Nỗi nhớ “anh” của “em” còn ăn sâu vào cả tiềm thức, luôn thường trực trong mọi suy mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù… cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Sóng là bài thơ in đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ vừa đời thường, chắt chiu nhưng khát khao những gì tuyệt đích trong tình yêu.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

    Đối với Xuân Quỳnh tình yêu là lẽ sống, là chân lí trong cuộc đời. Thơ tình của bà giản dị, chân thành mà cũng vô cùng sâu sắc. Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của bà. Người đọc không chỉ ấn tượng bởi ngôn từ dung dị, giàu cảm xúc mà còn xúc động bởi một trái tim yêu chân thành, đắm thắm và nguyện ước cống hiến đẹp đẽ, cao cả trong tình yêu.

    Bài thơ “Sóng” trước hết đặc sắc cách tác giả xây cặp hình tượng sóng – em vô cùng độc đáo, giữa sóng và em có những điểm tương đồng, giao thoa với nhau. Dùng sóng để nói về tình yêu, Xuân Quỳnh không phải là người đầu tiên, ta có thể kể đến Xuân Diệu với vần thơ yêu đương nồng cháy: “Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng Xuân Quỳnh, bằng tài năng và phong cách riêng đã khiến cho hình tượng này mang những điểm khác biệt. Nếu thông thường sóng – động thường gắn liền với người con trai, thì trong thơ Xuân Quỳnh, sóng lại gắn với người con gái, nó cho thấy vẻ đẹp táo bạo, mạnh mẽ, hiện đại ở người phụ nữ.

    Mở đầu bài thơ, là những nhận thức, khám phá của em về chính bản thân: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hai câu thơ đầu tác giả khai thác triệt để hiệu quả nghệ thuật đối, giữa cái ồn ào, mãnh mẽ với cái dịu êm, lặng lẽ, giúp người đọc có thể hình dung thuộc tính tự nhiên của con sóng. Nhưng quan trọng hơn đó chính là ẩn dụ về tâm hồn của một người con gái đang yêu, thế giới tình yêu vô cùng phức tạp, bí ẩn với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau. Từ việc nhận thức về bản thân mình, và tình yêu là vô cùng phức tạp, đã khiến em có một khát vọng muốn truy nguyên, tìm hiểu tình yêu. Có thể thấy khát vọng của nhân vật trữ tình là vô cùng lớn lao, mạnh mẽ bởi dám rời bỏ cái quen thuộc, để tìm cái rộng lớn mênh mông, đầy bất trắc. Khát vọng lớn lao ấy xuất phát từ nhu cầu cắt nghĩa, lí giải thế giới đa chiều, phức tạp trong tình yêu.

    Đứng trước không gian biển cả rộng lớn, nhân vật trữ tình đi từ tình yêu bé nhỏ của mình để chiêm nghiệm tình yêu muôn đời. Tiếp tục là sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nếu như con sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào bờ thì tình yêu cũng vậy, các thế hệ sẽ nối tiếp yêu nhau bằng một tình yêu nồng nàn, tha thiết.

    Nhân vật trữ tình tiếp tục cắt nghĩa, lí giải về nguồn gốc của sóng và gió, đồng thời cũng là cắt nghĩa lí, giải về tình yêu:

    Trước muôn trùng sóng bể

   

    Khi nào ta yêu nhau

    Trong hai khổ thơ tác giả đưa ra ba câu hỏi tu từ: Từ nơi nào sóng lên? Gió bắt đầu từ đâu? Và Khi nào ta yêu nhau? Những từ để hỏi: khi nào, nơi nào,… tạo nên giọng thơ suy tư, lí trí những lại bất lực khi tìm hiểu nguồn gốc của tình yêu, nhân vật trữ tình phải thú nhận một cách thành thực, đáng yêu về việc không thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”. Điều này, chính ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng đã từng thú nhận: “Làm sao cắt nghĩa nổi tình yêu”. Khổ thơ đã nói lên được quy luật tâm lí chung của tất cả những người đang yêu đó là luôn hào hứng tìm cách cắt nghĩa tình yêu của mình. Song cuối cùng đều phải thừa nhận tình yêu là thứ chỉ có thể tận hưởng chứ không thể lí giải.

    Bằng sự sóng đôi, hòa quyện giữa hai hình tượng sóng – em, nhân vật trữ tình đã cắt nghĩa, lí giải về chính mình và về tình yêu. Qua sự cắt nghĩa ấy cho ta thấy hình ảnh một cô gái mang trong mình tình yêu sôi nổi, khát vọng to lớn, mãnh liệt nhưng vẫn hết sức đằm thắm, dịu dàng.

    Sang đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu Xuân Quỳnh tập trung làm rõ những cung bậc cảm xúc quan trọng nhất và cũng mãnh liệt nhất trong tình yêu đó chính là nỗi nhớ. Để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng mượn quy luật chung của sóng, sóng ở đây đã nhân hóa thành một cô gái có tình yêu mãnh liệt với bờ. Nỗi nhớ của sóng được trải dài ra cả hai trục không gian và thời gian. Trên trục không gian, con sóng trên mặt nước dào dạt, ồn ào, dưới lòng sâu lại đau đáu, khắc khoải. Trên trục thời gian nỗi nhớ trải dài cả ngày và đêm. Nỗi nhớ của sóng đã diễn tả đầy đủ tình yêu nồng nàn, cháy bỏng của người con gái đang yêu. Và dường như nỗi nhớ ấy vẫn là chưa đủ, để tác giả nhận mạnh thêm: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ của em vừa có sự tương đồng, vượt lên trên nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của sóng mãnh liệt những vẫn có giới hạn, còn nỗi nhớ của em vượt qua mọi giới hạn của lí trí, xâm chiếm cả tâm hồn em, cả vùng vô thức đó là trong những giấc mơ.

    Vượt qua sự ngượng ngùng, nhân vật trữ tình đã tự phơi trải nỗi nhớ mãnh liệt, ồn ào, để rồi sau đó lắng xuống trở về đúng với bản chất, cốt cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Xuân Quỳnh đã hoán đổi vị trí: xuôi về Bắc, ngược về Nam, để khẳng định, dù có biến động gì thì tình yêu và nỗi nhớ giành cho người mình yêu vẫn là vĩnh cửu.

    Ba khổ thơ cuối cùng là niềm tin, khát vọng tình yêu cao cả, mãnh liệt. Với đặc trưng phong cách của mình, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh gắn với sự lo âu, khắc khoải, khổ thơ thứ tám chính là mình chứng cho phong cách thơ của bà, giọng thơ trùng xuống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”. Nhà thơ khắc khoải, lo âu về cái hữu hạn, mong manh của kiếp người, tình yêu trước cái bao la của vũ trụ. Lo âu, khắc khoải song Xuân Quỳnh không hề bi quan, bà ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, nên nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại để vĩnh cửu hóa nó, để được sống mãi trong tình yêu. Bởi vậy bà khao khát hóa thân thành những con sóng nhỏ, để trường tồn với tình yêu ngàn năm. Dọc chiều dài bài thơ, sóng là phương tiện để em thể hiện tình yêu, nỗi nhớ, để khổ thơ cuối sóng còn trở thành phương tiện để em bất tử hóa tình yêu.

    Với hình tượng nghệ thuật sóng đôi sóng – em đặc sắc, ngôn từ giản dị mà dạt dào cảm xúc, Xuân Quỳnh đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu, những cung bạc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu, đề tài muôn thuở của thi ca, nhưng với một cách riêng, một trái tim yêu chân thành, táo bạo mà cũng hết sức tha thiết, dịu dàng, Xuân Quỳnh đã nói lên tiếng lòng của biết bao cô gái khi yêu.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

   Trong bài “Tương tư chiều” Xuân Diệu đã từng viết:

       Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

       Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi

   Đó là những lời yêu tha thiết, nồng nàn của một chàng trai trước người con gái mình yêu. Thật táo bạo mạnh mẽ, mà cũng đầy chân thành, da diết. Nếu như nam nhân viết thơ tình ta nhớ đến Xuân Diệu, thì nữ nhân viết thơ tình không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh người phụ nữ của hạnh phúc đời thường, thơ bà viết dung dị, ngâp đầy cảm xúc. Sóng là một ví dụ điển hình về hồn thơ của bà.

