Xem toàn bộ tài liệu Lớp 8: tại đây
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 8 (Cực Ngắn)
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 8
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2
Đề bài: Thuyết minh về một giống vật nuôi.
Bài làm – Con Trâu (Bài 1)
Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Bao đời nay, hình ánh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn. Bụng to, da dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ, khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày, nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 – 75kg, tương đương 0,36 – 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3-4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 – 3 sào và loại c 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 – 500 kg, đường tốt là 700 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – lmkhối gỗ trên quãng đường 3 – 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất gián dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và…
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất cua người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu đã có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trớ thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chãm chi cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sông vãn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lề hội cơm mới, Jễ hội xuông đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lê hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giả, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kì tích thống lĩnh 12 sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc… Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy ai mà quản công. Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy maratong, trâu đội nón… rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Xem thêm bài văn mẫu: Thuyết minh về một giống vật nuôi
Trâu là một loài động vật nuôi trong nhà, thuộc bộ trâu bò, là thú nhai lại. Xưa chúng sống hoang dã ở Nam Á, Đông Nam Á như Pakistan, Ấn Độ, Bangladesh, Nepal… và có cả miền Bắc châu Úc. Hiện nay trâu rừng còn tồn tại trong thiên nhiên nhưng không còn nhiều.
Riêng ở Việt Nam, trâu rừng còn rất ít, ở dọc theo dãy Trường Sơn. Di chỉ tìm được ở Phú Lộc, Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa cho thấy trâu Việt Nam đã được thuần hóa từ thời vua Hùng dựng nước. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa thuộc nhóm trâu đầm lầy. Thân hình vạm vỡ, thấp ngắn, có hình khối bầu dục, bụng to, bầu vú nhỏ, sừng dài hình lưỡi liềm, toàn thân phủ lớp lông màu xám hoặc xám đen. Nó thường có 2 vùng lông màu trắng ở dưới cổ và giữa hai sừng.
Trâu cái nặng trung bình từ 250kg đến 400kg. Trâu cái mang thai từ 11 đến 11 tháng rưỡi, mỗi lứa đẻ từ 1 đến 2 con nghé. Trâu đực thường nặng hơn (trung bình từ 400 đến 450kg). Thức ăn chủ yếu của chúng là cỏ, bộ máy tiêu hóa có 4 ngăn để thích hợp cho việc nhai lại. Khi ăn, nó dùng lưỡi vơ cỏ và cắt cỏ bằng răng cửa của hàm dưới. Sau khi bứt cỏ, nó nuốt ngay và chứa vào một túi rất lớn trong bao tử, một lát sau thức ăn được chuyển sang túi tổ ong. Khi nào nghỉ ngơi, nó đưa cỏ lên miệng nhai lại thật kĩ rồi chuyển sang túi thứ tư trong bao từ. Lên 3 tuổi, trâu cái có thể đẻ lứa đầu nhưng đến 45% trâu cái đẻ lứa đầu ở năm 4 tuổi. Trâu ở vùng núi sinh sản nhiều hơn ở đồng bằng (vùng núi 40 – 45%, đồng bằng 20 – 25%). Một đời con trâu cái thường sinh được 5 – 6 nghé. Nghé sơ sinh nặng từ 22 đến 25kg. Răng cửa bắt đầu mọc từ 3 tuổi và kết thúc thời kì sinh trưởng lúc 6 tuổi. Trâu có tính hiền lành thường vâng theo lời chủ, sức khỏe lại bền bỉ dỏe dai, ăn uống dễ, không tốn kém. Từ thuở khai thiên lập địa con người đã thuần hóa trâu để nó cùng khai phá thiên nhiên và tham gia sản xuất với mình. Nó có tầm quan trọng trong đời sống nông dân nên tục ngữ có câu:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp - Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà Trong ba việc ấy thật là khó thay.
Sau 1 ngày làm việc mệt nhọc, điều nó thích nhất là đắm mình trong nước, tắm vùng vẫy nhưng nếu đó là trâu thồ (trâu kéo xe) thì chúng còn phải lăn lội đường xa. Lực kéo cày của trâu trung bình 0,40 mã lực. Trâu loại A mỗi ngày cày được 3 – 4 sào, loại B được 2 – 3 sào, loại C khoảng 1 sào rưỡi. Trâu kéo xe ở đường xấu chở được 400 – 500 kg, trên đường tốt tải trọng của trâu 700 – 800 kg, đến trân 1 tấn.