   Viết về sóng, thuyền biển không chỉ đến Sóng của Xuân Quỳnh mới có, mà ta đa biết đến Xuân Diệu, hay chính bản thân bà đã có bài Thuyền và biển. Nhưng nếu như Thuyền và biển da diết, sâu lắng thì Sóng lại mang trong mình cái nồng nàn, mãnh liệt, của con người trẻ tuổi đang cuống quýt yêu đương, cuốn quýt bày tỏ:

       Lòng em nhớ đến anh

       Cả trong mơ còn thức.

   Tình yêu của tuổi trẻ đam mê cuồng nhiệt. Cũng như bao nhiêu người yêu nhau khác, họ luôn có một ham muốn truy nguyên nguồn gốc của tình yêu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng vậy:

       Dữ dội và dịu êm

       Ồn ào và lặng lẽ

       Sông không hiểu ổi mình

       Sóng tìm ra tận bể

   Hai câu thơ đầu đã nói lên hai trạng thái đối lập trong tình yêu, khi dữ dội ồn ào, khi lại dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh quả là một người phụ nữ tài tình khi biểu lộ tình cảm, cảm xúc của nhưng người đang yêu nhau. Đọc khổ thơ bất giác ta cũng phải không ngừng thổn thức trước những cung bậc cảm xúc ấy. Trong cuộc sống hay đặc biệt là tình yêu, ai mà chẳng có khao khát hiểu tường tận, kĩ lưỡng, nhưng “sông” cũng đành bất lực mà không hiểu, bởi vậy mang trong mình quyết tâm tìm ra tận bể đê truy nguyên nguồn gốc. Ý nghĩ thật táo bạo, thật độc đáo. Xưa nay có người con gái nào lại có những suy nghĩ và hành động như vậy. Qua đó cũng thể hiện được trái tim yêu cháy bỏng của nhân vật trữ tình.

   Sóng tìm nguồn gốc của tình yêu thật logic, bắt đầu truy tim từ nguồn gốc của song:

       Sóng bắt đầu từ gió

       Gió bắt đầu từ đâu

       Em cũng không biết nữa

       Khi nào ta yêu nhau

   Nếu như quy luật của tình yêu thật dễ dàng để phân tích, lý giải, sóng được sinh ra từ gió. Thì quy luật của tình cảm lại là một câu đố không bao giờ có lời giải đáp. Chúng ta yêu một người mà chẳng thể lí giải vì sao lại yêu, chúng ta cũng chẳng lí giải được con tim kia rung động từ khi nào. Chỉ biết một ngày trái tim bỗng lạc nhịp vì một ai khác, ấy chính là lúc ta nhận ra mình yêu từ lúc nào không hay. Nhân vật trữ tình cũng buộc phải thừa nhận, không biết tình yêu đó bắt đầu từ lúc nào.

   Cả bài thơ là tình yêu nồng nàn, tha thiết, nó như trăm ngàn con sóng dội vào bờ, tình yêu vì thế mà cũng không ngừng dâng lên:

       Con sóng dưới lòng sâu

       Con sóng trên mặt nước

       Ôi con sóng nhớ bờ

       Ngày đêm không ngủ được

       Lòng em nhớ đến anh

       Cả trong mơ còn thức

   Trong câu thơ này, tình yêu như con ngọn sóng cao nhất, mạnh mẽ nhất, đây là khổ thơ duy nhất có đến sáu câu, cũng là khổ thơ thể hiện nỗi nhớ mãnh liệt nhất của nhân vật trữ tình. Dù là dưới đáy sông hay trên mặt nước, dù ngày hay đêm sóng vẫn luôn thao thức. Em cũng vậy, vẫn luôn nhớ về anh, thậm chí ngay cả miền vô thức tình yêu, nỗi nhớ vẫn dâng trào, cuộn sóng. Đọc câu thơ ta lại bất giác nhớ đến bài Thuyền và biển: “Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Ở bất cứ thời điểm nào, dường như tình yêu đối với Xuân Quỳnh vẫn luôn là lẽ sống, luôn da diết, cuộn trào.

   Nếu như đầu bài thơ tình yêu thơ dại, cuống quýt, nồng nhiệt, thì đến cuối bài thơ lại càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn. Tình yêu của bà thủy chung, son sắt “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương Nam” vẫn luôn một lòng hướng về phương anh. Và để khẳng định hơn nữa tình yêu của mình hai khổ thơ cuối thể hiện ý chí quyết tâm, thể hiện nguyện ước chân thành của tác giả trong tình yêu:

       Ở ngoài kia đại dương

       

       Để ngàn năm còn vỗ

   Dù cuộc đời còn nhiều chông gai, còn nhiều spsng gió nhưng sóng vẫn đến bờ, mây vẫn bay về xa cũng như tình yêu của em dành cho anh vẫn luôn vẹn tròn, thủy chung không bao giờ thay đổi. Kết thúc bài thơ là nguyện ước tha thiết được tan ra vào tình yêu lớn của đất trời, để ngàn năm sống trong tình yêu. Lời thơ trở nên mạnh mẽ, gấp gáp cũng như nhịp đập trái tim chân thành, mãnh liệt.

   Bài thơ được viết bằng thể thơ ngữ ngôn giàu nhịp điệp, hình ảnh biểu tượng giàu cảm xúc, ý nghĩa. Sóng là bài thơ bất hủ về tình yêu, về lẽ sống và những khát khao đẹp đẽ. Gấp lại trang thơ long người đọc vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động trước tình yêu chân thành và mãnh liệt đó.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, tiếng thơ vừa hồn nhiên vừa nồng nàn, mãnh liệt.

– Bài thơ đuợc in trong tập Hoa dọc chiến hào, là một trong những bông hoa rực rỡ nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tâm trạng mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.

II. Thân bài

– Hai hình tượng sóng đôi trong tác phẩm là hình tượng “sóng” và “em”, có khi tách riêng, nhưng lúc lại hòa làm một đã thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ trong tình yêu.

– Khổ 1: + Con sóng của đại dương hiện lên với nhiều đối cực khác nhau dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là hình ảnh trái tim chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú phức tạp của người phụ nữ.

    + Hai câu sau là sự bứt phá của sóng thoát khỏi không gian sông nhỏ hẹp, “không hiểu mình” để tìm đến biển cả rộng lớn, người phụ nữ cũng luôn khát khao những giá trị tuyệt đích trong tình yêu, luôn muốn khám phá chính mình.

– Khổ 2: + Thời gian có đổi thay, những bản tính của sóng “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn như vậy: luôn dạt dào, khao khát tìm kiếm không gian rộng lớn vẫy vùng, luôn hướng đến bờ.

    + Cũng như trong, trái tim của người con gái luôn rạo rực, “bồi hồi” khát khao được yêu thương, khát khao đến bến bờ nơi anh.

– Khổ 3: + Trái tim tình yêu của người con gái đã hòa nhịp chung với nhịp vỗ của “muôn trùng sóng bể”.

    + Người con gái trong tình yêu luôn khát khao nhận thức về mình, người mình yêu và về tình yêu. Nỗi khắc khoải “Từ nơi ..lên” là khát khao tìm nguồn cội tình yêu.

– Khổ 4: + Đến đây chính là lời giải đáp cho những băn khoăn ở khổ trước.

    + Vì trái tim người con gái đã hòa nhịp cùng sóng, nên để tìm nguồn cội tình yêu người con gái muốn lí giải nguồn cội của sóng trước, nhưng tất cả đều bí ẩn, để rồi ngại ngùng thốt lên “Em cũng không biết nữa”.

– Khổ 5: + Nỗi nhớ bờ của sóng triền miên, bao trùm khắp không gian “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, thời gian “ngày” – “đêm”, dạt dào đến “không ngủ được”. Đó cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Nỗi nhớ “anh” của “em” còn ăn sâu vào cả tiềm thức, luôn thường trực trong mọi suy mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù… cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Sóng là bài thơ in đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ vừa đời thường, chắt chiu nhưng khát khao những gì tuyệt đích trong tình yêu.

   Đối với Xuân Quỳnh tình yêu là lẽ sống, là chân lí trong cuộc đời. Thơ tình của bà giản dị, chân thành mà cũng vô cùng sâu sắc. Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của bà. Người đọc không chỉ ấn tượng bởi ngôn từ dung dị, giàu cảm xúc mà còn xúc động bởi một trái tim yêu chân thành, đắm thắm và nguyện ước cống hiến đẹp đẽ, cao cả trong tình yêu.

    Bài thơ “Sóng” trước hết đặc sắc cách tác giả xây cặp hình tượng sóng – em vô cùng độc đáo, giữa sóng và em có những điểm tương đồng, giao thoa với nhau. Dùng sóng để nói về tình yêu, Xuân Quỳnh không phải là người đầu tiên, ta có thể kể đến Xuân Diệu với vần thơ yêu đương nồng cháy: “Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng Xuân Quỳnh, bằng tài năng và phong cách riêng đã khiến cho hình tượng này mang những điểm khác biệt. Nếu thông thường sóng – động thường gắn liền với người con trai, thì trong thơ Xuân Quỳnh, sóng lại gắn với người con gái, nó cho thấy vẻ đẹp táo bạo, mạnh mẽ, hiện đại ở người phụ nữ.

    Mở đầu bài thơ, là những nhận thức, khám phá của em về chính bản thân: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hai câu thơ đầu tác giả khai thác triệt để hiệu quả nghệ thuật đối, giữa cái ồn ào, mãnh mẽ với cái dịu êm, lặng lẽ, giúp người đọc có thể hình dung thuộc tính tự nhiên của con sóng. Nhưng quan trọng hơn đó chính là ẩn dụ về tâm hồn của một người con gái đang yêu, thế giới tình yêu vô cùng phức tạp, bí ẩn với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau. Từ việc nhận thức về bản thân mình, và tình yêu là vô cùng phức tạp, đã khiến em có một khát vọng muốn truy nguyên, tìm hiểu tình yêu. Có thể thấy khát vọng của nhân vật trữ tình là vô cùng lớn lao, mạnh mẽ bởi dám rời bỏ cái quen thuộc, để tìm cái rộng lớn mênh mông, đầy bất trắc. Khát vọng lớn lao ấy xuất phát từ nhu cầu cắt nghĩa, lí giải thế giới đa chiều, phức tạp trong tình yêu.

    Đứng trước không gian biển cả rộng lớn, nhân vật trữ tình đi từ tình yêu bé nhỏ của mình để chiêm nghiệm tình yêu muôn đời. Tiếp tục là sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nếu như con sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào bờ thì tình yêu cũng vậy, các thế hệ sẽ nối tiếp yêu nhau bằng một tình yêu nồng nàn, tha thiết.

    Nhân vật trữ tình tiếp tục cắt nghĩa, lí giải về nguồn gốc của sóng và gió, đồng thời cũng là cắt nghĩa lí, giải về tình yêu:

    Trước muôn trùng sóng bể…

    Khi nào ta yêu nhau

    Trong hai khổ thơ tác giả đưa ra ba câu hỏi tu từ: Từ nơi nào sóng lên? Gió bắt đầu từ đâu? Và Khi nào ta yêu nhau? Những từ để hỏi: khi nào, nơi nào,… tạo nên giọng thơ suy tư, lí trí những lại bất lực khi tìm hiểu nguồn gốc của tình yêu, nhân vật trữ tình phải thú nhận một cách thành thực, đáng yêu về việc không thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”. Điều này, chính ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng đã từng thú nhận: “Làm sao cắt nghĩa nổi tình yêu”. Khổ thơ đã nói lên được quy luật tâm lí chung của tất cả những người đang yêu đó là luôn hào hứng tìm cách cắt nghĩa tình yêu của mình. Song cuối cùng đều phải thừa nhận tình yêu là thứ chỉ có thể tận hưởng chứ không thể lí giải.

    Bằng sự sóng đôi, hòa quyện giữa hai hình tượng sóng – em, nhân vật trữ tình đã cắt nghĩa, lí giải về chính mình và về tình yêu. Qua sự cắt nghĩa ấy cho ta thấy hình ảnh một cô gái mang trong mình tình yêu sôi nổi, khát vọng to lớn, mãnh liệt nhưng vẫn hết sức đằm thắm, dịu dàng.

    Sang đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu Xuân Quỳnh tập trung làm rõ những cung bậc cảm xúc quan trọng nhất và cũng mãnh liệt nhất trong tình yêu đó chính là nỗi nhớ. Để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng mượn quy luật chung của sóng, sóng ở đây đã nhân hóa thành một cô gái có tình yêu mãnh liệt với bờ. Nỗi nhớ của sóng được trải dài ra cả hai trục không gian và thời gian. Trên trục không gian, con sóng trên mặt nước dào dạt, ồn ào, dưới lòng sâu lại đau đáu, khắc khoải. Trên trục thời gian nỗi nhớ trải dài cả ngày và đêm. Nỗi nhớ của sóng đã diễn tả đầy đủ tình yêu nồng nàn, cháy bỏng của người con gái đang yêu. Và dường như nỗi nhớ ấy vẫn là chưa đủ, để tác giả nhận mạnh thêm: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ của em vừa có sự tương đồng, vượt lên trên nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của sóng mãnh liệt những vẫn có giới hạn, còn nỗi nhớ của em vượt qua mọi giới hạn của lí trí, xâm chiếm cả tâm hồn em, cả vùng vô thức đó là trong những giấc mơ.

    Vượt qua sự ngượng ngùng, nhân vật trữ tình đã tự phơi trải nỗi nhớ mãnh liệt, ồn ào, để rồi sau đó lắng xuống trở về đúng với bản chất, cốt cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Xuân Quỳnh đã hoán đổi vị trí: xuôi về Bắc, ngược về Nam, để khẳng định, dù có biến động gì thì tình yêu và nỗi nhớ giành cho người mình yêu vẫn là vĩnh cửu.

    Ba khổ thơ cuối cùng là niềm tin, khát vọng tình yêu cao cả, mãnh liệt. Với đặc trưng phong cách của mình, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh gắn với sự lo âu, khắc khoải, khổ thơ thứ tám chính là mình chứng cho phong cách thơ của bà, giọng thơ trùng xuống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”. Nhà thơ khắc khoải, lo âu về cái hữu hạn, mong manh của kiếp người, tình yêu trước cái bao la của vũ trụ. Lo âu, khắc khoải song Xuân Quỳnh không hề bi quan, bà ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, nên nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại để vĩnh cửu hóa nó, để được sống mãi trong tình yêu. Bởi vậy bà khao khát hóa thân thành những con sóng nhỏ, để trường tồn với tình yêu ngàn năm. Dọc chiều dài bài thơ, sóng là phương tiện để em thể hiện tình yêu, nỗi nhớ, để khổ thơ cuối sóng còn trở thành phương tiện để em bất tử hóa tình yêu.

    Với hình tượng nghệ thuật sóng đôi sóng – em đặc sắc, ngôn từ giản dị mà dạt dào cảm xúc, Xuân Quỳnh đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu, những cung bạc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu, đề tài muôn thuở của thi ca, nhưng với một cách riêng, một trái tim yêu chân thành, táo bạo mà cũng hết sức tha thiết, dịu dàng, Xuân Quỳnh đã nói lên tiếng lòng của biết bao cô gái khi yêu.