Một giáo sư người Ý đến Việt Nam truyền đạo Thiên Chúa từ 1738 đến 1765 tại Đàng Ngoài có chứng kiến đám rước trâu trong thời Trịnh Nguyễn, đã kể lại cảnh tượng này trong một bản viết tay, lưu trữ tại thư viện Quốc Gia Pháp. Phan Huy Chú cũng ghi lại Đám rước trâu và Mục đồng trong lễ Lập xuân hàng năm gần giống như vị giáo sư Ý. Các dân tộc ít người miền Trung nước ta và dân Trung Á vẫn giữ tục giết trâu khi tổ chức lễ lạt. Tết Trâu cũng là một phong tục cổ truyền ở các vùng nông thôn Việt Nam. Tại Nga Sơn (Thanh Hóa) và Vĩnh Linh (Quảng Trị) vài ngày trước tết, người ta tìm thứ cỏ thật ngon và mớ rơm khô để thưởng trâu ăn tết. Trâu được tắm rửa sạch sẽ, chuồng quét dọn kỹ càng. Sáng mồng một Tết, mỗi con Trâu được dán trước trán một lá bùa đỏ để trừ tà, xua đuổi vận rủi trong năm cũ cũng như chúc cho trâu năm mới sức khỏe dồi dào, ăn no cày mạnh. Sau khi cúng thần chuồng, trâu cũng được ăn cỗ với các món bánh chưng, thịt cá, xôi, chè… đồng thời chủ cũng chọn ngày tốt dắt trâu cày thử lấy hên.
Trâu còn dùng để xẻ thịt hoặc cho sữa. Trong một chu kì vắt được từ 400 đến 500 kg sữa. Trong 24 giờ trâu thải ra 10kg phân. Trong thịt trâu có gần 22% protit, 3%lipit, 30miligam %canxi, 150miligam % photpho. Đó là loại thịt bổ dưỡng cho nhiều người.
Theo các nhà chuyên môn, trâu chọi phải đầu nhỏ, cổ dài, bờm tròn, lưng hơi nhô lên, sừng trâu phải cứng, vuông ở chân sừng, mặt sừng mịn, không dấu vết, vươn thẳng một mạch lên khỏi đầu, hai chiếc sừng cân đối và như nằm trong một mặt phẳng. Hơn nữa sừng phải kín, tiếng chuyên môn để chỉ những cặp sừng hai đầu không quá cách xa nhau và cũng không cao khỏi trán bao nhiêu. Tốt nhát khi cặp sừng cách trán trâu chừng sáu tấc, 20 phân ngày nay (20cm) và hai đầu sừng cách nhau khoảng 12 tấc. Mắt trâu phải tròn và lanh lợi, nằm dưới cặp vành mắt cứng khỏe. Hàm trâu phải thuộc loại hàm nghiên, nghĩa là đen như nghiên mực. Tai trâu phải thuộc loại sừng, xoáy trâu trên đầu phải nhiều lông và những lông mày phải cứng. Trán phải dẹt, thân phải mập lẳn… Trâu phải cao vây, sa ức, kín sườn, bụng cheo đúng như lời tục ngữ. Vạy là cái bướu ở vai, ức là phía ngực. Muốn kín sường, đôi vai trâu phải to, còn bụng cheo tức là loại bụng hơi lớn lớn.
Người ta còn kén trâu qua đuôi, đùi, chân và các khớp chân: đuôi tròn, đùi dài, chân ngắn, khớp dẻo dai. Ngoài ra, cũng cần để ý tới khoáy trâu, nghĩa là chỗ lông trâu hợp thành từng khoáy đối nhau ở hai bên đùi là con trâu sẽ chiến thắng sau những cuộc giao đấu hăng say.
Loại trâu chọi thường được lựa trong những con trâu từ tám đến mười tuổi.
Hình ảnh con trâu còn là đề tài phổ thơ ca hội họa và âm nhạc của các nước Đông Nam Á. Thập mục ngưu đồ là mộ bộ tranh được một thiền sư Nhật Bản vẽ từ 800 năm trước. Ban đầu nó có tên là thập trận ngưu đồ, dùng để phá công án. Sau khi truyền sang Trung Hoa, bộ tranh này được lưu truyền trong giới Phật học thời nhà Tống (thế kỉ 12), mười bức tranh có đề tài Chăn trâu này được ví với quá trình tu tập trên con đường tiến đến giác ngộ và giải thoát. Thập mục ngưu đồ được du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng đến thời Lê Dụ Tông, thế kỉ XVIII mới được thienf sư Quảng Trí sáng tại lại với những cảnh giới mới để luyện tâm:
"Có thì có tự mảy may Không thì cả thế gian này cũng không Vừa xem bóng nguyệt lòng sông Ai hay không có, có không là gì?"...
Đó mới chính là mục đích của các vị thiền sư sáng tạo ra Thập mục ngưu đồ, mong phật tử tu tập để biến “trâu đen” thành “trâu trắng” tức sự chuyển hóa từ vô mình đến sự giác ngộ, tỉnh thức.
Khi nền kĩ thuật nông nghiệp chưa phát triển, trâu thay cho máy cày, là tài sản quan trọng của người nông dân, khi cơ khí nông nghiệp phát triển, tầm quan trọng của trâu đã lùi xuống nhưng nó vẫn là gia súc quen thuộc và cần thiết cho nông dân hiện nay.