   Trong bài “Tương tư chiều” Xuân Diệu đã từng viết:

    Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

    Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi

    Đó là những lời yêu tha thiết, nồng nàn của một chàng trai trước người con gái mình yêu. Thật táo bạo mạnh mẽ, mà cũng đầy chân thành, da diết. Nếu như nam nhân viết thơ tình ta nhớ đến Xuân Diệu, thì nữ nhân viết thơ tình không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh người phụ nữ của hạnh phúc đời thường, thơ bà viết dung dị, ngâp đầy cảm xúc. Sóng là một ví dụ điển hình về hồn thơ của bà.

    Viết về sóng, thuyền biển không chỉ đến Sóng của Xuân Quỳnh mới có, mà ta đa biết đến Xuân Diệu, hay chính bản thân bà đã có bài Thuyền và biển. Nhưng nếu như Thuyền và biển da diết, sâu lắng thì Sóng lại mang trong mình cái nồng nàn, mãnh liệt, của con người trẻ tuổi đang cuống quýt yêu đương, cuốn quýt bày tỏ:

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức.

    Tình yêu của tuổi trẻ đam mê cuồng nhiệt. Cũng như bao nhiêu người yêu nhau khác, họ luôn có một ham muốn truy nguyên nguồn gốc của tình yêu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng vậy:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu ổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Hai câu thơ đầu đã nói lên hai trạng thái đối lập trong tình yêu, khi dữ dội ồn ào, khi lại dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh quả là một người phụ nữ tài tình khi biểu lộ tình cảm, cảm xúc của nhưng người đang yêu nhau. Đọc khổ thơ bất giác ta cũng phải không ngừng thổn thức trước những cung bậc cảm xúc ấy. Trong cuộc sống hay đặc biệt là tình yêu, ai mà chẳng có khao khát hiểu tường tận, kĩ lưỡng, nhưng “sông” cũng đành bất lực mà không hiểu, bởi vậy mang trong mình quyết tâm tìm ra tận bể đê truy nguyên nguồn gốc. Ý nghĩ thật táo bạo, thật độc đáo. Xưa nay có người con gái nào lại có những suy nghĩ và hành động như vậy. Qua đó cũng thể hiện được trái tim yêu cháy bỏng của nhân vật trữ tình.

    Sóng tìm nguồn gốc của tình yêu thật logic, bắt đầu truy tim từ nguồn gốc của song:

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau

    Nếu như quy luật của tình yêu thật dễ dàng để phân tích, lý giải, sóng được sinh ra từ gió. Thì quy luật của tình cảm lại là một câu đố không bao giờ có lời giải đáp. Chúng ta yêu một người mà chẳng thể lí giải vì sao lại yêu, chúng ta cũng chẳng lí giải được con tim kia rung động từ khi nào. Chỉ biết một ngày trái tim bỗng lạc nhịp vì một ai khác, ấy chính là lúc ta nhận ra mình yêu từ lúc nào không hay. Nhân vật trữ tình cũng buộc phải thừa nhận, không biết tình yêu đó bắt đầu từ lúc nào.

    Cả bài thơ là tình yêu nồng nàn, tha thiết, nó như trăm ngàn con sóng dội vào bờ, tình yêu vì thế mà cũng không ngừng dâng lên:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Trong câu thơ này, tình yêu như con ngọn sóng cao nhất, mạnh mẽ nhất, đây là khổ thơ duy nhất có đến sáu câu, cũng là khổ thơ thể hiện nỗi nhớ mãnh liệt nhất của nhân vật trữ tình. Dù là dưới đáy sông hay trên mặt nước, dù ngày hay đêm sóng vẫn luôn thao thức. Em cũng vậy, vẫn luôn nhớ về anh, thậm chí ngay cả miền vô thức tình yêu, nỗi nhớ vẫn dâng trào, cuộn sóng. Đọc câu thơ ta lại bất giác nhớ đến bài Thuyền và biển: “Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Ở bất cứ thời điểm nào, dường như tình yêu đối với Xuân Quỳnh vẫn luôn là lẽ sống, luôn da diết, cuộn trào.

    Nếu như đầu bài thơ tình yêu thơ dại, cuống quýt, nồng nhiệt, thì đến cuối bài thơ lại càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn. Tình yêu của bà thủy chung, son sắt “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương Nam” vẫn luôn một lòng hướng về phương anh. Và để khẳng định hơn nữa tình yêu của mình hai khổ thơ cuối thể hiện ý chí quyết tâm, thể hiện nguyện ước chân thành của tác giả trong tình yêu:

    Ở ngoài kia đại dương…

    Để ngàn năm còn vỗ

    Dù cuộc đời còn nhiều chông gai, còn nhiều spsng gió nhưng sóng vẫn đến bờ, mây vẫn bay về xa cũng như tình yêu của em dành cho anh vẫn luôn vẹn tròn, thủy chung không bao giờ thay đổi. Kết thúc bài thơ là nguyện ước tha thiết được tan ra vào tình yêu lớn của đất trời, để ngàn năm sống trong tình yêu. Lời thơ trở nên mạnh mẽ, gấp gáp cũng như nhịp đập trái tim chân thành, mãnh liệt.

    Bài thơ được viết bằng thể thơ ngữ ngôn giàu nhịp điệp, hình ảnh biểu tượng giàu cảm xúc, ý nghĩa. Sóng là bài thơ bất hủ về tình yêu, về lẽ sống và những khát khao đẹp đẽ. Gấp lại trang thơ long người đọc vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động trước tình yêu chân thành và mãnh liệt đó.

Đề bài: Phân tích hình tượng “Sóng” trong bài thơ của Xuân Quỳnh, Anh (chị) cảm nhận được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ này?

Bài làm

   Xuân Quỳnh (1942 – 1988) nổi tiếng với nhiều bài thơ tình như “Thuyền và biển”, “Sóng”… Bài thơ “Sóng” được viết vào cuối năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968.

   Bài thơ nói lên một tình yêu đẹp của người con gái: yêu chân thành tha thiết, nồng nhiệt và thủy chung.Tình vêu trẻ trung ấy là khát vọng một hạnh phúc trọn vẹn của đôi lứa.

   Sắc điệu trữ tình được dệt nên bằng hình tượng “sóng”. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng bất tận, vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái “tôi” trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc lại là sự phân thân của của “em”, của người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, tươi mới và sôi nổi, khát vọng. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng và tình yêu nồng nhiệt của người con gái.

   Sóng biển hóa. Sóng vỗ liên hồi. Triền miên và bất tận: “Dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ – Sóng không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể”. Trạng thái của sóng cũng là những biến thái tâm tình, những khát khao to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương: “Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông dạt dào. Có đến nơi biển rộng trời cao, sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với bao khát khao to lớn.

   Sóng được nữ sĩ làm biểu tuợng cho tình yêu. Miêu tả sóng biến hóa cũng là để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó giải thích của tình yêu. Giống như sóng biển, tình yêu cũng là một hiện tượng kì diệu của con người, rất khó lí giải tường tận. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế, trường tồn, bất biến. Thì tình yêu của con người, mãi mãi là “khát vọng” của tuổi trẻ, của lứa đôi, của “em” và “anh”:

    “Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nơi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

   Sóng tìm đến bể, đến đại dương để tự hiểu mình, cũng như em đến với anh, tìm đến một tình yeu đẹp là để hiểu sâu hơn tâm hồn em, con ngưòi đích thực của em. Người con gái hỏi sóng, hay để tự hỏi mình: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu đâu – Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”.Sóng là sự thức nhận về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được của tình yêu. Cái giây phút giao duyên của lứa đôi “khi nào ta yêu nhau”, tìm được câu trả lời đâu dễ? Chính vì thế mà trong bài thơ tình số 21 (tập thơ “Người làm vườn”) thi hào Tagor đã viết:

    “Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

    Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”.

             (Đào Xuân Quý dịch)

   Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những gái, trai đang sống trong một tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội…, dịu êm… ồn ào… lặng lẽ”… sóng “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước”, sóng “nhớ bờ” – tất cả đều tượng trưng cho tình yêu và nỗi nhớ. Yêu tha thiết, mãnh liệt, Nhớ bồi hồi, triền miên. Nổi nhớ ấy da diết, giày vò, choán đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

    “Con sóng dưới lòng sâu,

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm ngủ không ngủ được”.

   Thật là tự nhiên và thơ mộng “con sóng nhớ bờ” nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng như bến thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào người con gái cũng bồi hồi thương nhớ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    “Còn thức” nghĩa là lúc nào em cũng thấy rõ hình dáng anh, ánh mắt anh, nụ cười anh… một tình yêu nồng nhiệt, say mê!

   Con sóng khao khát tới bờ để vỗ về, ve vuốt “Hôn thật khẽ thật êm – Hôn êm đềm mãi mãi….” (Xuân Diệu). Em cũng khao khát mong được đến với anh, hòa nhịp trong tình yêu anh. Tình yêu của người con gái thật trong sáng nồng nàn và mãnh liệt. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được “tới bờ”, cũng như em và anh sẽ vượt qua mọi khó khãn, đi tới một tình yêu đẹp, được sống trong hạnh phúc trọn vẹn lứa đôi:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”.

   Điều mong ước ấy nói lên một tấm lòng, một trái tim nồng hậu chan chứa yêu thương. Người con gái ấy đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành và say mê. Thắm thiết, chân tình và thủy chung là phẩm chất của tình yêu. “Sóng” đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái mong được sống hết mình với “anh” trong một tình yêu sắt son chung thủy:

    “Dẫu xuôi về phương bắc

    Dẫu ngược về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh – một phương”.

   Cuối cùng, sóng cũng nói giúp nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, sống hết mình trong tình yêu. Trong tình yêu lứa đôi đầm thắm đẹp và bền vững như “trăm con sóng nhỏ” tan ra trên đại dương mênh mông, được hòa nhập trong “biển lớn tình yêu” của cộng đồng. Lời nguyện cầu của người con gái cho thấy một tâm hồn rất cao cả trong tình yêu:

    “Làm sao tan ra được

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ”.

   Cả bài thơ, nếu kể thêm nhan đề, tác giả 11 lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ biến hóa như tâm tình xôn xao. Hình tượng sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu, nhịp điệu của sóng, cũng là giọng điệu tâm tình, nhạc điệu của bài thơ. Thơ liền mạch, phong phú về vần điệu, trong sáng trong biểu cảm, lúc bồi hồi tha thiết, lúc day dứt bồn chồn, lúc mạnh mẽ ồn ào. Sóng trên đại dương cũng là sóng vỗ trong lòng người con gái. Cái hay của bài thơ là ở âm điệu ấy.

   Qua hình tượng sóng và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung, tâm hồn trong sáng, đa tình của người con gái. Người con gái ấy chủ động bày tỏ những khát khao, những rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đã có một nàng Vọng Phu, một hòn Trống Mái. Cũng đã có những thiên tình sử diễm lệ, những vần ca dao nói vể tình yêu trai gái làng quê. Ở đây cũng vậy, Xuân Quỳnh nói lên một tình yêu đẹp của người phụ nữ: quyết tâm vượt qua mọi cách trở, khó khăn để xây đắp một tình yêu son sắt thủy chung, trọn vẹn trong hạnh phúc như trăm ngàn con sóng kia “ngàn năm còn vỗ” giữa đại dương, “Giữa biển lớn tình yêu” bao la. Người con gái được nói đến trong bài thơ “Sóng” đã có một tâm hồn đẹp, một khát vọng về hạnh phúc nên đã có một tình yêu trong sáng bền đẹp.

   Xuân Quỳnh viết bài thơ tình này vào những ngày cuối năm 1967, khi mà cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Trai tráng ào ào ra trận “Xe dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Sân đình, bến nước, gốc đa, sân ga, sân trường… diễn ra những “cuộc chia li màu đỏ”. Có đặt bài “Sóng” vào trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy, mới cảm nhận hết nỗi nhớ và khao khát về hạnh phúc của người con gái đang yêu:

    “Ôi con con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được….”.

Đề bài: Phân tích hình tượng “Sóng” trong bài thơ của Xuân Quỳnh, Anh (chị) cảm nhận được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ này?

Bài làm

   Bài thơ “Sóng”của Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, in lần đầu trong tập “Hoa dọc chiến hào”,xuất bản năm 1968.

   Bài thơ là lời tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.

   Đầu để bài thơ là “Sóng”, toàn bài được dệt bằng hình tượng trung tâm ấy. Xuân Quỳnh đã nối tiếp một truyền thống trong văn học ta là lấy đế hình dung tình yêu:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ

   Bắt đầu là sóng nước. Đúng là như vậy, không kể ở sông hay ở bể, có lúc sóng dữ dội, ồn ào,có lúc lại dịu êm, lặng lẽ. Sóng luôn luôn biến đổi muôn hình muôn vẻ. Quan sát những biểu hiện đa dạng của sóng, Xuân Quỳnh tìm thấy sự tương hợp với từng trạng thái tâm hồn của con người khi yêu. Đó là những trạng thái nhiều khi trái ngược, nó chứa đựng những khát khao to lớn về một tình yêu chân chính.

   Từ sông, “Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông rộng, vô cùng sâu, trời nước bao la, có nồm nam êm nhẹ, có bão tố dữ dội… Ở nơi như thế, may ra sóng mới hiểu nối mình.

   Mượn sóng để làm biểu tượng cho tình yêu, miêu tả sóng với những đặc điểm kì lạ cũng là để nói tới cái phức tạp, đa dạng, khó giải thích của tình yêu. Giống như sóng, tình yêu cũng là một hiện tượng khó lí giải cho rõ ràng, minh bạch. Tình yêu là vậy, nhưng khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời khổng thay đổi. “Con sóng xưa” thế nào thì con sóng “Ngày sau vẫn thế”. Đó là quy luật bất di bất dịch của tự nhiên và quy luật tình yêu.

   Nếu “Sóng tìm ra tận bể” để tự hiểu mình thì em cũng sẽ tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em. Giữa đại đương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? “Sóngbắt đầu từ gió”. Có gió mới có sóng, tất nhiên là vậy. Thế “Gió bắt đầu từ đâu”! Câu trả lời không phải dễ dàng. Thế là “ra tận bể” mà sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em cũng hòa nhập vào biển lớn của tình yêu anh mà nào em đã hiểu em? Em yêu anh từ đâu? Giọng nói? Nụ cười? Ánh mắt? “Em cũng không biết nữa” và chỉ cần hiểu rằng “ta yêu nhau” là đủ. Tâm trạng ấy có lẽ là điển hình của người đang yêu chăng?

   Như vậy sóng là biểu tượng của tình yêu. Và sóng cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng. Nó choán đầy không gian, thời gian, nó hiển hiện mọi nơi, mọi lúc:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được.

   Vẫn mượn chuyện sóng để nói chuyện người. Tình yêu của em chính là sóng đó. Chỉ có sóng đại đương mênh mông mới có thể sánh được với khát vọng tình yêu của em, “Con sóng dưới lòng sâu, con sóng trên mặt nước” là những cung bậc khác nhau của nỗi em nhớ anh. Nỗi nhớ có cái biểu hiện trên bề mặt mà cũng có cái ẩn chứa tận “dưới lòng sâu”. Thức mà nhớ, không nói làm gì; trong mơ mà nhớ là cái nhớ đến dày vò, thao thức. Tình yêu là vậy: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”.

   Ở trên đang còn che giấu ít nhiều nhờ lời sóng thì đến đây bỗng nhiên vứt bỏ cái vỏ vay mượn ấy đi, để trái tim tự thốt lên lời. Trái tim đòi nói thật bởi nó đầy ắp tình yêu và tình yêu ấy cũng đã chín muồi.

   Con sóng khao khát tới bờ đc vỗ về, ve vuốt; em cũng khao khát mong được đến với anh, hoà nhập trong tình yêu anh. Tình yêu và khát vọng của người phụ nữ thật trong sáng và mảnh liệt.

   Xuân Quỳnh còn mượn sóng để nói lên lòng chung thuỷ và niềm tin son sắt:

    Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở.

   Hãy nhìn những con sóng đại dương. Dù gió xô bào giật tới phương nào đi nữa, cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng vậy. Cho dù gặp bao khó khăn, em cũng sẽ vượt qua hết đổ đến với anh, bởi tình yêu đã cho cm sức mạnh. Niềm tin và nghị lực, em tìm thấy ở thiên nhiên và ở chính mình. Khi đã yêu thực lòng, “Dù muôn vời cách trở”, chúng ta vẫn đến được với nhau. An ủi động viên mình và cũng là an ủi, động viên người yêu để có thêm ý chí trên đường đi tìm hạnh phúc.

   Cuối cùng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc vĩnh cửu cung được gửi gắm vào hình tượng sóng. Người phụ nữ mong muốn được sống trọn vẹn cho tình yêu và được hòa nhập vói thiên nhiên vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Nỗi trăn trở đã thành bức xúc: “Làm sao được tan ra, Thành trăm con sóng nhỏ” trong đại dương bao la, vô tận kia để được sống mãi và yêu mãi: “Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ”.

   Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính. Mỗi câu, mỗi chữ trong đoạn thơ đều được chọn lựa, sắp xếp khéo léo nên giá trị biểu cảm rất cao.

   Qua hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh đã làm nổi bật tâm trạng người con gái Việt Nam khi yêu: dịu dàng, thủ thỉ, đằm thắm mà không kém phần sôi nổi, mãnh liệt. Nét đẹp ấy được thể hiện bằng một hình thức tưởng như cũ mà lại rất mới. Hình tượng sóng nhiều nhà thơ lớp trước đã sử dụng nhưng vào thơ Xuân Quỳnh nó lại mang một vẻ đẹp lấp lánh, khác lạ.

   Người đọc yêu mến bài thơ “Sóng” vì nó đã biểu hiện những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ khi yêu và một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương.

Đề bài: Phân tích hình tượng “Sóng” trong bài thơ của Xuân Quỳnh, Anh (chị) cảm nhận được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ này?

   Xuân Quỳnh (1942 – 1988) nổi tiếng với nhiều bài thơ tình như “Thuyền và biển”, “Sóng”… Bài thơ “Sóng” được viết vào cuối năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968.

    Bài thơ nói lên một tình yêu đẹp của người con gái: yêu chân thành tha thiết, nồng nhiệt và thủy chung.Tình vêu trẻ trung ấy là khát vọng một hạnh phúc trọn vẹn của đôi lứa.

    Sắc điệu trữ tình được dệt nên bằng hình tượng “sóng”. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng bất tận, vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái “tôi” trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc lại là sự phân thân của của “em”, của người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, tươi mới và sôi nổi, khát vọng. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng và tình yêu nồng nhiệt của người con gái.

    Sóng biển hóa. Sóng vỗ liên hồi. Triền miên và bất tận: “Dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ – Sóng không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể”. Trạng thái của sóng cũng là những biến thái tâm tình, những khát khao to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương: “Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông dạt dào. Có đến nơi biển rộng trời cao, sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với bao khát khao to lớn.

    Sóng được nữ sĩ làm biểu tuợng cho tình yêu. Miêu tả sóng biến hóa cũng là để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó giải thích của tình yêu. Giống như sóng biển, tình yêu cũng là một hiện tượng kì diệu của con người, rất khó lí giải tường tận. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế, trường tồn, bất biến. Thì tình yêu của con người, mãi mãi là “khát vọng” của tuổi trẻ, của lứa đôi, của “em” và “anh”:

    “Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nơi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Sóng tìm đến bể, đến đại dương để tự hiểu mình, cũng như em đến với anh, tìm đến một tình yeu đẹp là để hiểu sâu hơn tâm hồn em, con ngưòi đích thực của em. Người con gái hỏi sóng, hay để tự hỏi mình: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu đâu – Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”.Sóng là sự thức nhận về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được của tình yêu. Cái giây phút giao duyên của lứa đôi “khi nào ta yêu nhau”, tìm được câu trả lời đâu dễ? Chính vì thế mà trong bài thơ tình số 21 (tập thơ “Người làm vườn”) thi hào Tagor đã viết:

    “Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

    Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”.

    (Đào Xuân Quý dịch)

    Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những gái, trai đang sống trong một tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội…, dịu êm… ồn ào… lặng lẽ”… sóng “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước”, sóng “nhớ bờ” – tất cả đều tượng trưng cho tình yêu và nỗi nhớ. Yêu tha thiết, mãnh liệt, Nhớ bồi hồi, triền miên. Nổi nhớ ấy da diết, giày vò, choán đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

    “Con sóng dưới lòng sâu,

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm ngủ không ngủ được”.

    Thật là tự nhiên và thơ mộng “con sóng nhớ bờ” nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng như bến thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào người con gái cũng bồi hồi thương nhớ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    “Còn thức” nghĩa là lúc nào em cũng thấy rõ hình dáng anh, ánh mắt anh, nụ cười anh… một tình yêu nồng nhiệt, say mê!

    Con sóng khao khát tới bờ để vỗ về, ve vuốt “Hôn thật khẽ thật êm – Hôn êm đềm mãi mãi….” (Xuân Diệu). Em cũng khao khát mong được đến với anh, hòa nhịp trong tình yêu anh. Tình yêu của người con gái thật trong sáng nồng nàn và mãnh liệt. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được “tới bờ”, cũng như em và anh sẽ vượt qua mọi khó khãn, đi tới một tình yêu đẹp, được sống trong hạnh phúc trọn vẹn lứa đôi:

    “Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở”.

    Điều mong ước ấy nói lên một tấm lòng, một trái tim nồng hậu chan chứa yêu thương. Người con gái ấy đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành và say mê. Thắm thiết, chân tình và thủy chung là phẩm chất của tình yêu. “Sóng” đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái mong được sống hết mình với “anh” trong một tình yêu sắt son chung thủy:

    “Dẫu xuôi về phương bắc

    Dẫu ngược về phương nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh – một phương”.

    Cuối cùng, sóng cũng nói giúp nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, sống hết mình trong tình yêu. Trong tình yêu lứa đôi đầm thắm đẹp và bền vững như “trăm con sóng nhỏ” tan ra trên đại dương mênh mông, được hòa nhập trong “biển lớn tình yêu” của cộng đồng. Lời nguyện cầu của người con gái cho thấy một tâm hồn rất cao cả trong tình yêu:

    “Làm sao tan ra được

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ”.

    Cả bài thơ, nếu kể thêm nhan đề, tác giả 11 lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ biến hóa như tâm tình xôn xao. Hình tượng sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu, nhịp điệu của sóng, cũng là giọng điệu tâm tình, nhạc điệu của bài thơ. Thơ liền mạch, phong phú về vần điệu, trong sáng trong biểu cảm, lúc bồi hồi tha thiết, lúc day dứt bồn chồn, lúc mạnh mẽ ồn ào. Sóng trên đại dương cũng là sóng vỗ trong lòng người con gái. Cái hay của bài thơ là ở âm điệu ấy.

    Qua hình tượng sóng và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung, tâm hồn trong sáng, đa tình của người con gái. Người con gái ấy chủ động bày tỏ những khát khao, những rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đã có một nàng Vọng Phu, một hòn Trống Mái. Cũng đã có những thiên tình sử diễm lệ, những vần ca dao nói vể tình yêu trai gái làng quê. Ở đây cũng vậy, Xuân Quỳnh nói lên một tình yêu đẹp của người phụ nữ: quyết tâm vượt qua mọi cách trở, khó khăn để xây đắp một tình yêu son sắt thủy chung, trọn vẹn trong hạnh phúc như trăm ngàn con sóng kia “ngàn năm còn vỗ” giữa đại dương, “Giữa biển lớn tình yêu” bao la. Người con gái được nói đến trong bài thơ “Sóng” đã có một tâm hồn đẹp, một khát vọng về hạnh phúc nên đã có một tình yêu trong sáng bền đẹp.

    Xuân Quỳnh viết bài thơ tình này vào những ngày cuối năm 1967, khi mà cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Trai tráng ào ào ra trận “Xe dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Sân đình, bến nước, gốc đa, sân ga, sân trường… diễn ra những “cuộc chia li màu đỏ”. Có đặt bài “Sóng” vào trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy, mới cảm nhận hết nỗi nhớ và khao khát về hạnh phúc của người con gái đang yêu:

    “Ôi con con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được….”.

    Bài thơ “Sóng”của Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, in lần đầu trong tập “Hoa dọc chiến hào”,xuất bản năm 1968.

    Bài thơ là lời tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.

    Đầu để bài thơ là “Sóng”, toàn bài được dệt bằng hình tượng trung tâm ấy. Xuân Quỳnh đã nối tiếp một truyền thống trong văn học ta là lấy đế hình dung tình yêu:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ

    Bắt đầu là sóng nước. Đúng là như vậy, không kể ở sông hay ở bể, có lúc sóng dữ dội, ồn ào,có lúc lại dịu êm, lặng lẽ. Sóng luôn luôn biến đổi muôn hình muôn vẻ. Quan sát những biểu hiện đa dạng của sóng, Xuân Quỳnh tìm thấy sự tương hợp với từng trạng thái tâm hồn của con người khi yêu. Đó là những trạng thái nhiều khi trái ngược, nó chứa đựng những khát khao to lớn về một tình yêu chân chính.

    Từ sông, “Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông rộng, vô cùng sâu, trời nước bao la, có nồm nam êm nhẹ, có bão tố dữ dội… Ở nơi như thế, may ra sóng mới hiểu nối mình.

    Mượn sóng để làm biểu tượng cho tình yêu, miêu tả sóng với những đặc điểm kì lạ cũng là để nói tới cái phức tạp, đa dạng, khó giải thích của tình yêu. Giống như sóng, tình yêu cũng là một hiện tượng khó lí giải cho rõ ràng, minh bạch. Tình yêu là vậy, nhưng khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời khổng thay đổi. “Con sóng xưa” thế nào thì con sóng “Ngày sau vẫn thế”. Đó là quy luật bất di bất dịch của tự nhiên và quy luật tình yêu.

    Nếu “Sóng tìm ra tận bể” để tự hiểu mình thì em cũng sẽ tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em. Giữa đại đương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? “Sóngbắt đầu từ gió”. Có gió mới có sóng, tất nhiên là vậy. Thế “Gió bắt đầu từ đâu”! Câu trả lời không phải dễ dàng. Thế là “ra tận bể” mà sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em cũng hòa nhập vào biển lớn của tình yêu anh mà nào em đã hiểu em? Em yêu anh từ đâu? Giọng nói? Nụ cười? Ánh mắt? “Em cũng không biết nữa” và chỉ cần hiểu rằng “ta yêu nhau” là đủ. Tâm trạng ấy có lẽ là điển hình của người đang yêu chăng?

    Như vậy sóng là biểu tượng của tình yêu. Và sóng cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng. Nó choán đầy không gian, thời gian, nó hiển hiện mọi nơi, mọi lúc:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được.

    Vẫn mượn chuyện sóng để nói chuyện người. Tình yêu của em chính là sóng đó. Chỉ có sóng đại đương mênh mông mới có thể sánh được với khát vọng tình yêu của em, “Con sóng dưới lòng sâu, con sóng trên mặt nước” là những cung bậc khác nhau của nỗi em nhớ anh. Nỗi nhớ có cái biểu hiện trên bề mặt mà cũng có cái ẩn chứa tận “dưới lòng sâu”. Thức mà nhớ, không nói làm gì; trong mơ mà nhớ là cái nhớ đến dày vò, thao thức. Tình yêu là vậy: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”.

    Ở trên đang còn che giấu ít nhiều nhờ lời sóng thì đến đây bỗng nhiên vứt bỏ cái vỏ vay mượn ấy đi, để trái tim tự thốt lên lời. Trái tim đòi nói thật bởi nó đầy ắp tình yêu và tình yêu ấy cũng đã chín muồi.

    Con sóng khao khát tới bờ đc vỗ về, ve vuốt; em cũng khao khát mong được đến với anh, hoà nhập trong tình yêu anh. Tình yêu và khát vọng của người phụ nữ thật trong sáng và mảnh liệt.

    Xuân Quỳnh còn mượn sóng để nói lên lòng chung thuỷ và niềm tin son sắt:

    Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở.

    Hãy nhìn những con sóng đại dương. Dù gió xô bào giật tới phương nào đi nữa, cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng vậy. Cho dù gặp bao khó khăn, em cũng sẽ vượt qua hết đổ đến với anh, bởi tình yêu đã cho cm sức mạnh. Niềm tin và nghị lực, em tìm thấy ở thiên nhiên và ở chính mình. Khi đã yêu thực lòng, “Dù muôn vời cách trở”, chúng ta vẫn đến được với nhau. An ủi động viên mình và cũng là an ủi, động viên người yêu để có thêm ý chí trên đường đi tìm hạnh phúc.

    Cuối cùng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc vĩnh cửu cung được gửi gắm vào hình tượng sóng. Người phụ nữ mong muốn được sống trọn vẹn cho tình yêu và được hòa nhập vói thiên nhiên vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Nỗi trăn trở đã thành bức xúc: “Làm sao được tan ra, Thành trăm con sóng nhỏ” trong đại dương bao la, vô tận kia để được sống mãi và yêu mãi: “Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ”.

    Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính. Mỗi câu, mỗi chữ trong đoạn thơ đều được chọn lựa, sắp xếp khéo léo nên giá trị biểu cảm rất cao.

    Qua hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh đã làm nổi bật tâm trạng người con gái Việt Nam khi yêu: dịu dàng, thủ thỉ, đằm thắm mà không kém phần sôi nổi, mãnh liệt. Nét đẹp ấy được thể hiện bằng một hình thức tưởng như cũ mà lại rất mới. Hình tượng sóng nhiều nhà thơ lớp trước đã sử dụng nhưng vào thơ Xuân Quỳnh nó lại mang một vẻ đẹp lấp lánh, khác lạ.

    Người đọc yêu mến bài thơ “Sóng” vì nó đã biểu hiện những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ khi yêu và một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương.

Đề bài: Bài “Sóng” của Xuân Quỳnh có đoạn:

    “Ôi con sóng ngày xưa

    (…) Cả trong mơ còn thức”.

Hãy phân tích đoạn thơ để làm nổi rõ sức gợi cảm phong phú, bất ngờ của hình tượng “sóng” trong sự liên hệ, đối sánh với nhân vật trữ tình “em”.

Bài làm

    “Sóng” là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

    Bốn khổ thơ dưới đây trích trong phần đẩu bài thơ. Hình tượng “sóng” trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình “em” đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:

    “Ôi con sóng ngày xưa

   

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muồn đời của lứa đỏi, là “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, “bồi hồi”:

    “Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân vãn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tổn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm,cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:

    “Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh, em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào sóng lên”.

    Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tìn mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khỉ nào ta yêu nhau?” nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:

    “Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy

    Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”

                 (Thế Lữ)

    Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng gợi cảm:

    “Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được”.

    Cấu trúc song hành, đối xứng: “dưới lòng sâu // trên mặt nước”, “ngày // đêm”, “nhớ bờ // không ngủ được” và điệp ngữ “con sóng” đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, và cả trong lòng người.

    Xuân Quỳnh có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:

    “Những ngày không gặp nhau

    Biển bạc đầu thương nhớ

    Những ngày không gặp nhau

    Lòng thuyền đau rạn vỡ…”.

             (Thuyền và biển)

    Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nổi nhớ của “em”, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.

    Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:

    “Anh xin làm sóng biếc

    Hôn mãi cát vàng em

    Hôn thật khẽ thật êm

    Hôn êm đềm mãi mãi”…

    Bài thơ “Biển” là một thử thách lán đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thể nói là “bất ngờ”.

    Người thiếu nữ trong bài thơ “Sóng” đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là “khát vọng”.

Đề bài: “Sóng” là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Anh (chị) hãy bình giảng khổ thơ dưới đây để làm sáng tỏ nhận định trên:

    “Con sóng dưới lòng sâu

    (…) Hướng về anh một phương”

Bài làm

    “Sóng” của Xuân Quỳnh (1942-1988) là một bài thơ tình rất đẹp. Vẻ đẹp của một tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vỗ. Vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết biết bao:

    “Con sóng dưới lòng

   

    Hướng về anh một phương”.

    Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: ” nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rất đắt, tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu:

    “Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được”.

    Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm”, sóng vẫn “nhớ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”.Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “Ôi con sóng nhớ bờ…”.

    Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

    “Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choán ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa nhập hai tâm hồn. Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đối với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẻ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao:

    “Nhớ ai em những khóc thầm

    Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa”.

   hay:

    “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

    Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”.

    hay:

    “Nhớ ai nhớ mãi thế này?

    Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”.

    Qua đó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh — Cả trong mơ còn thức”.

    Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở vế thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “trăm năm một chữ đồng đến xương” (“Truyện Kiều”). Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau. Với “em” thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “dẫu xuôi về phương Bắc – dẫu ngược phương Nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mĩ (1967), lòng em vẫn “hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ:

    “Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh một phương”.

    Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định môt cách mạnh mẽ. Chữ “một” trong câu thơ “hướng vê anh một phương” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung.

    Có thể nói, đoạn thơ trên đây là một âm vang của tiếng sóng, là một khúc tâm tình của thiếu nữ trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Trái tim của thiếu nữ nồng hậu và đằm thắm biết bao! Sóng nhớ bờ, em nhớ anh là quy luật muôn đời của tự nhiên, của sự sống và tình yêu. Xuân Quỳnh đã viết nên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng sóng và hình tượng em rất đẹp. Các ẩn dụ và liên tưởng đầy tính nhân văn. Cấu trúc song hành (câu 1 với 2, câu 3, 4 với câu 7, 8) và các điệp ngữ (sóng… dẫu… về, phương) đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.

    “Yêu là chết ở trong lòng một ít”? – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là “khát vọng, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ:

    “Tình yêu là thế,em ơi!

    Hai người mà hóa một người trăm năm …”

            “Lạ chưa?” – Tố Hữu

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh:

    “Cuộc đời tuy dài thế

    (…) Để ngàn năm còn vỗ”.

Bài làm

    Có những vần thơ tình đẹp như thế. Như giọng chim ríu rít đa điêu đa thanh giữa mùa xuân. Có những vần thơ nói lên niềm tin và mong ước về tình yêu hạnh phúc đẹp như thế:

    “Cuộc đời tuy dài thế

    … Để ngàn năm còn vỗ”

    Đây là hai khổ thơ cuối bài thơ ngũ ngôn trường một bài thơ tình tuyệt tác viết về nỗi khát vọng tình yêu của thiếu nữ.

    Từ thương nhớ đợi chờ: “Cả trong mơ còn thức” tâm hồn thiếu nữ ánh lên một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. “Năm tháng” nhất định sẽ “đi qua” cuộc đời “dài” . “Mây” trên bầu trời nhất định sẽ vượt qua biển “rộng” để “bay xa”. Thời gian dài dằng dặng gian rộng mênh mông, cũng như tình yêu là vô cùng mãnh liệt:

    “Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa”.

    Câu 1, 2 song hành đối xứng với câu 3, 4 làm cho giọng thơ, âm điệu thơ tha thiết, ngọt ngào. Cấu trúc chính – phụ được sử dụng đắc địa: “tuy… vẫn… “, “dẫu… vẫn”, ý thơ được khẳng định mạnh mẽ. Điệp từ “vẫn” biểu lộ một niềm tin về tình yêu: “Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. “Năm tháng” và “mây” là 2 ẩn dụ nói về tình yêu, một tình yêu đẹp hướng tới hạnh phúc.

    Tình yêu như con sóng trên biển: “Dữ dội êm – Ồn ào và lặng”. Có lúc “em” lại cảm thấy cô đơn trong xa cách:

    “Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói

    Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em”.

           (“Chỉ có sóng và em”)

    Lại có lúc tràn ngập nỗi nhớ khắc khoải chờ mong:

    “Còn hiện tại của em là nỗi nhớ

    Thời gian ơi sao không đổi sắc màu”.

           (“Thời gian trắng”)

    Còn ở khổ thơ này là niềm tin, một niềm tin mãnh liệt: Con thuyền tình nhất định cập bến bờ hạnh phúc. Nữ sĩ đã lấy độ dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Các từ ngữ: “vẫn đi qua”, “vẫn bay về xa” là sự kết đọng “đinh ninh lời thề” của một tình yêu đẹp.

    Khổ cuối bài thơ là lời nguyện cầu của em về một tình yêu thủy chung bền vững. Hình tượng sóng hội tụ bao cảm xúc nồng hậu:

    “Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ”.

    Hai tiếng “làm sao” gợi lên một niềm mong ước cháy bỏng tâm hồn “em”. Sóng trên đại dương trường tồn bất diệt. “Trăm con sóng nhỏ” rì rào vỗ, xôn xao reo “giữa biển lớn tình yêu” mang vẻ đẹp nhân văn cao quý của tình yêu. Đó là niềm ước mong của thiếu nữ được sống trong hạnh phúc bền vững như những con sóng vỗ mãi trên “biển lớn tình yêu” đến ngàn năm sau. Con số “ngàn năm”, “nghìn năm”, hơn một lần đã từng làm ta xúc động:

    “Nghìn năm giao ước kết đôi

    Non non nước nước không nguôi lời thề”

           “Thề non nước” – Tản Đà

    Tình yêu không hề làm cho em trở nên nhỏ bé ích kỉ; trái lại tình yêu của em sẽ mãi mãi chan hòa trong tình thương của đồng bào, xã hội. Một ý tưởng rất đẹp, rất mới trong tình yêu. Một trái tim đa tình và nhân hậu biết bao!

    Nói đến thơ là nói đến nhạc điệu, vần điệu. Đoạn thơ trên đây có điệu thơ nhẹ nhàng, đằm thắm. Vần thơ phong phú, nhạc điệu dư ba. Sự phối hợp giữa vần bằng và vấn trắc, giữa vần liền và vần cách rất tinh tế, nhịp nhàng. Từ “qua” bắt vần với “xa” và “ra”; chữ “nhỡ” hiệp vẫn với “vỗ”, đọc lên nghe rất thú vị.

    Đoạn thơ hội tụ bao vẻ đẹp. Một ý tưởng đẹp: niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Lời thơ đẹp: thanh tao, ý vị. Giọng thơ nồng nàn, ngọt ngào. Hình tượng “con sóng nhỏ” và “biển lớn tình yêu” rất sáng tạo. Đoạn thơ mang vẻ đẹp nhân văn sáng giá.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1135

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống